Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tri ÂnBáo Ân

31 Tháng Bảy 201406:59(Xem: 14858)
Tri Ân và Báo Ân

Tri ÂnBáo Ân

Nắng Hạ nhạt dần, bầu trời trong xanh giờ đây đã nổi lên những cụm mây trắng lãng đãng theo gió heo may. Lá blankvàng rơi rơi như đang thổn thức tìm về nguồn cội. Mưa ngâu giăng giăng sụt sùi vơi đầy tâm sự. Tất cả những cảnh tượng đó báo hiệu mùa Thu về. Mùa Thu đã về, với người con Phật là mùa báo hiếu đã đến, Vu-lan thắng hội, ngày Phật hoan hỉ, ngày Tăng Tự Tứ lại về.

“Mỗi độ gió thu về

Rải rắc lá vàng rơi

Vu-lan sầu man mác

Lòng nhớ mẹ không nguôi”.

Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ: Sau khi chứng được lục thông, tôn giả Mục-kiền-liên muốn tìm mẹ của mình để báo đáp ân sinh thành dưỡng dục. Ngài bèn dùng thiên nhãn tìm chốn thác sinh của mẹ, thấy mẹ đọa vào đường Ngạ quỉ, luôn bị đói khát dày vò, bụng to như chiếc trống, cổ nhỏ như lỗ kim, lưng còng xương lộ, trông chẳng giống người. Thấy mẹ như vậy, lòng tôn giả đau như cắt, vội vàng hóa ra bát cơm đem dâng từ mẫu. Mẹ ngài được cơm tức thì tính tham của loài ngạ quỉ trổi dậy, tay trái che bát, tay phải bốc ăn, nhưng thật thảm thay, cơm chưa tới miệng đã hóa thành than lửa đỏ hồng, không thể ăn được.

Tôn giả Mục-kiền-liên đau đớn vô cùng, về bạch với đức Phật chuyện vừa xảy ra. Đức Phật dạy: Mẹ con xưa đã tạo tội sâu nặng, sức một mình con không thể cứu được, dù con hiếu thuận cảm động trời đất nhưng mà trời đất quỉ thần thảy đều thúc thủ; phải nhờ thần lực của mười phương tăng mới mong cứu được. Đại Mục-kiền-liên! Ngày rằm tháng bảy, là ngày Tự Tứ của mười phương Tăng, ngày Phật hoan hỉ, con nên chuẩn bị đủ vị cơm canh cúng dường chúng tăng khắp cả mười phương, thỉnh tăng chú nguyện, nhờ thần lực ấy, mẹ con thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỉ.

Tôn giả Mục-kiền-liên vâng lời Phật dạy, đến ngày rằm tháng bảy, sắm sửa thức ăn để cúng dường chư tăngcầu thỉnh chư tăng chú nguyện. Nhờ công đức này mà mẹ ngài ngay trong ngày ấy thoát khổ ngạ quỉ, sinh lên cõi trời.

Kể từ đó, tôn giả được tôn xưng là Đại Hiếu Mục-kiền-liên và gương sáng của Ngài được những người con hiếu thảo noi theo, truyền mãi đến ngày nay. Vì thế, cứ mỗi độ Thu về, âm hưởng Vu-lan đồng vọng khắp muôn nơi, từ chốn đô thị phồn hoa, đến miền quê xa hẻo lánh, cùng trào dâng niềm báo hiếu công ơn cha mẹ.

Công cha nghĩa mẹ cao vời

Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta

Nên người, ta phải thiết tha

Đáp đền ân nặng như là trời cao.

Báo hiếu là một quan niệm đúng đắn, một việc làm cao đẹp muôn đời được tôn vinh. Báo hiếu phải đầy đủ hai nghĩa tri ânbáo ân. Vì tri ân mà không báo ân thì đó là những ý nghĩ mông lung, những lời nói suông hoặc, chẳng thiết thực cụ thể, không có một kết quả rõ ràng. Nếu báo ân mà không tri ân thì sự báo ân đó không trọn vẹn ý nghĩa. Chúng ta thử nghĩ, có ai đó không biết người khác cho mình ân huệ gì mà lại sinh tâm báo đáp, điều đó có thể xảy ra không? Thật khó có, nếu không muốn nói là chưa từng có. Vì thế muốn báo ân trước hết phải tri ân.

Ta hãy lắng lòng đọc lại lời Phật dạy trong kinh Báo ân Cha Mẹ.

A nan! Ân Đức cha mẹ có mười điều sau đây:

MỘT là ân thai mang giữ gìn. Vì nhân duyên nghiệp lực cho nên chúng sinh gá vào thai mẹ, trải qua nhiều ngày mẹ phải chịu khổ, chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội đá, đi đứng ngại gió mưa, quần áo không sửa soạn, trang điểm còn kể chi.

HAI là ân sinh sản khổ sở. Đến tháng thứ mười, gần ngày sinh nở, tâm trạng mẹ hiền: đêm đêm như bịnh nặng, ngày ngày tợ hoàng hôn, hồi hộp lo nghĩ, lệ sầu tuôn rơi, nghĩ ngợi mông lung, chỉ sợ tử thần không dung tánh mạng.

BA là ân sinh rồi quên lo. Trong khi sinh đẻ, gan ruột từ mẫu dường như xé rách, đau đớn mê man, máu huyết dầm dề, khi nghe con an toàn thì vui mừng quên hết, song vui đó lại buồn đó, lo nghĩ xiết ruột gan.

BỐN là ân nuốt đắng nhổ ngọt. Tình thương cha mẹ thật sâu nặng, thương mến có bao giờ nhạt phai. Nhổ ngọt không tiếc nuối, nuốt đắng nào phiền hà. thương mến càng sâu đậm, bi sầu càng tăng thêm, miễn sao con no ấm, đói khát mẹ nào từ.

NĂM là ân nhường khô nằm ướt. Mẹ nằm chỗ ướt át, nâng con chỗ ấm khô. Đôi vú no đói khát, hai tay che gió sương, yêu thương quên ngủ nghỉ, sủng ái hết giá lạnh, chỉ mong con yên ổn, mẹ hiền không cầu an.

SÁU là ân bú mớm nuôi nấng. Mẹ hiền ân hơn đất, cha nghiêm đức quá trời, che chở ân cao dày, cha mẹ nào tính toán, không hiềm không mắt mũi, không ghét què chân tay. Con sinh ra từ bụng mẹ, còn đổi dạ thương ai.

BẢY là ân tắm rửa săn sóc. Không nghĩ phận mình, chỉ lo con bệnh, cho nên hết lòng tắm rửa săn sóc. Áo quần lo cho con, rách rưới mẹ cam chịu. Thân con được đầy đủ là lòng mẹ ấm áp.

TÁM là ân xa cách thương nhớ. Chết mà từ biệt đã đành, khó nhẫn nại; sống mà biệt ly, lại càng rất nhớ thương. Con đi đường xa cách, lòng mẹ bóng theo hình, ngày đêm không thư dạ, sớm tối nào tạm quên. Khóc như khóc vượn nhớ con, thương nhớ nát can trường.

CHÍN là ân vì con làm ác. Lao khổ đủ muôn bề, bữa ăn rất khó kiếm. Vì muốn con no ấm, việc ác mẹ khó từ. Nuôi con khôn lớn, lo gầy dựng, lo cơm áo, sợ cơ hàn; kho nấu bao sinh vật, cũng vì ngon miệng con.

MƯỜI là ân thương mến trọn đời. Ân đức của cha mẹ cao sâu hơn trời đất, hi sinh hết tất cả, vẫn thấy chưa vừa lòng. Mẹ già hơn trăm tuổi còn thương con tám mươi. Tình thương có ngừng chăng, chỉ hơi thở cuối cùng.

A nan! Như Lai xét thấy chúng sinh tuy làm thân người, nhưng tâm trí vẫn còn tối tăm. Không biết ân đức cha mẹ cao dày. Không biết kính trọng, vong ân bội nghĩa. Không lòng mến thương, bất hiếu bất mục. Từ mẫu mang thai trong mười tháng tròn, đứng ngồi không yên, như gánh gánh nặng, ăn uống không xuống, như bệnh lâu ngày. Khi đủ ngày tháng, sắp sửa sinh con, thì đủ khổ sở, khiếp sợ tử thần, tánh mạng mong manh. Như vật bị hại, huyết chảy tràn đất. Mẹ khổ đến thế mới sinh ra ta. Sinh rồi nuốt đắng nhổ ngọt, bồng ẵm nuôi nấng, không kể mệt nhọc, chịu nắng chịu mưa, không từ cay đắng. Chỗ khô con nằm, chỗ ướt mẹ lăn. Suốt trong ba năm, nhờ huyết sữa mẹ mới thành đứa bé. Đến khi khôn lớn, lo việc giáo dục, lo việc hôn nhân, kinh doanh sản nghiệp, tận tụy lao lung. Khổ nhọc suốt đời, không kể công khó. Con cái tật bệnh, cha mẹ bệnh theo, bịnh con nếu hết, cha mẹ mới lành.

Qua đoạn kinh văn trên, chúng ta đã cảm nhận được một cách rõ ràng công ơn trời biển của hai đấng sinh thành.

Đức Phật đề cao sự hiếu dưỡng cha mẹ, Ngài dạy: “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”, hay trong kinh Đại Tập ghi: “Gặp thời không có Phật, khéo thờ phụng cha mẹ chính là thờ Phật”. Điều đó có nghĩa cha mẹ chúng ta chính là vị Phật sống trong nhà, cần phải tôn trọng, cúng kính, cúng dường.

Đã là người Việt Nam ai cũng thuộc câu:

“Công cha như núi thái sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Đạo làm con phải tròn chữ Hiếu. Công cha như núi Thái, nghĩa mẹ như nước trong nguồn, ý chỉ cho công ơn cha mẹ vô bờ bến. Hay nói cụ thể, công ơn vô lượng của cha mẹ có thể qui kết thành bốn ơn nặng:

THỨ NHẤT ÂN CHO THÂN:

Ân cho thân con hằng tạc dạ

Bởi từ đâu con đã nên hình

Dù cho bể đời nhục vinh

Nguyện xin trân quí mảnh hình hài xưa.

Ai cũng biết thân của chúng ta là do tinh cha huyết mẹ sinh ra, những danh, những phận, những quyền, những chức có được về sau đều phải nương vào thân này mới thành. Nếu không có thân này thì quyền danh chức phận sẽ gắn vào đâu? Thế mà có một số người được người khác ban cho chức vị, liền nhớ canh cánh trong lòng mong có dịp để báo đền, còn ân cho thân của cha mẹ nặng vô ngần thì không hề nhớ đến. Đáng thương thay!

Nên biết tấm thân này là một phần máu huyết của cha mẹ, là di sản của cha mẹ truyền trao cho con, cho nên ta phải trân quí di sản ấy, phải luyện tập để có một khối óc thông minh, một thân thể khỏe mạnh, đừng tự đầu độc mình bằng thuốc lá, xì ke, ma túy… làm cho thân tâm suy nhược lụi tàn. Đó là một hành động vong ân bội nghĩa.

THỨ HAI LÀ ÂN NUÔI DƯỠNG:

Nhờ đâu con được lớn khôn

Công ơn cha mẹ mỏi mòn tháng năm

Ân cha nghĩa mẹ tình thâm

Nguyện xin khắc cốt ghi tâm đáp đền.

Khi con cất tiếng khóc chào đời thì mẹ cũng hai dòng nước mắt chảy. Mẹ khóc không phải vì nỗi đau hay buồn phiền mà vì niềm vui quá đỗi. Qua bao chuỗi ngày mong đợi, giờ đây con đã ra đời. Thế rồi một quãng dài năm tháng, cha mẹ bận rộn với công việc nuôi con: “Mẹ nằm chỗ ướt át, nâng con chỗ ấm khô, đôi vú lo đói khát, hai tay che gió sương, yêu thương quên ngủ nghĩ, sủng ái hết giá lạnh, chỉ mong con yên ổn, mẹ hiền không cầu an”.

Một khi nào đó nhàn rỗi, lui về trong tĩnh lặng rồi suy niệm công ơn chạ mẹ, ta sẽ thấy thấm thía vô cùng.

Nuôi dưỡng đã khó như thế, nhưng chưa đủ, còn phải giáo dục con mới nên người.

THỨ BA LÀ ÂN GIÁO DỤC:

Dạy con từ thuở phôi thai

Dạy con từ thuở trong nôi dạy rồi

Dạy con cách học làm người

Biết ăn biết ở một đời thơm danh.

Hành trang cho con vào đời, bắt đầu từ những bài học của cha mẹ. Con nên hay hư trọng trách căn bản từ gia đình, bởi vậy trách nhiệm giáo dục của cha mẹ rất nặng, thường chi phối tính cách cả một đời của người con. Biết bao nhiêu người thành danh trong xã hội khi ôn lại quãng đời của mình vẫn thường nhắc đến những lời cha mẹ dạy dỗ năm xưa. Trách nhiệm càng lớn thì công ơn cha mẹ càng cao, kể sao cho xiết.

THỨ TƯ LÀ ÂN TÁC THÀNH:

Khi đã lớn nên danh nên phận

Cũng đều do cha mẹ tác thành

Nguyện xin giữ trọn thanh danh

Làm muôn phước thiện tâm thành hướng dâng.

Những người bất hạnh cha mẹ mất sớm, may mắn được bà con họ hàng thương yêu chăm sóc thì lúc còn thơ ấu, có thể người ấy chưa cảm nhận được sự thiếu vắng của cha mẹ, nhưng đến khi thành lập gia thất mới thấm thía cảnh mồ côi, mới khát khao sự hiện hữu của cha mẹ. Bởi có tình thương nào dành cho con lớn hơn cha mẹ? Bởi có ai mong con được thành người hơn cha mẹ?

Mặt khác, trong xã hội, dù người ấy có thực tàiđạo đức đi nữa cũng không khỏi bị sự nghi ngờ của một số người: Nó là con ai, liệu có đáng tin cậy không? Cho nên dù cha mẹ tuổi già sức yếu không giúp gì được cho con cái, nhưng cha mẹ là cây cao bóng cả, là chỗ nương tựa tinh thần vững chắc cho đàn con. Nhà thơ Tuấn Dũng đã viết: “Rồi mai con khôn lớn, bay đi khắp mọi miền, con đừng quên con nhé, cha mẹ là quê hương”.

Đúng thế, cha mẹ là quê hương, là cội gốc để con nở hoa cho đời.

Bốn ân trên là sự tóm kết công ơn vô lượng của cha mẹ. Trong kinh báo ân cha mẹ Đức Phật dạy: “Giá như có người, vai trái cõng cha, vai phải mang mẹ, cắt da đến xương, nghiền xương thấu tủy, máu đổ thịt rơi, cũng chưa báo đáp được thâm ân của cha mẹ”.

Vậy làm sao báo đáp được công ơn cha mẹ?

Khi cha mẹ còn sống, báo hiếu phải hội đủ năm yếu tố:

1. Hiếu là dưỡng:

Một hiện tượng đã xảy ra trong xã hội là có những người con để cho mẹ đói khát, nóng lạnh dãi dầu, trong khi đó họ và vợ con cơm no áo ấm, ăn sung mặc sướng… Và càng ngậm ngùi xót xa hơn:

Mẹ nuôi con biển hổ lai láng

Con nuôi mẹ tính tháng kể ngày.

Người như thế chắc chắn không ai thừa nhận là người con có hiếu. Vì thế hiếu hạnh trước tiêncung dưỡng cha mẹ. Cung cấp những thứ cần dùng như cơm áo, thuốc thang…trong khả nămg của mình để giúp cha mẹ sống được an ổn. Có những người con khi cha mẹ còn sống đối xử không ra gì, đến khi cha mẹ chết đi thì giả vờ vật vả khóc lóc như rất tiếc thương, như rất hiếu đức, nên nhân gian có câu: “Sống không cho ăn, chết làm văn tế ruồi”.điều đó thật vô nghĩa. Song dưỡng chỉ mới bước đầu, dưỡng mà không cung kính thì chưa phải là hiếu. Vì sao? Ta cung cấp cho cha mẹ với thái độ bất kính, hành động đó chẳng khác nào đem thức ăn cho lợn cho gà ăn. Vì thế cần phảiyếu tố thứ hai Hiếu là kính.

2. Hiếu là kính

Chúng ta kính cha mẹ của chúng ta không phải vì người có quyền uy thế lực hay để lại cho ta nhiều sự nghiệp vật chất mà ta kính người bởi bốn ơn nặng mà một đời cha mẹ đã dành cho chúng ta.

Gương của người xưa vẫn còn sáng: Hán Văn Đế là con của Hán Cao Tổ cùng cha khác mẹ với Huệ Đế. Mẹ của Văn Đế là Bạc Hậu đau yếu nhiều năm, ông tuy thân làm quốc chủ một nước nhưng ngoài những buổi chầu vẫn mặc triều phục đứng hầu mẹ, lo bệnh của mẹ đến quên ăn bỏ ngủ. Vì sợ có kẻ gian bỏ thuốc độc nên mỗi khi Thái hậu uống thuốc ông đều nếm thử rồi mới dâng lên. Thái hậu ái ngại thương con, bảo ông để cung nữ hầu hạ là được, nhưng ông không chịu thưa: “Nếu con trẻ không đỡ đần được chút việc cho mẹ lúc còn sống thì biết bao giờ mới có cơ hội báo đáp công ơn dưỡng dục!”. Bản thân là vua của một nước mà hiếu dưỡng đến dường ấy, kính cẩn đến dường ấy!

Tuy nhiên dưỡng và kính vẫn chưa tròn chữ hiếu mà còn phải là hòa thuận.

3. Hiếu là thuận hòa

Thuận là vâng lời cha mẹ. Có người nói: những lời cha mẹ nói đúng thì vâng lời đã đành, còn những lời nói sai cũng phải vâng lời sao? Đúng thế, những lời nói sai ta không thể vâng lời, nhưng trước mắt hãy thuận theo cha mẹ, đừng nên dùng những lời lẽ tai ngược phản bác kịch liệt vì cho rằng ta đúng. Làm như thế thật bất kính với cha mẹ. Ta hãy ôn hòa rồi chọn thời gian, không gian, tâm lí thích hợp để cải chính để cha mẹ hiều đúng sự thật. Đó mới là cách ứng xử của người con có hiếu. Hòa là anh em thương tưởng nhau, vợ chồng kính nhường nhau, tạo nên một gia đình đầm ấm hạnh phúc. Cha mẹ yên lòng khi thấy anh em hòa thuận, vợ chồng hòa hợp, làm cho cha mẹ yên lòng chính là hiếu vậy.

Lai Đích Nhân là người nước Sở, thời Xuân-Thu. Ông tuổi đã bảy mươi mà vẫn còn song thân. Sợ cha mẹ thấy con già nuathương xót lo buồn nên ông thường bày trò để cha mẹ vui. có khi thì mặt áo sặc sỡ nhiều màu tay múa miệng hát trước mặt cha mẹ; có lúc ông bưng nước hầu cha mẹ, lỡ trượt chân té, ngồi khóc hu hu như con trẻ, khiến cho cha mẹ bật cười trước trò ngộ nghĩnh này.

4. Hiếu là Hạnh

Hạnh nghĩa là làm những việc khó làm.

Khi cha mẹ tuổi đã về già, thân thể dần dần tàn lụi, thần trí cũng không còn minh mẫn, dễ giận khó vui, ưa hờn lẫy la mắng, ăn rồi nói chưa ăn, chưa ăn nói đã ăn; trái gió trở trời, đau ốm liên miên, thậm chí việc đại tiểu tiện cũng không tự chủ. Đây chính là lúc cha mẹ cần đến con cái để nâng đỡ chăm sóc. Những hiện tướng như vậy cho thấy cha mẹ không còn sống với chúng ta bao lâu nữa, vì thế đừng bao giờ bực bội xẳng giọng với người mà ngược lại phải dành hết kính yêu, sớm chiều săn sóc, chớ ngại những việc khó làm như dọn phân lau nước tiểu… cho cha mẹ. Nếu người con thương yêu cha mẹ, chăm sóc chu đáo thì cha mẹ có thể kéo dài thêm tuổi thọ. Ngược lại, nếu con bỏ bê chẳng hề đoái hoài, hay sẵn tiền của mướn người ở làm thì hạnh hiếu đã không trọn vẹn mà khiến cho cha mẹ buồn tủi mà sớm lìa bỏ cuộc đời.

Sưu Kiềm Lâu thời Nam Tề, lúc còn trẻ đã làm quan lớn. Một hôm đang làm việc ở công đường tự nhiên tim ông đập liên hồi, mình toát mồ hôi. Linh cảm có việc chẳng lành xảy ra cho gia đình, ông xin nghỉ phép về thăm nhà. Quả nhiên cha ông bị bệnh đã hai hôm. Mời bao nhiêu danh y mà chẳng đoán ra bệnh, ông lo lắng, nhiều đêm túc trực bên cha khiến ông ngã bệnh. Sau đó có một lương y nói với ông rằng phải nếm phân mới biết bệnh nặng hay nhẹ. Nếu phân đắng thì dễ chữa, phân ngọt thì vô phương. Nghe thế, ông chẳng ngần ngại nếm thử, phân cha có vị ngọt. Biết là khó trị, ông càng thương cảm, đêm ngày cầu trời, khấn Phật, xin bớt tuổi thọ mình cho cha. Với tâm thành chí kính, lòng hiếu của ông đã cảm động trời đất, kết quả bệnh của cha ông giảm dần rồi lành hẳn.

Nếm phân là một trong những việc khó làm, mà Sưu Kiềm Lâu có thể làm. Đó chính là hiếu hạnh.

Với người thế gian, làm được bốn điều trên thì xem như đã vẹn chữ hiếu. Là người Phật tử như thế vẫn chưa đủ. Vì làm được như trên chỉ mới lo cho cha mẹ trong đời hiện tại, mà chưa lo được đời sau cho cha mẹ. Nếu cha mẹ sau khi qua đời lại thác sinh vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh thì phận làm con sao khỏi đau xót, và như vậy sao tròn chữ hiếu? Thế nên người Phật tử phải biết hướng cha mẹ thoát khỏi ba cõi sáu đường.

5. Hiếu là giới

Trước hết, người con hiếu phải biết qui y Tam bảo giữ gìn giới hạnh. Bởi nhờ qui y giữ giới tu tập pháp lành mà nhân cách của con người được tỏa sáng, thì đó là một hình thức báo hiếu cha mẹ. Sau nữa, nếu gặp cha mẹ đã hướng về chính đạo thì phải biết tạo nhiều điều kiện hơn nữa cho cha mẹ tu tập công đức, dứt ác hành thiện. Nếu gặp cha mẹ chưa hướng về chính đạo thì phải dùng nhiều phương tiện khéo léo khuyên giải cha mẹ qui y Tam bảo, thụ trì giới cấm, làm lành lánh dữ để gây nghiệp nhân tốt cho kiếp sau sinh về cảnh giới an lành. Đó là ý nghĩa của yếu tố thứ năm.

Khi cha mẹ còn sống, nếu ai thực hành được năm yếu tố trên thì có thể gọi là chí hiếu. Còn không may cha mẹ qua đời thì phận làm con phải thể hiện chữ Hiếu như thế nào?

Cành hoa trắng màu sương gió

Thời gian phủ bạc mái đầu

Mẹ, cha ngày nào che chở

Bây giờ tôi biết tìm đâu ?

Đến một ngày nào đó, cha mẹ cũng từ giã cõi đời, xa ta mãi mãi, ôi! Lòng đau đớn biết dường nào! Một nhà thơ đã viết:

“Tôi thấy tôi mất mẹ

Như mất cả bầu trời”.

đau đớn đến tột cùng nhưng thực tế vẫn là thực tế, có sống tức phải là có chết, có hợp tức có li, đó là công lệ xưa nay. Ta hãy biến đau thương thành những hành động thiết thực, hãy làm những việc phước thiện, tích tập gom góp công đức để hồi hướng cho cha mẹ, cầu cho cha mẹ thác sinh vào cảnh giới an lành. Làm được như vậy, cha mẹ chúng ta chắc chắn nhờ phước đức ấy: nếu đã thác sinh vào chốn lành thì nay lại càng tốt hơn; nếu cha mẹ do ác nghiệp mà thác sinh vào ác thú thì tùy thuộc vào công đức của người con hồi hướng ít nhiều mà được nhẹ hơn hay thoát khỏi đường dữ.

Ở trên đã trình bày hai phần tri ânbáo ân cha mẹ. Phần tri ân, có thể tóm kết công ơn vô lượng của cha mẹ thành bốn ân chính, đó là ân cho thân, ân nuôi dưỡng, ân giáo dục và ân tác thành. Nho gia có câu: “Dưỡng dục phương tri phụ mẫu ân”. Nghĩa là ai đã từng làm cha làm mẹ mới rõ được công ơn của cha mẹ. Những bậc đã làm cha làm mẹ thì rất dễ dàng cảm nhận được thâm ân của cha mẹ, còn những ai chưa làm cha làm mẹ, xin hãy lắng tâm suy nghiệm công ơn của cha mẹ, thì sẽ thấy được một cách sâu sắc và chỉ khi nào thấy được một cách sâu sắc mới có tâm báo đáp công ơn cha mẹ một cách trọn vẹn.

Phần báo ân khi cha mẹ còn sống có thể qui kết thành năm yếu tố: Hiếu là dưỡng, hiếu là kính, hiếu là thuận hòa, hiếu là hạnh, hiếu là giới.

Khi cha mẹ qua đời, hiếu là nhất tâm cầu nguyện và tu tạo công đức tích tập phước thiện để hồi hướng cho hương hồn cha mẹ sinh vào chốn an lành.

Trong cuộc sống tương quan tương duyên, với qui luật cho và nhận đã tạo nên vô vàn nguồn ân khác như ân thầy, ân bạn, ân quốc gia xã hội, ân chúng sinh v.v... mà ở đây chỉ đặc biệt nói rộng về ân cha mẹ. Tri ânbáo ân với nghĩa rộng là bao hàm tất cả những nguồn ân khác. Người Phật tử hãy thức điều này để hằng ngày:

Sống trên đời, gắng giữ trọn chữ tâm

nhất niệm báo ân, đừng báo oán”

(Tôn nữ Hỷ Khương)

Nhân mùa Vu-lan về, với cảm xúc trào dâng không nguôi của một người bất hạnh đã mất hai đấng sinh thành, tôi viết những lời này như là lời tâm sự với chính mình và cũng làm quà tặng cho bạn đọc hữu duyên.

Nguyện cầu:

Cha mẹ anh em

Quyến thuộc thân bằng

Hiện đang còn sống

Phước huệ tăng thêm

Thân không bệnh khổ

Hiểu được Phật pháp

Qui y Tam bảo

Phát bồ-đề tâm

Tu tập pháp lành.

Và cũng nguyện cầu

Cha mẹ bảy đời

Bà con nhiều kiếp

Họ hàng thân thuộc

Nội ngoại hai bên

Những người đã mất

Nhờ công đức này

Đều thoát khổ thú

Sinh về tịnh cảnh.

Và đồng cầu nguyện

Pháp giới chúng sinh

Tình cùng vô tình

Trọn thành Phật đạo.

NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC-KIỀN-LIÊN BỒ-TÁT MA-HA-TÁT

Phước Viên ngày 12 tháng 07 năm Canh Dần
Kính ghi

Thích Định Viên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25633)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37862)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19566)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18654)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14254)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20091)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9492)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14352)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35556)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10645)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19694)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23190)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13353)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10740)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20196)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10593)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9952)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 17647)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17587)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13181)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31148)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25732)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13971)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17494)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10964)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12274)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10458)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12261)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11749)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9608)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12347)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9191)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8486)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9948)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9752)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12026)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14411)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9896)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11203)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8292)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10963)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14078)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9902)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15199)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13033)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23069)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23969)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12559)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15418)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17769)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15045)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16542)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16083)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17628)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11579)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11612)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17815)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10768)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10512)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11314)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12073)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11032)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36395)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8950)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9668)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34701)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17258)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10230)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10466)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12194)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13626)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14645)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9143)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24796)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11627)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10306)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15931)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15560)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14510)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12994)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12437)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14564)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18345)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9563)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18506)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18572)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19004)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18823)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11824)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13331)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47974)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11060)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13544)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13029)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11056)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12544)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11044)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31760)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11657)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
(Xem: 10115)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant