Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Công Án 15-29

14 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8018)
Công Án 15-29

THIÊN KHI NHƯ HUYỄN bình
ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG dịch
TIẾNG SÁO THÉP
(100 CÔNG ÁN THIỀN)

15. ĐẠI TÙY TU BÊN TRONG

 

Đại Tùy nói với tăng chúng, “Này các anh em, thà đào bên trong một tấc còn hơn là thuyết Pháp bên ngoài một thước. Thà tu bên trong một phân còn hơn là giảng bên ngoài một tấc.” Để cân bằng và làm sáng tỏ câu nói này, Động Sơn nói, “Tôi giảng cái gì tôi không thể thiền định, và tôi thiền định cái gì tôi không thể giảng.”

 

Như Huyễn: Đại Từ, hay Thiền sư Khoan Trung, sống trong một ngôi chùa trên núi Đại TừĐộng Sơn là người đồng thời nhưng trẻ hơn hăm bảy tuổi. Trước khi học câu nói của Động Sơn, quí vị cần phải hiểu cặn kẽ lời của Đại Từ. Người Phật giáo Đại thừa muốn giác ngộ tất cả chúng sinh đau khổvô minh. Động cơ thì vĩ đại, nhưng y không nên quên tự tu từng giây từng phút. Y nhập vào đoàn quân viễn chinh chinh phục vô minhgiác ngộ mọi người. Chư Phật và Tổ trong quá khứhiện tại cùng làm việc với y và sẽ tiếp tục công việc của họ trong vị lai. Nếu nhầm một bước là y bị lùi lại phiá sau. 

 Nếu một người lặp lại cái gì y nghe từ người khác hay đọc trong sách, thì chẳng phải y đang truyền bá Pháp mà chỉ là giả mạo mà thôi. Ở Đông phương chúng tôi gọi người như thế là “học giả ba tấc.” Y chỉ đọc sách hay nghe người ta rồi nói, và khoảng cách giữa mắt hay miệng hay giữa tai và miệng cũng chỉ khoản ba tấc [Tàu]. Những ai diễn thuyết hay viết sách về Phật giáobản thân họ không đạt được ánh sáng bên trong thì họ đang làm việc vô ích.

 Một thanh niên Hy lạp ngày xưa có lần hỏi một đồng đội trên chiến trường anh ta có thể làm gì với thanh kiếm quá ngắn của mình. Đồng đội đáp, “Tôi sẽ tiến một bước nhanh hơn những người khác.” Tất cả những gì anh ta có trên thế gian này là cây kiếm duy nhất đó; dù dài hay ngắn, anh ta cũng phải chiến đấu với nó. Cũng giống như chiến sĩ kia, người học Thiền không có ý nghĩ thứ nhì, do đó, y giảng trong lúc thiền địnhthiền định trong lúc giảng. Muốn đạt đến cảnh giới Động Sơn nói, người ta phải đi từng bước một theo con đường Đại Từ dạy tăng chúng.

 

 

 

16. QUI SƠN THỜI GIAN

 

Qui Sơn nói với tăng chúng, “Mùa đông, những ngày lạnh trở lại mỗi năm. Năm ngoái cũng lạnh như năm nay, và năm tới cũng sẽ lạnh y như vậy. Các ông hãy nói tôi biết những ngày nào trong năm đang tái diễn.” Ngưỡng Sơn, một đệ tử lâu năm, bước đến đứng bên thầy với bàn tay phải úp lên nắm tay trái đặt trước ngực. Qui Sơn bình, “Tôi biết ông không thể trả lời câu hỏi của tôi.” Rồi sư quay sang Hương Nghiêm, một đệ tử ít năm hơn, “Ông nói thế nào?” “Con tin chắc là con có thể trả lời câu hỏi của hòa thượng,” Hương Nghiêm đáp và bước đến đứng bên thầy với bàn tay phải úp lên nắm tay trái đặt trước ngực như vị tăng thâm niên kia đã làm. Nhưng Qui Sơn làm ngơ và nhận xét, “Tôi vui vì ông sư huynh đã không thể đáp được câu hỏi của tôi.”

 

Như Huyễn: Chùa của Qui Sơn trên núi là nơi tăng chúng cảm thấy cái lạnh khắc nghiệt của mùa đông. Một vài tăng nhân đã ở lại trong chùa trải qua những ngày tháng vô ích. Nhớ đến những ngày lạnh mùa đông, trẻ con nghĩ đến lễ Giáng Sinh. Qui Sơn đang cảnh cáo tăng chúng chớ lãng phí qua ngày mà chẳng ngộ đạt Thiền.

 Thời gian là gì và nó bắt đầu khi nào? Khi nào nó chấm dứt? Quí vị học Thiền như thế nào? Thiền hằng ngày của quí vị trong thế giới thực tiễn như thế nào?

 Không gianthời gian là những đề tài biện luận của triết học qua các thời đại. Einstein đã đưa chúng vào lãnh vực toán học và khoa học.

 Thời gian, do cá nhân kinh nghiệm ở nhiều thời kỳ trong cuộc đời y, thì khác với thời gian vật lý học, phát minh của con người dùng để ghi dấu các ngày. Khi Ngưỡng Sơn đứng trước thầy với bàn tay trái úp lên nắm tay phải đặt trên ngực, sư đang làm dấu hiệu chào để bày tỏ Thiền của sư. Đây là những gì các ngày của năm lặp đi lặp lại; sư đã nói lên triết lý của sư trong im lặng

 Đối với nhà vật lý học, quá khứvị lai giống nhau, chỉ khác nhau về chiều hướng như các chiều hướng trên cái la bàn, nhưng đối với một người đang sống thì chúng khác nhau. Một người cuộn tròn quá khứ của mình và mang nó theo bất cứ chỗ nào y đi. Khi Qui Sơn nói, “Tôi biết ông không thể trả lời câu hỏi của tôi,” sư chỉ muốn thăm dò Ngưỡng Sơnbiếng nhác không. Sư chấp nhận kinh nghiệm của cả hai đệ tử, nhưng cũng bày tỏ Thiền của mình, phi thời gian và vô hình thể khi nó chớp lên.

 

 

 

 

 

 

 

17. ĐẠI TÙY CON RÙA

 

Một ông tăng thấy một con rùa trong vườn chùa của Đại Tùy, hỏi sư, “Tất cả chúng sinh đều có da thịt bọc xương. Tại sao chúng sinh này lại có xương bọc da thịt?” Hòa thượng Đại Tùy đáp bằng cách lấy đôi dép của mình che lên con rùa. 

 

Như Huyễn: Ông tăng này có thói quen xấu là nhảy ngay vào kết luận. Ông ta nghĩ nếu một điều đã đúng vào lúc này thì cũng phải đúng vào mọi lúc và mọi nơiĐại Tùy tìm cách cứu ông tăng ra khỏi loại phân biệt này và giúp ông tăng nhận ra nhất thể.

 Khi quí vị thấy những điều bất thường, không nên kinh động. Trước hết hãy tẩy sạch những nhận thức sai, tự giới hạn của mình về sự vật và đối diện trọn vẹn với thực tại. Tử là gì? Sanh là gì? Phật là gì? Ngộ là gì?

 Genro dẫn một bài thơ xưa ở cuối lời bình của sư; tôi sẽ dịch toàn bộ bài thơ để làm kết luận cho câu chuyện này.

 

Genro: Bạn bè thời thơ ấu,

 Giờ đây biết rõ ràng.

 Họ luận bàn triết lý,

 Viết luận văn, phê bình.

 Tôi trở thành kẻ già,

 Trở thành vô tích sự.

 Chiều nay mưa là bạn.

 Tôi thắp lên nén nhang,

 Nằm dài trong hương ngát,

 Tôi nghe tiếng gió thổi,

 Cạnh cửa sổ rèm tre.

 

 18. LÂM TẾ TRỒNG TÙNG

 

Một hôm khi Lâm Tế đang trồng một cây tùng trong vườn chùa, thầy của sư là Hoàng Bá chợt đến chỗ sư. Hoàng Bá hỏi, “Chúng ta có cây tốt quanh chùa. Sao ông còn trồng thêm cây này?” Lâm Tế đáp, “Thứ nhất, giống trường xuân này sẽ làm đẹp cảnh chùa; thứ hai, làm chỗ trú cho tăng nhân thế hệ sau.” Lâm Tế nói xong liền dộng cuốc xuống đất ba lần để làm cho cây mới trồng thêm vững. Hoàng Bá nói, “Ông tự khẳng định không hợp ý tôi.” Lâm Tế làm ngơ lời thầy, và thì thầm, “Xong rồi,” và dộng cuốc xuống đất ba lần như trước. Hoàng Bá nói, “Ông sẽ làm cho giáo pháp của ta tồn tại trên thế gian này.”

 

Như Huyễn: Lâm Tế đang tạo biểu tượng cho Thiền của sư khi sư trồng cây ấy bên ngôi chùa, nơi sư đã thọ nhận Pháp, nhưng không muốn ai để ý đến nó cho đến khi nó già. Thầy của sư biết rất rõ sư nghĩ gì, nhưng muốn khám phá một cách trọn vẹn, vì thế đã nói làm như mình đang quan sát vườn chùa. Lâm Tế đã đáp theo cách không ám chỉ gì đến Thiền. Thiền nên được giữ gìn theo cách này. Ông thầy còn nói gì được nữa trừ lời khen ngợi.

 

 

 

19. TRIỆU CHÂU VIẾNG CHÙA

 

Triệu Châu định đi viếng một ngôi chùa trên núi, khi ấy một ông tăng trưởng lão viết một bài thơ cho sư:

 

Núi xanh nào chẳng là thánh địa

Sao còn vác gậy viếng Tịnh Lương?

Nếu trong mây hiện sư tử lông vàng

Ấy chẳng phải là điềm lành chi hết.

 

Sau khi đọc bài thơ, Triệu Châu hỏi, “Mắt nào là mắt chánh?” 

 Ông tăng không đáp.

 

 Như Huyễn: Một bài thơ Đường nói:

 

 Tất cả núi là chùa của Văn Thù.

 Núi xanh xa và núi lục gần,

 Mỗi mỗi đều có thờ Bồ Tát.

 Nhọc công chi leo núi Tịnh Lương?

Kinh nói Văn Thù cưỡi sư tử lông vàng.

Ảo ảnh ấy thấy trong mây trên núi,

Chẳng phải thật với mắt Thiền tăng,

Cũng chẳng phải hạnh phúc y tìm.

 

Genro ca ngợi bài thơ của ông tăng cũng như câu hỏi sắc bén của Triệu Châu. Có một công án: Quan Âm ngàn mắt. Mắt nào là mắt chánh?

Ông tăng có thể đã trả lời bằng im lặng, nhưng nếu ông ta thích im lặng lắm thì tại sao ông ta không im lặng ngay từ đầu thay vì làm thơ? Nếu Triệu Châu đã có mắt chánh thì sư còn hỏi làm gì? Bây giờ, hãy nói tôi nghe thế nào là mắt chánh?

 

 

 

 

 

20. ĐỨC SƠN HIỀN ĐỨC NGÀY XƯA

 

Quách thị giả hầu thầy là Đức Sơn. Một hôm Quách thị giả hỏi, “Con cho rằng các bậc hiền đức ngày xưa đã đi đến một nơi nào đó. Hoà thượngvui lòng nói cho con biết là các ngài đã trở thành gì không?” Đức Sơn đáp, “Tôi không biết họ ở chỗ nào.” Quách thị giả thất vọng, “Con đang mong câu trả lời giống ngựa phi, nhưng chỉ được câu giống rùa bò.” Đức Sơn im lặng tựa như người bị bại trận tranh luận. Hôm sau Đức Sơn đi tắm rồi đến phòng khách, Quách thị giả mời sư uống trà. Sư vỗ nhẹ lên lưng thị giả và hỏi, “Công án hôm qua thế nào rồi?” Thị giả đáp, “Thiền của hòa thượng khá hơn hôm qua.” Nhưng Đức Sơn chẳng nói gì, lại giống như kẻ bị bại trong cuộc tranh luận.

 

Như Huyễn: Quách thị giả hỏi về các sư ngày xưa như một số người nghĩ thiên đường như là một thế giới vinh quang. Nơi đó những người đã chết trên mặt đất tiếp tục việc làm của họ. Bao lâu ông thị giả còn trung thành phục vụ thầy, tại sao lại phải tự mình phiền nhiễu với những vấn đề như thế? Dù một đệ tử có thể nghĩ rằng thầy mình là “sư,” ông thầy không chấp nhận một danh hiệu như thế bởi vì Thiền của ông không tách lìa với Thiền của họ, và Pháp của ông là một thành phần tạo thành Pháp của họ. Đức Sơn rất tử tế với ông tăng, người có Thiền không khác hơn giấc mộng hôm qua. Có thể Đức Sơn đã nghĩ, “Dùng để làm gì,” nhưng sư vẫn im lặng.

 

Genro: Tim cổ đức lạnh như sắt thép,

 Mà phàm tình không thể xử phân.

 Họ tới lui nhanh như ánh chớp,

 Vào và ra giống như huyễn thuật.

 Ai phê bình cũng chẳng động tâm.

 Đỉnh núi cao còn có thể leo,

 Đáy biển sâu không sao dò được.

 Dưới chân sư phải nên ra sức, Đức Sơn, thị giả ăn chẳng chung bàn.

 

 

 

21. PHẦN DƯƠNG CÂY GẬY

 

Phần Dương giơ cây gậy lên và nói với tăng chúng, “Ai thấu suốt được cây gậy này thì việc hành cước cầu Thiền đã xong.”

 

Như Huyễn:  Thiền tăng thường du hành bằng chân, đôi khi phải leo những ngọn núi không có lối mòn và vượt qua những dòng sông không biết tên, họ đem theo cây gậy dài cao hơn họ. Phần Dương đã hành cước nhiều năm khi sư còn trẻ, viếng hơn bảy mươi bậc thầy, vì vậy đã giữ cây gậy của mình làm vật kỷ niệm. Trong câu chuyện sư dùng cây gậy bày tỏ Thiền của sư với tăng chúng. Nó chẳng phải là vật kỷ niệm. Nó chẳng phải là một biểu tượng. Nó là cái gì? Quí vị không thể thấy nó bằng mắt. Quí vị không thể nắm nó bằng tay. Quí vị không thể ngửi nó bằng mũi. Quí vị không thể nghe nó bằng tai. Quí vị không thể nếm nó bằng lưỡi. Quí vị không thể hình thành nó bằng ý nghĩ. Đây, nó đây!

 

Genro: Chư Phật quá khứ, hiện tạivị lai nhập vào Phật giới khi các ngài hiểu cây gậy này. Tất cả chư Tổ đời này sang đời khác thành tựu qua cây gậy này. Lời Phần Dương nói đúng; không ai phủ nhận được. Tuy nhiên, tôi phải nói rằng ai hiểu được cây gậy sẽ bắt đầu hành cước thay vì chấm dứt hành cước

 

 Tích trượng dài bảy thước!

 Bất cứ ai hiểu được

 Có thể nuốt đất trời.

 Kẻ đi nam hay bắc

 Đều ở trong cửa ta.

 Trước khi rời cửa này,

 Thì phải dứt hành cước.

 Cao Đình bên kia sông

Lễ Đức Sơn vẫy quạt

 Ngay đó Cao Đình ngộ.

 Huyền Sa ráng leo núi

 Để gặp thầy của mình,

 Bị té chân chảy máu

 Ngay lúc đó liền ngộ,

 Và nói rằng “Đạt Ma

 Chẳng có đến Trung hoa

 Và kẻ thừa kế Tổ

 Chưa từng đến Ấn độ.”

 

 

 

22. BA LĂNG MẬT TRUYỀN

 

Một ông tăng hỏi Ba Lăng, “Câu mật truyền đông tây có nghĩa là gì?” Ba Lăng vặn hỏi, “Đâu chẳng phải là lời dẫn từ thơ của Tam Tổ?” Ông tăng đáp, “Dạ, không phải. Đó là lời của Thạch Đầu.” Ba Lăng nhận lỗi, “Ấy là lỗi của tôi. Tôi già nua lẩm cẩm vậy.”

 Như Huyễn: Ba Lăng là người thừa kế Vân Môn, tổ thứ mười ba sau Bồ-đề Đạt-maThạch Đầu là tổ thứ tám và bài thơ Tham Đồng Khế * của sư cũng nổi tiếng trong giới tăng nhân như bài Tín Tâm Minh* của tổ thứ ba vậy. Không một ông tăng hay sư nào có thể nhầm lẫn bài này với bài kia, nhưng Ba Lăng muốn nghe lời riêng của ông tăng, là người có thể nhận truyền ngay lúc ấy, chẳng phải đông tây gì cả mà là ngay lúc đó. 

 Tìm kiếm câu nói quí vị đã nghe trích dẫn từ sách nào để làm gì? Khi câu hỏi là của quí vị thì quí vị cũng sẽ tìm ra câu trả lời.

 

 

 

23. TUYẾT PHONG CHẶT CÂY

 

Tuyết Phongđệ tửTrường Sinh cùng vào rừng chặt cây. Sư cảnh giác, “Búa chưa tới lõi thì chớ ngừng.” Đệ tử đáp, “Nhưng con đã chặt đứt mất rồi.” Tuyết Phong nói tiếp, “Các sư ngày trước truyền pháp cho đệ tử bằng tâm truyền tâm. Còn ông thì thế nào?” Trường Sinh ném búa xuống đất, nói, “Đã truyền xong.” Tuyết Phong nhặt gậy lên đánh Trường Sinh, đệ tử quí của sư. 

 

Như Huyễn: Tăng nhân là những người hợp tác đích thực, dù thiền định trong thiền đường hay cùng nhau làm các công việc hằng ngàyChắc chắn hai người này đang mang ngọn đèn Pháp. Nhiều người Tây phương tìm chân lý, đến viếng hết các lớp học triết rồi lại đến học thiền định dưới sự hướng đẫn của các ông thầy Đông phương, nhưng có được bao nhiêu người trong bọn họ chặt cây đến lõi? Họ thường chỉ cào tróc lớp vỏ ngoài và đợi người khác chẻ thân cây cho họ. Thực là con nít nhỏng nhẻo!

 Trường Sinh đã đạt Thiền trước khi thầy của sư dứt lời. Tuyết Phong rất hài lòng. Nhưng sau khi ông tăng ném cái búa xuống đất, tại sao lại nói, “Đã truyền xong” ? Ông ta thiệt là đáng đòn. 

 

Genro: Trường Sinh có búa tốt

 Đủ bén để bửa đôi

 Thân cây chỉ một nhát.

 Tuyết Phong dùng tích trượng

 Làm cho lưỡi thêm bén.

 

 

 

24. NAM TUYỀN TUỔI PHẬT

 

Một hôm Nam Tuyền trì hoãn ngồi vào chỗ của sư trong phòng ăn. Hoàng Bá, là đệ tử thủ tọa, ngồi vào chỗ của thầy thay vì ngồi vào chỗ của mình. Nam Tuyền bước vào, nói, “Chỗ đó thuộc về ông tăng già nhất trong chùa này. Theo Phật giáo thì ông bao nhiêu tuổi?” Hoàng Bá đáp, “Bằng tuổi Phật Tì-bà-thi.” Nam Tuyền nói, “Vậy thì ông là cháu nội tôi. Xuống đi.” Hoàng Bá trả lại chỗ cho thầy, mà ngồi vào chỗ kế chỗ dành cho ông.

 

Như Huyễn:  Có lẽ tăng chúng trong chùa bám vào tư cách của thầy và vị tăng thủ tọa. Mỗi tăng nhân phải giữ chỗ ngồi của mình và là thầy của tình thế bất chấp tuổi tác hay địa vị, vì vậy Hoàng Bá muốn phá vỡ sự ràng buộc này của tăng chúng. Một Phật tử tính tuổi của mình từ ngày thọ giới qui y và một số tăng nhân rất hãnh diện về tuổi đạo của họ. Bất kể tuổi của Phật Tì-bà-thi là bao nhiêu, thời gian vẫn là có giới hạn và hữu cùng. Nam Tuyền sống trong thường hằng vô thủy vô chung, vì vậy sư bảo Hoàng Bá xuống đi. Nếu Hoàng Bá trở lại chỗ dành cho mình, tức là tự mâu thuẫnHoàng Bá ngồi vào một chỗ khác, như vậy sư đã nắm lại tình thế.

 

 

 

25. NHAM ĐẦU THÙNG NƯỚC

 

Ba ông tăng Tuyết Phong, Khâm Sơn và Nham Đầu gặp nhau trong vườn chùa. Tuyết Phong thấy một thùng nước liền chỉ. Khâm Sơn nói, “Nước trong, trăng soi bóng.” Tuyết Phong nói, “Chẳng phải nước, chẳng phải trăng.” Nham Đầu lật nhào thùng nước.

 

Như Huyễn: Khi Tuyết Phong chỉ thùng nước, sư ám chỉ Phật thân nhuần khắp thế giới và Khâm Sơn cũng ở trong cùng một tâm thái như trong bài kệ xưa:

 Trăng Bồ-tát

 Trong và mát

 Trôi bồng bềnh

Trong hư không.

 Tâm chúng sinh

 Nếu tự tĩnh

 Như hồ yên,

 Thì ảnh đẹp

Của Bồ-đề

 Sẽ hiện ra

 Ngay ở đó

Không thời gian.

Tuyết Phong nhấn mạnh vào thể tánh hơn là hiện tượng, khi sư nói, “Chẳng phải nước, chẳng phải trăng.” Nham Đầu lật nhào thùng nước xóa bỏ tất cả ngay cả sự phủ định của Tuyết Phong. Thiền chẳng phải triết học cũng chẳng phải tôn giáo.

 

 Genro: Trong vườn liễu và hoa

 Bên cạnh tháp nhạc đẹp

 Hai khách thưởng thức rượu

 Tay nâng chiếc tách vàng

 Dưới ánh trăng nhợt nhạt.

 Họa mi bỗng cất cánh

 Từ trên một cành cây

 Rung sương rơi từ lá.

 

 Fugai: Họa mi? Không! Phượng hoàng!

 

 

 

26. TUYẾT PHONG CHÍNH XÁC

 

 Tuyết Phong làm đầu bếp trong chùa của Động Sơn. Sư ngày nào cũng chuẩn bị bữa ăn sáng rất đúng giờ. Một hôm Động Sơn hỏi, “Cái gì khiến ông giữ giờ giấc chính xác như vậy?” Tuyết Phong đáp, “Con nhìn trăng sao.” Động Sơn hỏi vặn, “Nếu trời mưa hay sương mù thì ông làm thế nào?” Tuyết Phong im lặng.

 

Như Huyễn: Vào thời của Tuyết Phong không có đồng hồ báo giờ, nhưng tăng chúng thức dậy vào lúc bốn giờ sáng để thiền định khoảng một tiếng đồng hồ trước bữa ăn. Mặc dù Tuyết Phong chuẩn bị bữa điểm tâm trước khi có ánh nắng ban ngày, tiếng bảng báo giờ của Tuyết Phong luôn luôn không trễ không sớm. Khi Động Sơn hỏi câu hỏi ấy là sư ca ngợi ông tăng đầu bếp, và câu trả lời của Tuyết Phong rất trơn tru không có dấu vết của kiêu hãnh. E rằng các tăng nhân khác hiểu lầm, Động Sơn lại hỏi, “Nếu trời mưa hay sương mù thì sao?” Có thể tăng chúng đang suy nghĩ rằng Tuyết Phong nhờ vào trăng sao mà giữ đúng giờ giấc. Ngày nay chúng ta có đồng hồ báo giờ và các thiết bị khác nhắc giờ giấc cho chúng ta, nhưng chúng ta không làm việc đúng giờ, trừ phi chúng ta trau dồi Thiền của mình và làm chủ tình thếChúng ta phải lái thời gian mà không để thời gian lái chúng taĐộng Sơn muốn Tuyết Phong chia xẻ bí mật của mình với các tăng nhân khác. Quí vị có nghĩ rằng họ hiểu không?

 

Genro: Nếu Động Sơn hỏi tôi sẽ làm gì nếu trời mưa hay sương mù, thì tôi sẽ trả lời rằng tôi nhìn trời mưa và thưởng thức sường mù. 

 

Fugai: Xin lỗi thầy nhé, nhưng tôi cảm thấy thích dùng kéo cắt lưỡi thầy. Tuyết Phong đã trả lời rồi.

 

 

 

27. NGƯỠNG SƠN NGÀN MUÔN CẢNH

 

Ngưỡng Sơn hỏi Qui Sơn, “Khi ngàn muôn cảnh đến thì hòa thượng làm thế nào?” Qui Sơn đáp, “Vật xanh thì chẳng vàng. Vật dài thì chẳng ngắn. Mỗi vật tự có chỗ riêng. Can hệ gì đến ta chứ ?” Ngưỡng Sơn cúi đầu bái tạ.

 

Như Huyễn: Ngưỡng Sơn học Thiền dưới sự hướng dẫn của Qui Sơn, về sau nhận Pháp và trở thành người thừa kế. Đây là một trong hằng trăm câu chuyện xảy ra trong những năm tu tập đó.

 Khi một người qui định và thọ nhận một hình ảnh của tâm trí, nó trở thành một cảnh (hay vật) đối với y. Phật giáo xếp loại các tâm cảnh chung với trần cảnh của thế giới năm giác quan nhận biết. Nếu vui và buồn đến cùng một lúc, nếu sướng và khổ tụ tập quanh mình thì làm thế nào điều khiển chúng. Nếu một người phán xét được và mất, thích và không thích cùng một lúc thì thực ra y nên làm gì?

 Người học Thiền nên cố gắng mỗi lúc chỉ làm một việc thôi. Nếu quí vị có ai lục tìm một bài xã luận trong bàn giấy của mình, thì nên đóng cái ngăn kéo đã lục rồi mới mở ngăn kéo kế tiếp. Mỗi ngăn kéo chứa một cái gì đó quan trọng, nếu bài xã luận không có ở đó thì những thứ khác chẳng liên quan gì đến mình vào lúc đó. Quí vị có để mở tất cả các ngăn kéo hay đổ tất cả các thứ xuống sàn nhà không? Nhưng đó chính là điều nhiều người làm với tâm cảnh của họ. Những người ăn kẹo trong khi đọc hay nghe đài phát thanh trong lúc viết, theo tinh thần Thiền, chắc chắn là họ đã lạc bước.

 

 

 

28. LONG NHA CẢNH GIỚI VÔ THƯỢNG

 

Một ông tăng hỏi Long Nha, “Các sư ngày xưa đạt được gì khi các ngài nhập vào cảnh giới vô thượng?” Long Nha đáp, “Họ giống như kẻ trộm lẻn vào một căn nhà trống.”

 

Như Huyễn: Có lẽ ông tăng này nghĩ các sư có một cái gì đó mà những người khác không có. Thực ra họ không có cái gì mà người khác không có. Câu trả lời của Long Nha có vẻ kỳ quặc, nhưng đó là cách để cư xử ông tăng này. Ông ta tham hết công án này đến công án khác, cố trở thành một bậc sư và hỏi về công án tối hậu như là một cuộc khảo hạch cuối cùng. Ông ta đã không kiên nhẫn, thay vì phải đi từng bước. Với tâm bị quấy nhiễu thì dù ông có muốn nằm mộng đến cảnh giới vô thượng cũng không thể được, mà chỉ tham lam chụp lấy bất cứ thứ gì chợt thấy, vì thế Long Nha đã bỏ ông ta vào một căn nhà trống.

 Một người khỏe mạnh không bao giờ nghĩ đến bệnh tật, và một người bị bệnh phải tranh đấu để được khỏe mạnh. Một người có lần được hỏi bên trong có cái gì, người ấy nhìn tỏ ra rất trầm tĩnhhài lòng. Đến phiên anh ta hỏi lại người hỏi kia thì y nhìn tỏ ra rất bất an và không hài lòng. Một người bên trong không có gì thì luôn luôn hạnh phúc, nhưng một người có nhiều dục vọng thì không bao giờ thoát được cảnh khốn đốn.

 

Genro: Y đi trên kiếm bén;

 Lòng ăn cắp chẳng còn.

 Trên dòng sông đóng băng.

 Y vào căn nhà trống;

 Y trở về quê cũ;

 Thấy nắng đẹp ban mai,

 Nhìn trăng sao gần gũi.

 Y thong dong bước đi trên đường phố

 Đón gió hiền dịu nhẹ mơn man.

 Cuối cùng y mở cửa kho tàng.

 Đến khi ấy, y chẳng còn mộng nữa

 Xưa nay y vẫn có kho tàng này.

29. NGƯỠNG SƠN CHÀO THẦY

 

Lúc hết thời gian an cư một trăm ngày mùa hạ, Ngưỡng Sơn đón chào thầy là Qui Sơn, “Con chẳng thấy hòa thượng quanh đây suốt cả mùa hè.” Qui Sơn hỏi, “Ông đã làm gì ?” Ngưỡng Sơn đáp, “Con đã chăm sóc một miếng đất và sản xuất được một giỏ đầy hạt kê.” Qui Sơn phê bình, “Ông đã không lãng phí mùa hè này.” Ngưỡng Sơn hỏi lại, “Hòa thượng đã làm gì mùa hè này?” Vị tăng già đáp, “Ta đã ăn mỗi ngày một bữa trưa và ngủ vài giờ sau lúc nửa đêm.” “Vậy thì hòa thượng đã không lãng phí mùa hè này,” Ngưỡng Sơn nói xong liền thè lưỡi ra. Qui Sơn nhận xét, “Ông nên tự trọng một chút.”

 

Như Huyễn: Chùa của Qui Sơn có khoảng một ngàn năm trăm tăng chúng, đa số họ ở trong thiền đường ngày đêm ngồi thiền, trong khi một số chịu trách nhiệm lo việc nhà bếp và một số khác làm việc đồng áng. Mỗi người làm phần việc của mình để làm vinh quang Phật-Pháp. Phần của Ngưỡng Sơn là chăm sóc miếng đất để sản xuất một giỏ đầy hạt kê, và Qui Sơn sống cuộc sống của một tăng nhân lý tưởng. Trong toàn thể gia đình Thiền, không ai lãng phí mùa hè của mình. Theo cái nhìn thế gian thì đây là một cảnh chào mừng giữa thầy và trò với sự đánh giá lẫn nhau, nhưng trong Thiền người học trò vẫn còn cho thấy dấu vết của sự chứng đạt. Anh ta còn lảng vảng với cái bóng của được và mất. Anh ta đã nhận ra lời nói sai của mình trước khi chấm dứt, ông thầy, vì nhận thấy những gì đang diễn ra trong tâm người học trò, nên đã trách mắng y.

 

 

Genro: Trong chùa Qui Sơn xưa,

 Không ai phí thì giờ.

 Mỗi tăng tôn vinh Pháp,

 Làm việc trong im lặng,

 Không kể được hay mất.

 Các chim chân sợi đỏ,

 Các sợi ấy vẫn còn,

 Dù bao nhiêu hấp dẫn.

 Các tăng không được bám

 Ngay cả sự tự do.

 Một anh thè luỡi ra

 Để khỏi bị một gậy--

 Được từ bi ban cho--

 Dứt thân tâm các sợi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19402)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18523)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16030)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29858)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25451)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21595)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17801)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20806)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26305)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33292)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52119)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22858)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23401)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39624)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21787)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22357)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6825)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22704)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69775)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 43968)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23042)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35013)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44060)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42878)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44393)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24888)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24347)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39183)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39213)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17243)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18016)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19243)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35637)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24198)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19576)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20389)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18285)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18967)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18927)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17463)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19297)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30816)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19174)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20502)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19531)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19753)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29800)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17817)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19379)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19863)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58750)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24398)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23493)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39733)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26693)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40748)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22846)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22906)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21577)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18602)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22576)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21065)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19189)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20916)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20318)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30530)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20174)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17443)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16571)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16840)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14942)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14823)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22842)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16023)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16187)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15238)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26084)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17179)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15774)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19757)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17660)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14669)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14728)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19114)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15101)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33026)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17474)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19113)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21808)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 22970)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16605)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16461)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16482)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22968)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26348)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12727)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29493)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27696)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25887)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18448)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant