Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Công Án 45-59

14 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8052)
Công Án 45-59

THIÊN KHI NHƯ HUYỄN bình
ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG dịch
TIẾNG SÁO THÉP
(100 CÔNG ÁN THIỀN)

45. VU ĐỊCH HỎI PHẬT

 

Tể tướng Vu Địch hỏi sư Đạo Thông, “Thế nào là Phật?” Sư gọi đột ngột, “Đại nhân!” “Dạ,” vị tể tướng đáp một cách ngây thơ. Rồi sư nói, “Ngài còn tìm gì khác?”

 

Như Huyễn: Vu Địch góp nhặt những câu trả lời của các Thiền sư mà ông ta đến viếng với câu hỏi này như một người sưu tập tiền xu hay tem thư không còn dùng nữa. Kiến thức về Thiền của ông ta đủ để đánh giá vài câu trả lời, nhưng ông ta hoàn toàn không sẵn sàng cho câu đáp này, nó quá nhiều đến độ làm ông ta quên cả tại sao mình đối diện với ông thầy này. Tiếng “Dạ” của ông ta cũng đơn giảntự nhiên như lời đáp tiếng mẹ gọi của đứa con. 

 

Genro: Hai tiếng “Đại nhân!” đã dội đầu ông ta vào một cái gì đó, nhưng tôi không chắc đó có phải là một ông Phật thật hay không.

 

 Chớ nhằm ngọn cây tìm cá

 Khi về nhà chớ nấu tre cây.

 Phật-đà, Phật-đà, Phật-đà ...

 Kẻ ngu giữ lấy dây xâu tiền.

 

Như Huyễn:  Một người Trung hoa có lần thưởng thức một đĩa măng tre và được bảo rằng đó là tre nấu chín. Về nhà y cắt một khúc tre cây và nấu hằng giờ nhưng vô ích.

 Ở Trung hoa và Nhật bản, người ta dùng sợi dây xỏ qua cái lỗ giữa các đồng xu thành một xâu để dễ mang đi. Một người ngu có lần đã nắm chặc lấy sợi dây xâu sau khi các đồng xu đã tuột mất khỏi sợi dây. Nhiều người vẫn bám vào sợi dây trống này mà tin rằng họ đang mang theo mình kho tàng thực sự. 

 

 

 

46. CHỮ TÂM

 

Một ông tăng già viết chữ “Tâm”, kiểu chữ Hán, tượng hình cho trái tim, lên cổng, cửa sổ và tường của ngôi nhà nhỏ của ông ta. Pháp Nhãn nghĩ như vậy là sai và muốn sửa lại cho đúng, nói, “Cổng phải có chữ cổng, cửa sổ và tường mỗi cái phải có chữ riêng của nó.” Huyền Giác nói, “Cổng tự nó hiện bày chẳng cần có chữ, cửa sổ và tường cũng vậy, chẳng cần bản hiệu gì cả.”

 

Như Huyễn: Ông tăng già thừa nhận rằng cổng, cửa sổ và tường là hiện thân của tâm. Ông ta giống như Hegel, thấy thế giới như là quá trình tư tưởng, cái khác nhau là Hegel tự nhốt mình trong suy lý còn ông tăng thì đã làm mình tự do với suy lý. Vả lại, chủ nghĩa lý tưởngtính chất tuyệt đối của Hegel bám víu vào cái gì đó để thành hình trong thực tế, ông tăng thì đã vượt qua bên kia danh và tướng để ở trong ngôi nhà vô hình mà cổng, cửa sổ và tường của nó không là gì cả mà chỉ là tâm.

 Pháp Nhãn ủng hộ ông tăng một phần, tự mình tỏ ra có khác. Có thể sư đã nói, “Tôi hài lòng với cổng, cửa sổ và tường. Tại sao ông còn dán nhãn hiệu cho chúng nữa?” 

 Huyền Giác cảm thấy rằng sự vật tự chúng bày tỏ chẳng cần tên gì cả.

Genro: Tôi sẽ viết chữ “cửa sổ” lên cổng, chữ “tường” lên cửa sổ, và chữ “cổng” lên tường.

 

Như HuyễnTôi hiểu câu nói của Genro, nhưng quí vị không những chỉ vào nhà của ông tăng già đã sống mà còn để cho cái nhà ấy nhập vào quí vị.

 

 

 

47. TRIỆU CHÂU ĐO NƯỚC

 

 Một hôm Triệu Châu viếng pháp đường của sư đệ là Thù Du. Sư bước lên đàn, vẫn mang theo gậy, nhìn từ đông sang tây rồi từ tây sang đông. Vị sư đệ hỏi, “Sư huynh làm gì vậy?” Triệu Châu đáp, “Tôi đang đo nước.” Vị sư đệ hỏi, “Ở đây không có nước. Một giọt cũng không. Sư huynh đo thế nào?” Triệu Chân dựa cây gậy vào tường và bỏ đi.

Như HuyễnMột Thiền Tăng khi đi hành cước mang theo cây gậy dài, dùng để dò chỗ sâu cạn nếu phải đi qua sông. Thù Du là sư đệ của Triệu Châu, vừa mở pháp đường cho thính chúng, Triệu Châu nóng lòng muốn biết Thù Du đã ngộ đạt Thiền thực hay chưa. Sư mang cây gậy theo để nhắc nhớ lại những ngày trước kia họ đã cùng nhau. Sư không cảm thấy có bầu không khí đạt ngộ khi sư quay đầu từ đông sang tây và sẽ để cây gậy lại làm vật ghi nhớ nếu như Thù Du không hỏi sư đang làm gì. Trong Kinh Kim Cang quí vị đọc sẽ thấy, “Này Tu-bồ-đề, ông nghĩ thế nào? Một vị Tu-đa-hoàn có nghĩ như vầy: Ta đã đạt quả Tu-đa-hoàn không? Tu-bồ-đề nói: ‘Dạ không, bạch Thế Tôn, ông ta không nghĩ như vậy. Vì sao? Bởi vì Tu-đa-hoàn có nghĩa là vào dòng, mà ở đây không có vào. Ông ta không vào thế giới của sắc, thanh, hương, vị, xúc hay phân biệt thì gọi là Tu-đa-hoàn.’” Thù Du đã đắc cái vô đắc nên nói, “Ở đây không có nước. Một giọt cũng không.” Triệu Châu sung sướng, dựa cây gậy vào tường và bỏ đi.

 Thiền không thể thêm gì cho văn hóa Tây phương, nhưng người học Thiền sẽ được cái không được và theo dòng thời gian, một vài người khiêm tốn với sức ảnh hưởng không màu sắc, không âm thanh của họ sẽ sản sinh ra những người nam và nữ của các tiêu chuẩn cao hơn.

 

 

 

48. ĐỊA TẠNG PHẬT PHÁP

 

Một hôm Địa Tạng tiếp một đệ tử của Bảo Phước như một vị khách và hỏi ông ta, “Thầy ông chỉ dạy ông như thế nào trong Phật pháp?” Ông tăng đáp, “Thầy chúng con bảo chúng con nhắm mắt lại, chớ thấy điều ác; bịt tai lại, chớ nghe tiếng ác; dừng tâm suy nghĩ lại, chớ tạo ý nghĩ sai lầm.” Địa Tạng nói, “Tôi không đòi hỏi ông bịt mắt lại, mà không thấy điều ác. Tôi không đòi hỏi ông bịt tai lại, mà không nghe tiếng ác. Tôi không đòi hỏi ông dừng tâm suy nghĩ, mà không tạo ý nghĩ sai lầm nào cả.”

 

Như Huyễn: Có lẽ ông tăng này còn rất trẻ cả tuổi đời lẫn tuổi đạo. Tâm của ông ta lúc nào cũng vươn tới, bám vào những điều chẳng tốt và vô ích. Bổn sư của ông thương xót và dạy cho ông bài học Phật giáo vỡ lòng, nhưng vì những chỉ dạy Thiền luôn luôn là cho cá nhân, ông ta nên nói như vầy, “Thầy con bảo con . . .” Những lời chỉ dạy của Địa Tạng chắc chắn quá khó đối với người trẻ tuổi này. Nếu quí vị không vướng mắt vào cái gì mình thấy, thì nó sẽ chỉ phản chiếu nơi mắt quí vị và biến mất không lưu lại vết tích trên tâm gương quí vị. Nếu quí vị không chú ý đến cái gì mình nghe, sẽ không có âm thanh nào ở lại với quí vị. Hôm qua quí vị có thể nghĩ rằng cái này đúng và cái kia sai, nhưng hôm nay quí vị không còn mang cùng cái tâm ảnh trong quá khứ ấy vào hiện tại. Không có gì để thấy, trừ phi quí vị tạo ra hình ảnh riêng của mình. Không có âm thanh nào để nghe, trừ phi quí vị tự ghi âm thanh riêng của mình. 

 

Genro: Tôi không đòi hỏi ông nhắm mắt. Tôi không đòi hỏi ông không nhắm mắt. Chỉ cần cho tôi biết cái gì là mắt ông. Tôi không đòi hỏi ông bịt tai. Chỉ cần cho tôi biết cái gì là tai ông. Tôi không đòi hỏi ông dừng tâm suy nghĩ. Chỉ cần cho tôi biết cái gì là tâm. 

 

Như Huyễn: Một số quí vị đây nhắm mắt khi thiền định. Tại sao quí vị không “nhắm” luôn lỗ tai? Tại sao quí vị không dừng luôn tâm suy nghĩ? Một số quí vị không nhắm mắt trong khi thiền định. Tại sao quí vị không nghe âm-thanh-không-âm thanh? Tại sao quí vị không hình thành ý nghĩ không hình tướng? 

 

 

 

49. HUYỀN SA GIẤY TRẮNG

 

Huyền Sa bảo một ông tăng mang một lá thư đến thầy cũ của sư là Tuyết Phong. Tuyết Phong tập họp tăng chúng lại và mở lá thư ra trước mặt họ. Trong phong bì không chứa gì khác hơn là ba tờ giấy trắng. Tuyết Phong giơ ba tờ giấy lên và nói với tăng chúng, “Các ông hiểu không?” Không ai trả lời. Tuyết Phong nói tiếp, “Đứa con đi hoang của tôi viết đúng y như tôi nghĩ.” Khi ông tăng đưa thư trở về với Huyền Sa, kể sư nghe chuyện xảy ra tại chùa của Tuyết Phong, Huyền Sa nói, “Ông già tôi lẩm cẩm rồi.” 

 

Như Huyễn: Huyền Sa là một người làm nghề đánh cá không biết chữ trước khi trở thành tăng nhân và đạt ngộ Thiền dưới sự hướng dẫn của Tuyết Phong. Sư là một bậc thầy nổi tiếng vào thời xảy ra câu chuyện này. Tuyết Phong hãnh diện vì sư, giơ lá thư cho tăng chúng xem. Tăng chúng mong là sẽ được xem một kiểu viết chữ đẹp, vì vậy khi Tuyết Phong hỏi họ hiểu không, không ai trả lời được. Là một Thiền sư, Tuyết Phong đã nói quá nhiều khi ca ngợi một người học trò cũ của mình. 

 Thiền giống như ánh chớp. Mắt người không thể thấy được đấu vết của nó. Khi tăng chúng thoáng thấy tờ giấy trắng, thi bài học cho họ hôm đó đã xong, như vậy họ nên cúi đầu lễ báilui về thiền đường trước khi ông thầy có cơ hội khoe đứa con đi hoang của mình. Ông tăng đưa thư là một tên ngốc. Ông ta phải hỏi thư trả lời, thay vào đó ông ta tường trình cảnh Thiền vô vị kia với Huyền Sa để sư phải ra tay cứu giúp tình cảnh gia đình bằng câu nói, “Ông già của tôi lẩm cẩm rồi.” Toàn bộ dấu vết của suy nghĩ đã được quét sạch với tờ giấy trắng lãng quên.

 Ngày nay con người dùng đài phát thanh và vô tuyến truyền hình để gửi thông điệp đi khắp thế giới, nhưng vì con người không có Thiền nên dùng cách tuyên truyền vì những mục đích vị kỷ, gieo rắc thù hận và sợ hãi, vì thế nhân loại bất an cả ngày lẫn đêm. Có phải con người vẫn còn là đứa con đi hoang của trời hay không? Có phải nó đang đi vào sự già nua lẩm cẩm của văn minh hay không? Không. Nó chỉ uống thuốc ngủ quá liều và đang bị ác mộng khuấy động. 

 

 

 

50. NGHĨA TRUNG THUYẾT PHÁP

 

Khi sư Nghĩa Trung lên tòa thuyết Pháp, một cư sĩ từ thính chúng bước ra và đi từ đông sang tây trước pháp tòa. Rồi một ông tăng chứng minh Thiền của mình bằng cách đi từ tây sang đông. Nhgĩa Trung nói, “Cư sĩ hiểu Thiền nhưng tăng nhân chẳng hiểu.” Cư sĩ liền tiến đến gần Nghĩa Trung và nói, “Cảm ơn hòa thượng ấn chứng.” Nhưng trước khi ông ta nói dứt câu đã bị Nghĩa Trung đánh một gậy. Ông tăng bèn tiến đến Nghĩa Trung và nói, “Xin hòa thượng chỉ dạy,” và cũng bị gậy đánh. Rồi Nghĩa Trung nói, “Ai sẽ kết thúc công án này?” Không ai trả lời. Câu hỏi được lặp lại hai lần, nhưng thính chúng chẳng ai đáp. Sư nói, “Thế thì tôi kết thúc vậy.” Sư ném gậy xuống đất và trở về phòng.

 

Như Huyễn: Thiền tăng thuyết Pháp khẩn trương. Càng ít lời càng tốt. Đôi khi một người trong thính chúng hỏi một câu và sư trả lời, những lúc khác có người tiến đến sư và biểu hiện sự đạt ngộ của mình. Sư ấn chứng hay không và bài học chấm dứt. Sư là người nghe và người nghe là sư. Toàn thể việc làm quan hệ tất cả mọi người có mặt, và không ai được miễn trừ trách nhiệm

 Cả cư sĩ và ông tăng đều chứng minh sự tự do tự tại của mình và phải bảo vệ kho tàng của mình một cách không sợ hãi bất chấp lời thầy. Về cư sĩ, Fugai nói, “Mây sáng viếng hang núi.” Và về ông tăng, thì, “Mưa chiều gõ cửa am.”

Không có sự giả vờ, nhân tạo gì cả, vì vậytự do tự tại. Đối với một Thiền sư, cảnh giới của cư sĩ là “cho đến hiện tại vẫn tốt,” nhưng tăng nhân không bao giờ hoàn hảoNghĩa Trung có thể đã nói, “Đường ngọt, tiêu nồng.” Cư sĩ đáng ăn gậy bởi vì ông ta bám vào sự ấn chứng, và ông tăng đáng đòn vì vội vàng muốn đạt ngộ. Chẳng ích dụng gì mà làm lớn chuyện ra nên thính chúng giữ im lặng.

 

 

 

51. BẢO PHÚC CÁI CHÙA

 

Một hôm Bảo Phúc nói với tăng chúng, “Khi một người đi qua phía sau chùa thì gặp họ Trương và họ Lý, nhưng nếu y đi phiá trước chùa thì chẳng gặp ai. Tại sao vậy? Trong hai đường, đường nào có lợi cho y?” Một ông tăng đáp, “Chắc mắt của y bị gì rồi. Không thấy thì có lợi gì?” Sư mắng ông tăng, “Đồ ngu! Cái chùa lúc nào chẳng như vậy.” Ông tăng nói, “Nếu chẳng phải cái chùa, người ta phải thấy cái gì chứ?” Sư nói, “Tôi đang nói cái chùa, chẳng nói vật gì khác.”

 

Như Huyễn: Cái chùa là thực tại. Khi một người đối diện với nó, y chẳng thấy bất cứ vật gì. Nó siêu việt tất cả mọi phân biệt. Ví dụ, quí vị có thể cùng đi với một đám đông không nhận ra họ là ai và quên cả mình là ai. Đây là những gì Bảo Phúc muốn nói “phiá trước chùa.” Nhưng lúc quí quí vị thấy một người quen, gật đầumỉm cười, hay ngay cả dừng lại để chào, là quí vị đang đi “phiá sau cái chùa.” Nếu trong lúc thiền định quí vị tạo ra hình ảnh một người bạn, là quí vị đang mơ mộng chứ không phải thiền định. Bảo Phúc không mắng quí vị vì chuyện này mà sư đang chỉ cho quí vị cách nhập vào và bỏ đi một cách tự do không bám vào con đường nào cả. Câu hỏi của sư, “Tại sao như vậy?” là câu trả lời. Ông tăng đã không nhập vào thực tại mà chỉ lý giải về thấy và không thấy. Ông tăng ngoan cố bám vào thế giới giới hạn và nói, “Nếu chẳng phải là chùa, người ta phải thấy cái gì chứ?” Ông ta nên bỏ Thiền mà đi học luật.

 Thích Tông Diễn nói, “Thế giới được biểu trưng bằng biến đổivô thường; những người không vượt lên bên trên tính thế gian sẽ bị tung lên và rớt xuống trong lốc xoáy của phiền não. Nhưng những người biết sự vật được cấu thành như thế nào sẽ thấy vô cùng trong hữu cùng, siêu hiện tượng trong hiện tượng và được an lạc giữa đau khổphiền não.”

 

 

52. HOA NGHIÊM TRỞ LẠI

THẾ GIAN MÊ HOẶC

 

Một ông tăng hỏi Hoa Nghiêm, “Người giác ngộ trở lại thế gian mê hoặc như thế nào?” Sư đáp: “Gương vỡ không phản chiếu,

Hoa rơi chẳng về cành.”

 

Như Huyễn: Ông tăng này đã đi quá kinh nghiệm của mình và tưởng tượng ra một người giác ngộ. Tại sao ông ta không tự mình trở thành một người giác ngộ, rồi ông ta sẽ biết câu trả lời. Câu đáp của Hoa Nghiêm có thể dễ bị hiểu lầm. Sư không có ý ám chỉ rằng một người giác ngộ trở lại với mê hoặc thì không còn là một nhân vật cao quí nữa, thay vào đó, minh họa của sư là một hiện tượng thực tế của tâm giác ngộ.

 Phật (Giác Ngộ) là mục đích của văn hóa, nhưng Bồ-tát là hoạt động của Phật tánh. Dưới mắt ngài, không có hai thế giới mê hoặc và không mê hoặc và ngài sống cuộc sống độ tất cả chúng sinh. Giống như hoa sen, ngài có thể nở hoa trong nước bùn.

 John Galsworth có lần đã nói, “Một người được yêu cầu định nghĩa đặc trưng của một người hiền - dùng từ ấy theo nghĩa rộng nhất - sẽ trả lời rằng, ‘Ý chí muốn đặt mình vào địa vị của người khác; nỗi kinh hãi phải cưỡng ép người khác vào chỗ mà tự mình sẽ rút lui; quyền lực để làm những gì đối với ông ta dường như là đúng, không quan tâm đến những gì người khác có thể nói hay nghĩ.’”

 

Genro: Để minh họa câu chuyện này, tôi sẽ dẫn một bài thơ Trung hoa:

 Kìa! Ánh chiều đang nâng

 Bức tường đá trên hồ.

 Đám mây cuộn về rừng

 Ngôi làng bị nuốt chửng.

 

 

 

53. HUỆ TRUNG ĐÁNH ĐUỔI ĐỆ TỬ

 

Đan Hà đến viếng Huệ Trung nhằm lúc sư đang ngủ trưa. Đan Hà hỏi thị giả, “Quốc sư có ở nhà không?” Thị giả đáp, “Dạ có, nhưng không muốn gặp ai.” Đàn Hà nói, “Lời nói sâu xa thay.” Thị giả nói, “Đừng nói vậy. Dù có Phật đến, hòa thượng cũng chẳng muốn gặp.” “Huynh là đệ tử giỏi. Thầy huynh chắc hãnh diễn lắm,” nói xong câu này, Đan Hà bỏ đi. Khi Huệ Trung thức dậy, Đam Nguyên, tức ông tăng thị giả, thuật lại cuộc đối thoại. Sư lấy gậy đánh và đuổi ông ta ra khỏi chùa. 

 

Như Huyễn: Ông tăng thị giả bày tỏ Thiền mới đạt, nó tự hiện ra vào dịp đầu tiên, thay vì giữ nó không màu sắc. Đan Hà liền nắm lấy tình thế và lời sư nói phải khiến cho ông thị giả im lặnghổ thẹn thay vì hãnh diện thuật lại cuộc đối thoại cho thầy nghe để bị thầy đánh đuổi ra khỏi chùa. Thực tế về sau Đam Nguyên đã thừa kế Huệ Trung làm quốc sư, đơn giản chứng tỏ rằng không có trường hợp nào là vô hy vọng, vì tất cả chúng sinh đều có Phật tánh

 Khi một người nghĩ rằng mình có Thiền thì y liền mất nó. Tại sao y không tu tập lời dạy một cách không màu mè, không ồn ào?

 Sau đó, khi Đan Hà nghe Huệ Trung đối xử thô bạo với đệ tử, sư nói, “Huệ Trung đáng gọi là Quốc sư.”

54. NHAM ĐẦU HAI BỮA ĂN

 

Khâm Sơn đến viếng Nham Đầu trong lúc Nham Đầu đang an cư. Khâm Sơn hỏi, “Sư huynh, anh ăn ngày hai bữa bình thường chứ?” Nham Đầu nói, “Ông con thứ tư nhà họ Trương chu cấp cho tôi, tôi mang ơn ông ta nhiều lắm.” Khâm Sơn cảnh cáo, “Nếu sư huynh không làm tốt phần mình thì kiếp tới sẽ sanh làm con trâu và phải trả lại y những gì huynh nợ trong kiếp này.” Nham Đầu để hai nắm tay lên trước trán nhưng chẳng nói gì. Khâm Sơn nói, “Nếu sư huynh muốn mọc sừng thì phải giơ hai ngón tay lên đầu chớ.” Khâm Sơn chưa nói dứt câu thì Nham Đầu đã hét, “Hê, Khâm Sơn chẳng hiểu ý ta.” Khâm Sơn hỏi, “Nếu sư huynh biết được điều gì sâu xa hơn, sao không giải thích cho đệ.” Nham Đầu khịt một cái rồi nói, “Sư đệ cũng học Phật pháp ba chục năm như tôi mà vẫn cứ lang thang quanh quẩn. Tôi chẳng có việc gì với sư đệ. Hãy cút đi.” Vừa nói dứt lời, Nham Đầu đóng sầm cửa lại ngay mặt Khâm Sơn. Người con trai thứ tư của nhà họ Trương chợt đi ngang qua đó, động lòng thương hại, đem Khâm Sơn về nhà ông ta ở gần đó. Khâm Sơn buồn bã nói, “Chúng tôi là bạn thân đã ba chục năm, nhưng nay anh ta sở đắc điều gì đó cao hơn tôi, và sẽ không truyền cho tôi.” Đêm đó Khâm Sơn không ngủ được, cuối cùng chổi dậy, đến am của Nham Đầu, nói, “Sư huynh hãy từ bi giảng Pháp ấy cho đệ đi.” Nham Đầu mở cửa và nói cho Khâm Sơn biết. Sáng hôm sau ông khách trở về nhà với hạnh phúc đạt được.

 

Như Huyễn: Khâm Sơn chưa từng tuyền bố mình là sư, nhưng tăng chúng tụ tập quanh ông để nghe ông nói, và dần dần ông nghĩ rằng mình có khả năng dạy người khác. Khi ông nghe tin người bạn cũ của ông là Nham Đầu đang sống cô tịch ở một miền đất xa xôi trong nước, ông đến thăm Nham Đầu xem Nham Đầu có cần gì không. Ở Trung hoa vào vào thời đó, người con trai trưởng trong gia đình sẽ được nhận phần di sản nhiều nhất và mỗi người con trai kế tiếp lãnh ít dần đi, như vậy người con trai thứ tư này không thể có được nhiều lắm dù cho ông ta có thể biếu Nham Đầu thức ăn và chỗ ở. Một tăng nhân sẽ cảm thấy mang ơn trừ phi ông ta sống cuộc sống Thiền đúng đắn. Nham Đầu đã khiêm tốn nhắc đến ơn huệ này, nhưng thân của sư chính là Pháp thân và sư đang sống với chư Phật và Bồ-tát. Khâm Sơn không thấy điều này, vì vậy ông ta dẫn ra sự mê tín rằng một tăng nhân nhận của bố thí mà không có giác ngộ trong kiếp này thì kiếp sau sẽ sanh làm con trâu để kéo cày trả nợ kiếp trướcNham Đầu đã cho Khâm Sơn thấy sự sống thực chưa từng sinh và sẽ không bao giờ chết; hai nắm tay và cái trán chẳng dính dáng gì đến thực tướng vô tướng kia; sư chỉ đơn giản dùng chúng để chỉ bày Pháp thân mà thôi. Khâm Sơn đáng thương đã không hiểu mà còn bám vào huyền thoại minh họa luân hồi dù nó hoàn toàn xa lạ với giáo lý của Phật.

Sự hối tiếclầm lẫn của Khâm Sơn sau đó đã đưa ông ta vào ngõ cụt. Khi ông ta trở lại Nham Đầu với lòng chân thật và hai bàn tay trắng, ông ta đã có thể nhận được Pháp. Đây là cái gì và làm sao được nó, quí vị chỉ có thể tự tìm thấy trong kinh nghiệm riêng của mình.

 

 

 

 

55. MỤC CHÂU KẺ ĐỘN CĂN

 

Khi Mục Châu và một ông tăng lạ mặt gặp nhau trên đường, Mục Châu gọi, “Thượng tọa!” Ông tăng quay lại. “Kẻ độn căn,” Mục Châu nhận xét, rồi cả hai lại tiếp tục bước đi. 

Câu chuyện dật sử này được vài tăng nhân ghi lại và mấy năm sau đó, Tuyết Đậu phê bình, “Mục Châu ngu muội đã sai. Ông tăng ấy không quay lại đó sao? Tại sao gọi ông ta là kẻ độn căn?”

Sau này, Hối Đường bình lời của Tuyết Đậu, “Tuyết Đậu ngu muội đã sai. Ông tăng ấy không quay lại đó sao? Tại sao không gọi ông ta là kẻ độn căn?”

 

Như Huyễn: Ở Trung Hoa, tăng nhân gọi nhau bằng “Huynh đệ” và đối với một người lạ thì gọi là “Thượng tọa.” Nhưng dù là chào hỏi bằng cách nào thì cũng phải được bày tỏ trong Thiền sự sáng lạng của chân tánh riêng của một người. Tăng nhân không chịu lãng phí thì giờ trong việc khen nhau không cần thiết

Khi Mục Châu nói, ý nghĩ là tiếng nói và tiếng nói là ý nghĩ. Nếu một ông tăng khác bám vào tiếng nói, thì hầu như chắc chắn là ông ta là kẻ độn căn.

Tuyết Đậu truy dấu vết Thiền của ông tăng nơi hành động quay lại, vì thế sư trách mắng Mục Châu. Nhưng Hối Đường sợ sự chấp nhận của Tuyết Đậu có thể khiến người ta hiểu lầm nên khéo léo xóa đi lời nói ấy trong ngữ lục.

Phần quan trọng của công án là mối đe dọa đối với người đọc. Có thể nói rằng im lặng là câu đáp tốt nhất, nhưng đôi khi im lặng là câu đáp quá vụng về đối với một câu hỏi Thiền. Chỉ ngưỡng mộ im lặng thôi thì không đủ, người ta phải sống với nó. Carlyle có lần đã nói, “Nhìn quanh sự trống rỗng ồn ào của thế giới, . . . lời nói với chút ý nghĩa, hành động với chút ít giá trị, . . . người ta yêu thích suy tư về đại Vương Quốc Im Lặng, cao hơn tất cả các vì tinh tú, sâu hơn Vương Quốc của Tử Thần! Một mình nó vĩ đại; tất cả những thứ khác đều nhỏ bé.” Nói đẹp lắm, nhưng ông ta đã nói quá nhiều, phá vỡ im lặng

Ngũ Tổ nói, “Trên đường khi gặp một Thiền sư, không nói cũng không im. Ông làm sao đối đãi?” Quí vị có thể nói với Mục Châu, nếu quí vị không bám vào ngôn ngữ. Quí vị có thể im lặng đối diện với Mục Châu, nếu quí vị không bị im lặng ràng buộc. Nếu quí vị có Thiền thì dù gặp ai và dù thấy gì, thì cũng là đồng đạo của quí vị, không có ngoại lệ.

 

 

 

56. LỖ TỔ QUAY MẶT VÀO TƯỜNG

 

Mỗi khi tăng nhân đến xin chỉ dạy Thiền, hay cư sĩ đến hỏi Đạo, Lỗ Tổ liền quay lưng lại mặt nhìn vào tường. Nam Tuyền, là sư huynh của sư, phê bình phương pháp dạy này, “Tôi bảo tăng chúng tự đặt mình vào thời trước khi Phật ra đời, nhưng chỉ có vài người hiểu được Thiền của tôi. Chỉ ngồi quay mặt vào tường giống như sư đệ Lỗ Tổ thì chẳng bao giờ làm cho tăng chúng tốt cả.”

 

Như Huyễn: Thiền tăng là những người kỳ lạ. Nếu một người nói trắng thì người kia nói đen. Họ không có ý mâu thuẫn lẫn nhau. Mục đích của họ là chỉ ra cái màu sắc không màu sắc. Lỗ Tổ quay lưng lại với học trò và mặt nhìn vào vách. Thật là một bài pháp đẹp! Nhưng nếu sư cứ làm như vậy hoài thì một số tăng nhân sẽ bắt chước hành động của sư và lan truyền sự giả mạo trong tăng chúng ở các chùa khác. Mặc dù Nam Tuyền cảnh cáo tăng chúng tránh phương pháp đơn điệu như thế, nhưng sư cũng ủng hộ Thiền của Lỗ Tổ một cách gián tiếpLỗ Tổ không có đạo lý khác hơn kho báu trong nhà, vậy thì tại sao không cứ đem nó ra trưng bày cùng một kiểu?

Chỉ dạy của Nam Tuyền cũng tốt và có giá trị hơn mấy ngàn bộ kinh, nhưng bám giữ thời gian, cái mà thực ra không hiện hữu, để làm gì? Tôi nghĩ nếu Lỗ Tổ nghe được những lời này ắt sẽ quay lưng lại Nam Tuyền và mặt nhìn vào vách như thường lệ. 

 

Genro: Ông muốn gặp Lỗ Tổ chăng? Hãy leo lên ngọn núi cao nhất, hãy đến chỗ không một người nào có thể đến được. Ông muốn gặp Nam Tuyền chăng? Hãy nhìn một chiếc lá rơi. Cảm biết mùa thu tới. 

 

Thánh địa không xa xôi,

Không một đường đi tới.

Nếu theo lời chỉ dẫn,

Chỉ thấy cầu rêu trơn.  

 

 

 

57. LÂM TẾ NGƯỜI KHÔNG NGÔI VỊ

 

Lâm Tế có lần đã nói, “Người không ngôi vị sống trên máu thịt các ông, ra vào các cửa trên mặt các ông đấy. Ai không chứng kiến sự thật này, hãy khám phá nó ngay đi!” Một ông tăng đứng lên hỏi, “Ai là người không ngôi vị?” Lâm Tế liền bước xuống tòa, nắm cứng cổ áo ông tăng, hét, “Nói! Nói!” Ông tăng đứng ngơ ngáo một lúc, vì vậy Lâm Tế đánh ông ta một tát tai, “Người không ngôi vị này thật vô tích sự.”

 

 Như Huyễn: Người không ngôi vị ở bên kia tính phái, chẳng phải nam cũng chẳng phải nữ. Chẳng phải có cũng chẳng phải không. Chẳng trẻ cũng chẳng già. Chẳng phải con của Thượng đế cũng chẳng phải con của Sa-tăng. Lâm Tế nói rằng người không ngôi vị sống trên máu thịt của các ông, nhưng chẳng bị các ông gạt. Người không ngôi vị này chính là thịt và máu, vì vậy đừng phát biểu gì về y ở bên kia cái đó. 

Chúng ta có năm cái cửa ở ngay trên mặt: mắt, tai, mũi, miệng, và da. Chúng ta thấy hình và sắc bằng mắt, nghe âm thanh bằng tai, ngửi các mùi bằng mũi, nếm các vị bằng lưỡi, và nhận xúc cảm bằng da. Chúng ta suy nghĩnăm giới: nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức và phát ra ấn tượng chúng ta nhận được từ mỗi giới, dùng nhiều tên. Lâm Tế quan sát những cái phù phiếm này chỉ là những trò xảo thuật của người không ngôi vị này, vì thế nêu ra sự đến hay đi của y qua các cửa. Thiền gặp người không ngôi vị này mặt đối mặt. Những ai gặp y một lần sẽ không bao giờ quên y. Họ chấp nhận lời nói của Lâm Tế không ngần ngại. Lâm Tế tạo ra người không ngôi vị ngay trước mặt ông tăng đặt câu hỏi. Nhưng Thiền của ông tăng chưa chín muồi. Những ông tăng khác, nhìn ông tăng không danh hiệu của tấn kịck một màn này, mà thâm cảm vậy. Những người thất bại là những kẻ tuẫn đạo trong lịch sử của lời dạy ấy, nhưng chúng ta có thể làm họ phục sinh bất cứ lúc nào. Đèn Pháp cháy mãi trong tất cả mười phương.

 

 

58. PHO TƯỢNG QUAN THẾ ÂM

 

Người Triều tiên đã một lần ủy thác cho một nghệ sĩ ở Triết giang, Trung quốc, tạc một pho tượng gỗ Quan Thế Âm to bằng người thật. Tác phẩm hoàn thành, pho tượng được mang đến hải cảng Tsien-t’ang để lên tàu, thì bỗng nhiên dường như nó bị kẹt cứng trên bờ biển và sức người không thể nào di chuyển được. Sau khi hai bên Triều tiênTrung quốc thương lượng với nhau, pho tượng được quyết định giữ lại ở Trung quốc. Lúc bấy giờ pho tượng trở lại sức nặng bình thường và sau đó được thờ tại một ngôi chùa ở Ming-chou. Có người đến chiêm bái pho tượng và nói, “Trong kinh nói rằng Quan Thế Âm có sức thần thông, và trong tất cả quốc độ mười phương không có nơi nào ngài không thị hiện. Thế thì tại sao pho thánh tượng này lại không chịu đi Triều tiên?”

 

Như Huyễn:  Hiển nhiên nghệ sĩ đã sáng tạo được một pho tượng tuyệt hảo như thế nên người Trung quốc không muốn cho đi. Mê tíntâm lý quần chúng đã làm tất cả phần việc còn lại. Quan Thế Âm biểu tượng cho từ bitrí tuệ. Người nghệ sĩ đã thấy được các phẩm cách này và miêu tả chúng nơi pho tượng. Bất cứ ai cũng có thể biểu hiện chúng nơi bất cứ vật trung gian nào. Người Triều tiên phải dùng văn hóa riêng của họ để tạo biểu tượng cho chính họ.

 

 Genro:  Mọi nơi đều là quốc độ thị hiện của ngài, thế thì tại sao ngài phải đặc biệt đi đến Triều tiên?

 

 Như Huyễn: Trong Thiền có câu nói, “Ngàn cái hồ thì có ngàn bóng trăng. Nếu không có mây, trời sẽ tự trải rộng ra vô cùng tận.” Nhiều người triều tiên đã đắc ngộ Thiền và đã tạo ra nhiều Quan Thế Âm làm biểu tượng riêng của họ.

 

Genro: Một người bịt mắt lại

 Chẳng thấy được Quan Âm.

 Sao chẳng hỏi ngoại quốc

 Tạc cho pho tượng gỗ?

 Tượng bất động trên biển

 Chẳng phải Quan Âm thật;

 Tượng thờ trong chùa đó

 Chẳng phải thật Quan Âm;

 Tàu trống về Triều tiên,

 Nhưng người mở mắt mình. . .

 Chẳng phải Quan Âm ư?

 

59. VÔ NGHIỆP VỌNG TƯỞNG

 

Quốc sư Vô Nghiệp nói, “Nếu một người có vọng tưởng về thánh và phàm, dù cho vọng tưởng đó mỏng manh như chỉ lụa cũng đủ sức lôi y vào thế giới súc sinh.”

 

Như Huyễn:  Vô Nghiệp, một trong những người thừa kế Mã Tổ, đã một thời là thầy của hoàng đếTên thật của sư là Đại Đạt, nhưng trong các ngữ lục sư được biết đến như là Vô Nghiệp, danh hiệu do hoàng đế ban cho, nghĩa là “không có nghiệp” (karma). Lúc nào có người đến tham học, sư đều nói, “Chớ nuôi vọng tưởng, dù tốt hay xấu, dù thánh hay phàm,” hoặc “Khi ông sắp chết mà không thể cắt đứt được những sợi chỉ mềm mại của vọng tưởng về thánh và phàm, thì ông sẽ sinh làm lừa làm ngựa trong kiếp tới.” Genro không thích cách nói liên quan đến luân hồi này nên sư đã đổi thành câu nói chúng ta đọc trên kia. Thiền không có quan niệm về linh hồn cá nhân vạch ra một đường giữa kiếp này và kiếp sau, hay kiếp người và kiếp thú vật. Từ phút giây này đến phút giây kế tiếp quí vị luôn luôn kề cận với cái chết. Khi nào quí vị tạo ra vọng tưởng là quí vị chỉ có đi xuống mà chẳng bao giờ đi lên.

Nếu quí vị đánh rơi một đồng xu xuống một hồ nước yên tĩnh, các gợn sóng gia tăng cái này tiếp theo cái kia, dù đồng xu đó bằng vàng hay bằng đồng thì cũng không làm cho các gợn sóng đó khác nhau. Phút giây biển tâm của chúng ta khởi lên một gợn sóng, thì sự yên tĩnh bị khuấy động và sự bình an bị tan vỡ. Vô Nghiệp có thể đã có một quan niệm về “không có nghiệp,” nhưng ấy chỉ là một ông Phật đá bất động.

 

Fugai: Tại sao ông từ chối quan niệm về thánh và phàm? Tại sao ông sợ bị lôi xuống các cảnh giới thấp hơn? Diễn viên giỏi không bao giờ chọn lựa vai tròDiễn viên dở luôn luôn than phiền vai mình đóng.

 

Genro:  Nếu ông muốn tẩy sạch các quan niệm thánh và phàm, thì ông phải tự mình biến thành lừa thành ngựa. Đừng ghét kẻ thù nếu ông muốn chinh phục họ.

 

Thánh và phàm . . .

Lừa và ngựa . . .

Tất cả sẽ lôi ông xuống

Khi ông còn giữ

Dù là cái bóng một sợi lông.

Này chư tăng, hãy tốt,

Hãy sống một đời một lần

Không ù lì nhị nguyên.

Các sư xưa biết bịnh các ông

Đã nhỏ lệ vì các ông đó.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10108)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10505)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10124)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20348)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11642)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13780)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19093)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46688)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12086)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11655)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23046)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17826)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10141)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17746)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13910)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14034)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15107)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20270)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18260)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17375)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18162)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12703)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12828)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13402)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17010)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11463)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18270)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18575)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21354)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22116)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16841)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12552)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15322)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24572)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14216)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11632)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19686)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13409)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22794)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18991)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18451)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21611)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20526)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20006)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14053)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15004)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13785)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15097)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17228)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15288)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12811)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15874)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12976)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13129)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15017)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22624)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7145)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19357)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37656)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9159)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8650)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17872)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14865)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27023)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19916)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15256)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15475)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26781)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14556)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19679)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14618)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18651)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15917)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16335)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19352)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19722)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19890)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18600)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29787)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14559)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17746)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32401)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15260)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17291)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29741)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31515)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64681)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32787)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20220)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18500)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30789)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19902)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45884)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32576)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39336)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40427)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50108)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19089)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18544)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20688)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant