Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Truyền Tâm Pháp Yếu

02 Tháng Mười 201410:15(Xem: 20040)
Truyền Tâm Pháp Yếu


TRUYỀN TÂM PHÁP YẾU


Thiền Sư Hoàng Bá
Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch

bia_TruyenTamPhapYeu
Thiền Sư Đoạn Tế Núi Hoàng Bá

 

Sư bảo Hưu rằng :

Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt, không xanh không vàng, không hình không tướng, không thuộc có không, không kể mới cũ, chẳng dài chẳng ngắn, chẳng lớn chẳng nhỏ, vượt qua tất cả hạn lượng danh ngôn dấu vết đối đãi, chính thẳng đó là phải, động niệm liền trái. Ví như hư không, không có giới hạn, không thể đo lường. Duy một tâm nầy tức là Phật. Phật cùng chúng sanh không riêng khác. Chỉ vì chúng sanh chấp tướng cầu bên ngoài, càng cầu càng mất, khiến Phật đi tìm Phật, đem tâm bắt tâm, mãn đời cùng kiếp trọn không thể được. Họ chẳng biết, dứt suy nghĩ, quên toan tính, Phật tự hiện tiền. Tâm nầy tức là Phật, Phật tức là chúng sanh. Khi làm chúng sanh tâm nầy không giảm, khi làm chư Phật tâm nầy không thêm, cho đến lục độ vạn hạnh công đức như hà sa tự sẵn đầy đủ, chẳng nhờ tu mà thêm, gặp duyên liền thi thố, duyên dứt liền vắng lặng. Nếu người không quyết định tin tâm nầy là Phật, chấp tướng tu hành để cầu được công dụng đều là vọng tưởng, cùng đạo trái nhau. Tâm nầy tức là Phật lại không có Phật khác, cũng không có tâm khác.

Tâm nầy sáng sạch ví như hư không không có một điểm tướng mạo, khởi tâm động niệm liền trái pháp thể, tức là chấp tướng. Từ vô thủy đến nay không có Phật chấp tướng. Tu lục độ vạn hạnh muốn cầu thành Phật, tức là thứ lớp. Từ vô thủy đến nay không có Phật thứ lớp. Chỉ ngộ một tâm lại không có một chút pháp có thể được, đây tức là chơn Phật. Phật cùng chúng sanh một tâm không khác. Ví như hư không, không xen lẫn không hư hoại. Như vầng mặt trời soi bốn phương thiên hạ. Khi mặt trời lên, ánh sáng chiếu khắp cả thiên hạ, hư không không từng sáng; khi mặt trời lặn, bóng tối che trùm thiên hạ, hư không không từng tối. Cảnh tối sáng tự đuổi cướp nhau, tánh hư không rỗng lặng chẳng đổi. Phật và chúng sanh tâm cũng như thế. Nếu xem Phật thấy tướng giải thoátthanh tịnh sáng suốt, xem chúng sanh thấy tướng nhơ bẩn tối tăm, người thấy biết như vậy trãi qua số kiếp hà sa cũng không được Bồ Đề, vì chấp tướng vậy.

Chỉ một tâm nầy, trọn không có pháp bằng hạt bụi nhỏ có thể được, tức tâm là Phật. Như nay người học đạo không ngộ tâm thể nầy bèn ở trên tâm sanh tâm, hướng ra ngoài cầu Phật, chấp tướng tu hành đều là pháp ác, chẳng phải đạo Bồ Đề. Cúng dường chư Phật mười phương không bằng cúng dường một đạo nhơn vô tâm. Tại sao? Vì người vô tâm là không tất cả tâm, thể như như, trong như cây đá không động không lay, ngoài như hư không chẳng bít chẳng ngại, không năng sở, không chỗ nơi, không tướng mạo, không được mất. Người thú hướng mà không dám vào pháp nầy, sợ lạc vào không, không có chỗ nơi nương tựa, trông thấy mé rồi thối lui.

So sánh để tìm thấy biết rộng. Sở dĩ người thấy biết như lông, người ngộ đạo như sừng. Văn Thù xứng lý, Phổ Hiền xứng hạnh. Lý là lý chơn không vô ngại. Hạnh là hạnh lìa tướng không cùng. Quán Âm xứng đại từ. Thế Chí xứng đại bi. Duy MaTịnh Danh. Tịnh là tánh, danh là tướng. Tánh tướng không khác nên hiệu là Tịnh Danh. Các vị đại Bồ tát tiêu biểu nơi người đều sẵn có, không rời một tâm, ngộ đó tức phải. Nay người học đạo không hướng trong tâm mình mà ngộ, bèn ở ngoài tâm chấp tướng theo cảnh đều trái với đạo. Cát sông Hằng, Phật nói là cát. Chư Phật, Bồ tát, Thích phạm, chư Thiên đạp giẫm đi qua, cát cũng chẳng mừng; trâu, dê, trùng, kiến dày xéo lên trên, cát cũng chẳng giận. Trân bảo thơm tho, cát cũng chẳng tham; phẩn uế hôi thúi, cát cũng chẳng ghét. Tâm nầy tức tâmkhông tâm, lìa tất cả tướng, chúng sanh chư Phật không có sai biệt, chỉ hay vô tâm liền là cứu cánh. Người học đạo nếu không thể thẳng đó vô tâm thì nhiều kiếp tu hành trọn không thành đạo, bị công hạnh tam thừa ràng buộc không thể được giải thoát.

Nhưng chứng tâm nầy có nhanh chậm. Có người nghe pháp một niệm liền được vô tâm. Có người đến thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng mới được vô tâm. Dài hay ngắn được vô tâm mới trụ, lại không có thể tu, không có thể chứng, thật không sở đắc, chơn thật không dối. Người chỉ một niệm mà được, cùng người đến thập địa mới được, công dụng tương đương, không có sâu cạn, chỉ là nhiều kiếp luống chịu khổ nhọc vậy.

Tạo ác, tạo thiện đều là chấp tướng. Chấp tướng tạo ác luống chịu luân hồi, chấp tướng tạo thiện luống chịu nhọc nhằn; thảy đều không bằng một câu nói nhận được bổn pháp. Pháp nầy tức là tâm, ngoài tâm không có pháp. Tâm nầy tức là pháp, ngoài pháp không có tâm. Tâm tự vô tâm, cũng không vô tâm; đem tâm cầu vô tâm, tâm trở lại thành hữu (có). Thầm khế hội mà thôi. Dứt các nghĩ bàn, nên nói dứt đường ngôn ngữ, diệt chỗ tâm hành. Tâm nầy là cội nguồn thanh tịnh. Phật và người đều có. Các loài bò bay máy cựa cùng chư Phật, Bồ tát một thể không khác. Chỉ vì vọng tưởng phân biệt tạo các thứ nghiệp. Trên quả Phật sẵn có, thật không một vật, rỗng suốt vắng lặng sáng sủa, nhiệm mầu an lạc. Phải sâu tự ngộ nhập, thẳng đó là phải, tròn đầy sẵn đủ không có thiếu sót.

Giả sử người tinh tấn tu hành trãi qua ba vô số kiếp, qua các địa vị, cùng người do một niệm chứng được, chỉ là chứng cái sẵn có. Kỳ thật, trên Phật của mình không có thêm được vật gì, xem lại dụng công nhiều kiếp thảy đều là việc làm trong mộng. Cho nên, Như Lai nói: “Ta đối với A Nậu Bồ Đề (vô thượng chánh giác) thật không có sở đắc, nếu có sở đắc, đức Phật Nhiên Đăng ắt không thọ ký cho ta”. Lại nói: “Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp, ấy gọi là Bồ đề”. Tức tâm bản nguyên thanh tịnh nầy, chúng sanh, chư Phật, núi sông, thế giới, có tướng không tướng, khắp cả mười phương thế giới, tất cả đều bình đẳng không có tướng ta và kia. Tâm bản nguyên thanh tịnh nầy thường tự tròn sáng soi khắp, mà người đời không ngộ, chỉ lấy cái thấy nghe hiểu biết làm tâm, bị cái thấy nghe hiểu biết che đậy, do đó không thấy được bản thể tinh minh.

Chỉ nên thẳng đó vô tâm thì bản thể tự hiện. Như vầng mặt trời lên trên hư không soi sáng khắp mười phương không có chướng ngại. Người học đạo chỉ nhận cái thấy nghe hiểu biết động tác thi vi; không dẹp cái thấy nghe hiểu biết, tức là con đường tâm bặt dứt không có lối vào. Chỉ nơi cái thấy nghe hiểu biết nhận bản tâm. Song bản tâm không thuộc cái thấy nghe hiểu biết, cũng không rời cái thấy nghe hiểu biết. Cốt yếu là chớ ở trên cái thấy nghe hiểu biết khởi phân biệt, cũng chớ ở trên cái thấy nghe hiểu biết mà động niệm, cũng chớ lìa cái thấy nghe hiểu biết mà tìm tâm, cũng chớ bỏ cái thấy nghe hiểu biết mà nhận pháp. Không tức, không ly, không trụ, không trước, tung hoành tự tại đều là đạo tràng.

Ngườiđời nghe nói “chư Phật đều truyền tâm pháp”, cho là trên tâm riêng có một pháp có thể chứng có thể thủ, bèn đem tâm tìm pháp. Họ không biết tâm tức là pháp, pháp tức là tâm, không thể đem tâm lại cầu tâm, trãi ngàn muôn kiếp trọn không có ngày được. Đâu bằng chính nơi đó vô tâm, tức là bổn pháp. Như người lực sĩ quên hạt châu trên trán, hướng ra ngoài tìm kiếm, chạy khắp mười phương trọn không thể được. Gặp người trí chỉ cho, liền đó tự thấy bản châu như cũ. Người học đạobản tâm mình không nhận là Phật, bèn hướng ra ngoài tìm cầu khởi công dụng hạnh, y thứ lớp chứng, nhiều kiếp cần cầu hằng không thành đạo. Không bằng thẳng đó vô tâm, quyết định biết tất cả pháp vốn không sở hữu, cũng không sở đắc, không y không trụ, không năng không sở, không động vọng niệm, liền chứng Bồ đề. Đến khi chứng đạo, chỉ là chứng bản tâm. Phật nhiều kiếp dụng công đều là tu suông, như lực sĩ khi được châu chỉ được hạt châu sẵn trên trán, không quan hệ gì sức chạy ra ngoài tìm cầu. Cho nên, Phật nói: “Ta đối A Nậu Bồ Đề thật không sở đắc”. Sợ e người không tin nên dẫn ngũ nhãn đã thấy, năm câu đã nói, chơn thật không dối là đệ nhất nghĩa đế.

Người học đạo chớ nghi tứ đại làm thân, tứ đại không ngã (không thường cònvà không tự làm chủ), ngã cũng không chủ, cho nên biết thân nầy không ngã cũng không chủ. Chớ nghi năm ấm làm tâm, năm ấm không ngã cũng không chủ, cho nên tâm nầy không ngã cũng không chủ. Sáu căn, sáu trần, sáu thức hòa hợp sanh diệt cũng lại như vậy. Mười tám giới đã không thì tất cả đều không, chỉ có bản tâm thênh thang trong sạch.

thức thực, có trí thực. Thân tứ đại là bệnh ghẻ đói, tùy thuận nuôi dưỡng không sanh tham đắm, gọi là trí thực. Buông lung ý, chấp mùi vị vọng sanh phân biệt, chỉ cầu món ngon, không sanh nhàm chán, gọi là thức thực.

Thinh văn là nhơn tiếng được ngộ, nên gọi là Thinh văn. Bởi không rõ tự tâm, nên trên lời dạy sanh hiểu biết, hoặc nhơn thần thông, hoặc nhơn tướng tốt, ngôn ngữ vận động, nghe có Bồ đề Niết bàn tu hành trãi qua ba vô số kiếp mới thành Phật đạo, đều thuộc đạo Thinh văn, gọi đó là Thinh văn. Phật duy chỉ thẳng chóng rõ tự tâm xưa nay là Phật, không có một pháp có thể được, không có một hạnh có thể tu, đây là đạo vô thượng, đây là chơn như Phật.

Người học đạo chỉ sợ một niệm có, tức cùng đạo ngăn cách, niệm niệm không tướng, niệm niệm vô vi, tức là Phật. Người học đạo nếu muốn thành Phật thì tất cả Phật pháp thảy đều không dụng học, chỉ học không cầu, không đắm trước. Không cầu tức tâm không sanh, không đắm trước tức tâm không diệt, không sanh không diệt tức là Phật. Tám muôn bốn ngàn pháp môn đối trị tám muôn bốn ngàn phiền não, chỉ là môn giáo hóa tiếp dẫn. Vốn không tất cả pháp, lìa tức là pháp, người biết lìa là Phật. Chỉ lìa tất cả phiền nãokhông pháp có thể được.

Người học đạo nếu muốn được biết yếu quyết, thì chớ ở trên tâm để một vật gọi là Phật. Chơn pháp thân ví như hư không. Đây là dụ pháp thân tức hư không, hư không tức pháp thân. Người thường bảo pháp thân đầy khắp hư không, trong hư không gồm chứa pháp thân. Họ không biết pháp thân tức hư không, hư không tức pháp thân. Nếu quyết định nói có hư không thì hư không chẳng phải pháp thân. Nếu quyết định nói có pháp thân thì pháp thân chẳng phải hư không. Chớ khởi hiểu hư không thì hư không tức pháp thân. Chớ khởi hiểu pháp thân thì pháp thân tức hư không. Hư không cùng pháp thân không có tướng khác. Phật cùng chúng sanh không có tướng khác. Sanh tử cùng niết bàn không có tướng khác. Phiền não cùng bồ đề không có tướng khác. Lìa tất cả tướng tức là Phật.

Phàm phu chấp cảnh, đạo nhơn chấp tâm. Tâm cảnh cả hai đều quên, mới là chơn pháp. Quên cảnh vẫn dễ, quên tâm rất khó. Người không dám quên tâm, sợ rơi vào chỗ không, không sờ mó đến. Không biết không vốn chẳng không, chỉ một chơn pháp giới. Tánh linh giác nầy từ vô thủy đến nay tuổi đồng với hư không, chưa từng sanh, chưa từng diệt, chưa từng có, chưa từng không, chưa từng uế, chưa từng tịnh, chưa từng ồn náo, chưa từng vắng lặng, chưa từng bé, chưa từng già, không chỗ nơi, không trong ngoài, không số lượng, không hình tướng, không sắc tượng, không âm thinh, không thể tìm, không thể cầu, không thể dùng trí huệ mà biết, không thể dùng ngôn ngữ mà nhận, không thể dùng cảnh vật mà hội, không thể dùng dụng công mà đến. Chư Phật, Bồ tát cùng tất cả hàm linh xuẩn động đồng tánh đại niết bàn nầy. Tánh tức là tâm, tâm tức là Phật, Phật tức là pháp. Một niệm lìa chơn đều là vọng tưởng. Không thể đem tâm lại tìm tâm, không thể đem Phật lại cầu Phật, không thể đem pháp lại cầu pháp. Người học đạo thẳng đó vô tâm, thầm khế hội mà thôi.

Nghĩ tâm tức là sai, lấy tâm truyền tâm đây là chánh kiến. Dè dặt chớ hướng ra ngoài, chạy theo cảnh, nhận tâm duyên cảnh làm tâm là nhận giặc làm con. Vì có tham sân si nên lập giới định huệ. Vốn không có phiền não thì đâu có bồ đề. Cho nên Tổ sư nói: “Phật nói tất cả pháp, vì trừ tất cả tâm, ta không tất cả tâm, đâu dùng tất cả pháp”. Trên bổn nguyên thanh tịnh Phật, lại không để một vật. Ví như hư không, dù lấy trân bảo vô lượng để trang nghiêm, trọn không thể được. Phật tánh đồng hư không, dù lấy công đức trí huệ vô lượng để trang nghiêm, trọn không thể được. Chỉ mê bản tánh bèn không thấy vậy.

Nói rằng “Pháp môn tâm địa”, là muôn pháp đều y tâm nầy dựng lập, gặp cảnh tức có, không cảnh tức không, không thể trên tánh tịnh lại khởi biết cảnh. Nói định huệ, là quán dụng thì rõ ràng vắng lặng tỉnh táo, thấy nghe hiểu biết đều phải. Trên cảnh khởi hiểu, tạm vì người trung hạ căn nói thì được. Nếu muốn thân chứng đều không thể khởi thấy hiểu như thế, toàn là cảnh pháp, có chỗ lặn mất thì lặn mất ắt có nơi. Chỉ đối tất cả pháp không khởi thấy có không, tức là thấy pháp.

Từ Đại sư Đạt Ma đến Trung quốc chỉ nói một tâm, chỉ truyền một pháp. Lấy Phật truyền Phật, chẳng nói Phật khác; lấy pháp truyền pháp, chẳng nói pháp khác. Pháp tức là pháp không thể nói, Phật tức là Phật không thể thủ, mới là tâm bản nguyên thanh tịnh vậy. Chỉ một việc nầy thật, có hai cái khác thì chẳng phải chơn. Bát nhã là huệ, huệ nầy tức là bổn tâm vô tướng.

Phàm phu không đến đạo, chỉ buông lung sáu tình là đi trong sáu đạo. Người học đạo một niệm chấp sanh tử, liền rơi vào ma đạo; một niệm khởi các kiến (các thứ thấy biết khác) liền rơi vào ngoại đạo; thấy có sanh tiến đến diệt, liền rơi vào Thinh văn đạo; chẳng thấy có sanh chỉ thấy có diệt, liền rơi vào Duyên giác đạo; không khởi cái thấy có hai, chẳng chán chẳng ưa, tất cả các pháp chỉ là một tâm, nhiên hậu mới là Phật thừa.

Phàm phu đều theo cảnh sanh tâm, tâm bèn ưa chán. Nếu muốn không cảnh phải quên tâm ấy. Tâm quên tức là cảnh không, cảnh không tức là tâm diệt. Nếu không quên tâm mà chỉ trừ cảnh thì cảnh không thể trừ, càng thêm lăng xăng. Cho nên, muôn pháp chỉ là tâm, tâm cũng không thể được, lại cầu cái gì? Người học Bát nhã không thấy một pháp có thể được, dứt ý nơi tam thừa, chỉ một chơn thật không thể chứng được. Bảo là ta hay chứng hay đắc, đều là người tăng thượng mạn. Trên hội Pháp Hoa phủi áo ra đi, đều là bọn người nầy. Phật nói: “Ta đối với Bồ đề thật không sở đắc”, thầm khế hội mà thôi.

Phàm nhơn khi sắp mạng chung chỉ quán năm uẫn đều không, bốn đại vô ngã, chơn tâm không tướng, chẳng đi chẳng đến, khi sanh tánh cũng chẳng đến, khi tử tánh cũng chẳng đi, yên lặng tròn bặt, tâm cảnh nhất như. Chỉ hay quán như thế, liền đó chóng liễu ngộ, chẳng bị ba đời ràng buộc, bèn là người xuất thế. Dù người không được ít phần thú hướng, nếu thấy tướng lành, chư Phật đến đón và các thứ hiện trước, cũng không khởi tâm đi theo; nếu thấy tướng dữ các thứ hiện trước cũng không sanh tâm kinh sợ, chỉ tự quên tâm đồng với pháp giới, liền được tự tại, đây tức là thiết yếu vậy.

Nói Hóa thành đó, Nhị thừaThập địa, Đẳng giác, Diệu giác, đều là giáo quyền lập để tiếp dẫn, thảy là Hóa thành. Nói Bảo sở đó, là bảo chơn tâm, bản Phật, tự tánh, cái bảo nầy không thuộc về tình lượng, không thể kiến lập, không Phật, không chúng sanh, không năng không sở, chỗ nào có thành? Nếu hỏi: đây đã là Hóa thành, chỗ nào là Bảo sở? Bảo sở không thể chỉ, chỉ tức có chỗ nơi, không phải là chơn Bảo sở. Cho nên nói “ở gần” mà thôi. Không thể định lượng nơi đó, chỉ chính đây khế hội là phải. 

Nói xiển đề, là lòng tin không đủ vậy. Tất cả chúng sanh trong sáu đạo cho đến Nhị thừa không tin có Phật quả, đều gọi là đoạn thiện căn xiển đề. Bồ tát đó, tin sâu có Phật pháp, không thấy có đại thừa tiểu thừa, Phật cùng chúng sanh đồng một pháp tánh, gọi là thiện căn xiển đề. Đại để, nhơn nghe giáo mà ngộ, gọi là Thinh văn; quán nhơn duyên mà ngộ, gọi là Duyên giác. Nếu không hướng trong tâm mình mà ngộ, tuy đến thành Phật cũng gọi là Phật Thinh văn. Người học đạo phần nhiều đối trên giáo pháp mà ngộ, không ở trên tâm pháp mà ngộ, tuy trãi nhiều kiếp tu hành trọn không phải là bổn Phật. Nếu không nơi tâm mà ngộ, chỉ đối trên giáo pháp mà ngộ, tức là khinh tâm trọng giáo, bèn thành theo khối (theo hình tướng) mà quên bản tâm. Cho nên chỉ khế hội bản tâm, chẳng cần cầu pháp, tâm tức là pháp vậy.

Phàm nhơn phần nhiều bị cảnh ngại tâm, sự ngại lý, thường muốn trốn cảnh để an tâm, đuổi sự để còn lý, không biết chính là tâm ngại cảnh, lý ngại sự. Chỉ khiến tâm không, cảnh tự không, chỉ khiến lý lặng, sự tự lặng, chớ dụng tâm lộn ngược. Phàm nhơn phần nhiều không chịu không tâm, sợ rơi vào không, chẳng biết tâm mình vốn không. Người ngu trừ sự không trừ tâm, người trí trừ tâm không trừ sự. Bồ tát tâm như hư không, tất cả đều xả, làm những việc phước đức đều không tham trước. Nhưng xả có ba bậc: (1) trong ngoài thân tâm tất cả đều xả, ví như hư không, không có chỗ thủ trước, nhiên hậu tùy phương tiện làm lợi ích chúng sanh, năng sở đều quên, ấy là đại xả; (2) nếu một mặt hành đạo bủa đức, một mặt lại xả không có tâm mong cầu, ấy là trung xả; (3) nếu rộng tu các việc thiện, có chỗ mong cầu, nghe pháp biết không, nên mới không trước, ấy là tiểu xả. Đại xả như cây đuốc sáng để ở trước, lại không có mê ngộ. Trung xả như cây đuốc sáng để một bên, hoặc sáng hoặc tối. Tiểu xả như cây đuốc sáng để phía sau, không thấy hầm hố. Cho nên, Bồ tát tâm như hư không tất cả đều xả; quá khứ tâm không thể được, là quá khứ xả; hiện tại tâm không thể được, là hiện tại xả; vị lai tâm không thể được, là vị lai xả. Nên nói “ba thời đều xả”.

Từ đức Như Lai trao pháp cho Tổ Ca Diếp đến nay, lấy tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Ấn (con dấu) in trong hư không thì in không thành dấu. Ấn in nơi vật tức ấn không thành pháp. Cho nên lấy tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Năng ấn và sở ấn đều khó khế hội, nên người được ít. Song, tâm tức vô tâm, được tức không được.

Phật có ba thân, pháp thân nói pháp tự tánh rỗng suốt, báo thân nói pháp tất cả thanh tịnh, hóa thân nói pháp lục độ vạn hạnh. Pháp thân nói pháp không thể dùng hình ảnh âm thanh hình tướng văn tự mà cầu, không có nói không có chứng, tự tánh rỗng suốt mà thôi. Cho nên nói: “Không pháp có thể nói, ấy gọi là nói pháp”. Báo thân, hóa thân đều tùy cơ cảm mà hiện, có nói pháp cũng tùy sự hợp cơ để vì nhiếp hóa, đều không phải là chơn pháp. Cho nên nói: “Báo, hóa không phải chơn Phật, cũng không phải nói pháp”.

Nói “đồng một tinh minh phân làm sáu hòa hợp”. Một tinh minh là một tâm. Sáu hòa hợp là sáu căn. Sáu căn nầy mỗi cái cùng trần hợp. Mắt cùng sắc hợp, tai cùng tiếng hợp, mũi cùng mùi hợp, lưỡi cùng vị hợp, thân cùng xúc hợp, ý cùng pháp hợp. Khoảng giữa sanh sáu thức tổng cộng là mười tám giới. Nếu rõ mười tám giớikhông thật có, trói sáu hòa hợp làm một tinh minh. Một tinh minh là tâm vậy. Người học đạo đều biết cái nầy. Chỉ vì không thể vượt khỏi cái hiểu “một tinh minh và sáu hòa hợp”, bèn bị pháp trói không thể khế hội bản tâm. Như Lai ra đời muốn nói nhất thừa chơn pháp, ắt chúng sanh không tin sanh ra hủy báng, chìm trong biển khổ, nếu hoàn toàn không nói thì mắc lỗi xan tham, chẳng vì chúng sanh chỉ dạy diệu đạo. Ngài bèn lập phương tiện nói có ba thừa, thừa có đại tiểu, được có cạn sâu, đều không phải là bổn pháp. Cho nên nói: “Chỉ có đạo nhất thừa, có hai chẳng phải chơn”. Nhưng, vẫn chưa có thể hiển bày một tâm pháp, cho nên triệu Ca Diếp đồng trong pháp tòa riêng trao một tâm pháp rời nói năng, một nhánh pháp nầy khiến riêng thực hành. Nếu người hay khế ngộ liền đến Phật địa.

Hỏi : Thế nào là đạo? Tu hành thế nào?

Đáp : Đạo là vật gì mà ông muốn tu hành?

Hỏi : Các nơi Tông sư truyền nhau tham thiền học đạo là thế nào?

Đáp : Lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa có thể y cứ.

Hỏi : Đây là lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa biết tiếp dẫn người thượng căn lại nói pháp gì?

Đáp : Nếu là người thượng căn, tại sao lại đến người khác mà tìm, tự mình còn không thể được, huống là riêng có pháp xứng tình. Không thấy trong Kinh nói: “Pháp pháp hình trạng gì?”?

Hỏi : Nếu như vậy hoàn toàn không cần tìm kiếm?

Đáp : Nếu cùng mài dũa thì sức tâm tỉnh giác.

Hỏi : Như thế thì lẫn thành đoạn tuyệt, không thể là không?

Đáp : Ai dạy kia không? Kia là cái gì ông nghĩ tìm kia?

Hỏi : Đã không cho tìm, cớ sao lại nói “chớ đoạn kia”?

Đáp : Nếu không tìm liền thôi, ai dạy ông đoạn? Ông thấy hư khôngtrước mắt, làm thế nào để đoạn nó?

Hỏi : Pháp nầy có thể đồng với hư không chăng?

Đáp : Hư không sớm chiều đến ông nói có đồng có khác với ta chăng? Chỉ tạm nói như thế, ông bèn nhằm vào đó mà sanh hiểu.

Hỏi : Lý ưng cùng người sanh hiểu chăng?

Đáp : Tôi không từng chướng ông, cốt cái hiểu thuộc về tình, tình sanh thì trí cách.

Hỏi : Ở trong đó chớ sanh tình phải chăng?

Đáp : Nếu không sanh tình, nói gì là phải là quấy?

Hỏi : Vừa nhằm chỗ Hòa thượng nói ra, là tại sao lại rơi vào nói năng?

Đáp : Ông tự là người không hiểu lời nói, có cái gì là rơi vào?

Hỏi : Từ trên đến đây nói nhiều như thế đều là lời phản lại, hoàn toàn chưa từng chỉ bày thật pháp cho người?

Đáp : Thật pháp không điên đảo, nay chỗ hỏi của ông tự sanh điên đảo, tìm thật pháp chỗ nào?

Hỏi : Đã là chỗ hỏi tự sanh điên đảo thì chỗ đáp của Hòa thượng thế nào?

Đáp : Ông hãy tự lấy gương soi mặt mình, chớ xem xét người khác. Chỉ giống như con chó ngu thấy có tiếng động là sủa, không phân biệt gió thổi hay cây cỏ động.

Về Thiền tông tôi đây, từ các bậc tiền bối trao truyền đến nay, không từng dạy người cầu hiểu cầu biết, chỉ nói “học đạo” là lời để tiếp dẫn. Nhưng đạo cũng không thể học, còn nghĩ học hiểu trở thành mê đạo. Đạo không có chỗ nơi, gọi là tâm đại thừa. Tâm nầy không ở trong, ngoài, chặng giữa, thật không có chỗ nơi, hay nhất là không được khởi hiểu biết. Chỉ nói với ông chỗ tình lượng hiện nay, tình lượng nếu hết thì tâm không chỗ nơi. Đạo thiên chơn nầy vốn không danh tự. Bởi vì thế gian không biết, mê ở trong tình. Sở dĩ chư Phật ra đời nói để phá việc nầy, sợ e các ông không rõ, quyền lập tên “Đạo”. Không thể nhận tên sanh hiểu, nên nói “được cá quên nơm”. Thân tâm tự nhiên đạt đạo, biết tâm, đạt nguồn cội hiệu là Sa môn. Quả Sa môn là dứt duyên lự mà thành, không phải từ học mà được. Ông nay đem tâm cầu tâm, bên cạnh nhà người chỉ toan học lấy, có khi nào được. Người xưa tâm lanh lợi vừa nghe một câu bèn dứt học, sở dĩ nói là “tuyệt học vô vi nhàn đạo nhơn”. Người thời nay chỉ muốn được biết nhiều hiểu rộng, rộng cầu văn nghĩa, bảo là tu hành, không biết biết nhiều hiểu rộng trở thành bít lấp. Chỉ cần biết nhiều, sánh với trẻ con ăn tô ăn sữa, trọn không biết tiêu cùng chẳng tiêu. Người học đạo tam thừa đều giống như thế, chung gọi là ăn không tiêu. Nên nói “hiểu biết không tiêu đều là thuốc độc”. Hoàn toàn nhằm trong sanh diệt mà lấy, trong chơn như trọn không có việc nầy. Nên nói “trong kho vua của ta không có đạo như thế”. Từ trước có tất cả chỗ hiểu biết cần phải dẹp sạch, khiến không, lại không phân biệt, tức là Không Như Lai Tạng. Như Lai Tạng lại không một mảy bụi có thể có, tức là vị Pháp vương phá hữu xuất hiệnthế gian, cũng nói rằng “ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng không có một chút pháp có thể được”. Lời nói nầy chỉ là không. Tình lượng hiểu biết của ông cần được tiêu dung, trong ngoài tình hết, trọn không y chấp, là người vô sự. Cương yếu giáo lý tam thừa, chỉ là thứ thuốc hợp cơ, tùy nghi nói ra, tạm thời lập bày, mỗi mỗi không đồng, chỉ cần rõ biết thì không bị mê hoặc, là hay bậc nhất. Không được bên một cơ, một giáo chấp văn nhận hiểu. Tại sao như thế? Thật không có pháp nhất định Như lai có thể nói. Tông môn của tôi đây chẳng bàn việc nầy, chỉ biết dứt tâm liền thôi, không cần suy trước tính sau.

Hỏi : Từ trước đến nay đều nói “tức tâm là Phật”, chưa biết tức tâm nào là Phật?

Đáp : Ông có bao nhiêu thứ tâm?

Hỏi : Tức tâm phàm là Phật hay tức tâm thánh là Phật?

Đáp : Ông chỗ nào có tâm phàm thánh?

Hỏi : Nay trong tam thừa nói có phàm thánh, Hòa thượng đâu được nói không?

Đáp : Trong tam thừa rõ ràng nói với ông “tâm phàm thánh là vọng”, nay ông không hiểu trở lại chấp là có, đem không làm thật, đâu không phải là vọng, vọng nên mê tâm. Ông chỉ trừ dẹp tình phàm cảnh thánh, ngoài tâm không có Phật khác. Tổ sư từ Ấn độ đến, chỉ thẳng mọi người toàn thể là Phật. Nay ông không biết chấp phàm chấp thánh, nhằm ngoài chạy tìm, trở lại mê tâm mình, vì thế nên đến ông nói “tức tâm là Phật”. Một niệm tình sanh liền sa vào cõi khác. Từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay, không có pháp khác, nên gọi thành Đẳng Chánh Giác.

Hỏi : Hòa thượng nói “tức” là đạo lý gì?

Đáp : Tìm đạo lý gì? Vừa có đạo lý bèn tức tâm khác.

Hỏi : Trên nói “từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay”, lý nầy thế nào?

Đáp : Chỉ vì khởi nghĩ tìm nên ông tự khác, ông nếu không tìm thì chỗ nào có khác?

Hỏi : Đã là không khác sao lại phải nói“tức”?

Đáp : Ông nếu không nhận phàm thánh thì ai đến ông nói “tức”, tức như không tức, tâm cũng chẳng tâm, nên trong ấy tâm tức đều quên, người nào lại nghĩ, nhằm chỗ nào tìm?

Hỏi : Vọng hay chướng tâm mình, chưa biết nay nên lấy cái gì dẹp vọng?

Đáp : Khởi vọng dẹp vọng cũng thành vọng, vọng vốn không gốc, chỉ nhơn phân biệt mà có. Ông chỉ hết hai cái chấp phàm thánh, tự nhiên không vọng. Nếu vì dẹp nó, trọn không được có một mảy y chấp, gọi là “ta bỏ hai cánh tay ắt sẽ được Phật” [1][1].

Hỏi : Đã không y chấp thì truyền trao thế nào?

Đáp : Lấy tâm truyền tâm.

Hỏi : Nếu tâm truyền nhau, tại sao nói tâm cũng không?

Đáp : Không được một pháp gọi là truyền tâm, nếu rõ tâm nầy tức là không tâm không pháp.

Hỏi : Thế nào gọi là truyền?

Đáp : Ông nghe nói truyền tâm bèn cho là có khả đắc. Sở dĩ Tổ sư nói: “Khi nhận được tâm tánh, nên nói không nghĩ bàn, rõ ràng không sở đắc, khi được không nói biết”. Việc nầy nếu đem dạy ông đâu kham lãnh hội.

Hỏi : Như hư khôngtrước mắt, thật không phải cảnh, sao không chỉ cảnh để thấy được tâm?

Đáp : Tâm gì mà dạy ông nhằm trên cảnh thấy? Giả sử ông thấy được chỉ là cái tâm chiếu cảnh. Như người dùng gương soi mặt, tất nhiên thấy được mày mắt rõ ràng, nguyên lai chỉ là bóng dáng, đâu quan hệ gì việc của ông?

Hỏi : Nếu không nhơn chiếu khi nào được thấy?

Đáp : Nếu vậy liên hệ đến nhơn, thường phải nhờ vật, có khi nào được liễu ngộ. Ông không thấy người đến ông nói: “buông tay tợ người không một vật, luống công dối nói mấy ngàn điều”.

Hỏi : Nếu người hiểu rồi, chiếu cũng không vật sao?

Đáp : Nếu là không vật thì cần gì phải chiếu, ông nếu mở mắt thì nói hết ngủ.

Ngài thượng đường bảo :

Biết nhiều trăm thứ, chẳng bằng không cầu, tột bậc nhất vậy. Đạo nhơn là người vô sự, thật không có những tâm nhiều thứ ấy, cũng không có đạo lý gì có thể nói. Vô sự giải tán đi !

Hỏi : Thế nào là thế đế?

Đáp : Nói nhánh nhóc ấy làm gì? Xưa nay thanh tịnh đâu nhờ nói năng vấn đáp, chỉ không tất cả tâm liền gọi là trí vô lậu. Ông mỗi ngày đi đứng ngồi nằm, tất cả nói năng, chớ đắm pháp hữu vi, nói năng nháy mắt thảy đồng vô lậu. Như nay nhằm đời mạt pháp, phần nhiều người học thiền học đạo đều đắm tất cả thinh sắc, sao không cùng ta mỗi tâm đồng hư không đi, như cây khô hòn đá đi, như tro tàn lửa tắt đi, mới có một ít phần tương ưng. Nếu không như thế, hôm nào sẽ bị Diêm vương dẫn ông đi. Ông chỉ lìa hẳn các pháp hữu vô, tâm như vầng mặt trời trong hư không, ánh sáng tự nhiên không chiếu mà chiếu, không phải là việc của sức phản tỉnh. Khi đến đây thì không chỗ nương tựa, tức là làm hạnh của chư Phật, bèn là “nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia”. Đây là pháp thân thanh tịnh của ông, gọi là A Nậu Bồ Đề(vô thượng chánh đẳng chánh giác). Nếu không lãnh hội được ý nầy, dù ông học rộng biết nhiều, siêng năng khổ nhọc tu hành, áo cỏ ăn cây, không biết tâm mình đều gọi là hạnh tà, quyết định sẽ làm quyến thuộc của thiên ma, tu hành như thế có ích lợi gì? Chí Công nói: “Phật vốn tâm mình làm, đâu được trong văn tự cầu”. Dù ông học được tam hiền tứ quả, thập địa mãn tâm, cũng chỉ là ngồi trong phàm thánh, không thấy đạo. Các hạnh vô thường là pháp sanh diệt, thế lực hết thì tên lại rơi xuống, chiêu cảm quả đời sau không như ý. Đâu bằng môn thật tướng vô vi, một phen vượt lên thẳng đến địa vị Như Lai. Vì ông không thể như người kia, nên cần đến hóa môn của cổ nhơn, học hiểu cho rộng. Chí Công nói: “Không gặp minh sư xuất thế, uổng uống pháp dược đại thừa”. Ông hiện nay trong tất cả thời, đi đứng ngồi nằm, chỉ học vô tâm, lâu ngày sẽ thật đắc. Vì ông sức kém, không thể đốn siêu, cần được ba năm, năm năm, hoặc mười năm, phải được chỗ vào, tự nhiên hội giải. Nếu ông không thể như thế, thiết tha đem tâm học thiền học đạo, Phật pháp có gì liên hệ? Cho nên nói: “Như Lai nói ra đều vì giáo hóa người, như nắm lá vàng bảo là vàng để vỗ trẻ con khóc, quyết định không thật”. Nếu có thật đắc thì không phải là người khách trong tông môn của ta, vã lại cùng bản thể của ông có liên hệ gì? Cho nên Kinh nói: “Thật không có chút pháp có thể được gọi là A Nậu Bồ Đề”. Nếu như hội được ý nầy, mới biết Phật đạo ma đạo đều lầm. Chỗ xưa nay thanh tịnh trong sáng không tướng vuông tròn, lớn nhỏ, dài ngắn v.v... Vô lậu vô vi không mê không ngộ, rõ ràng thấy không một vật, không người cũng không Phật, “đại thiên sa giới bọt trong biển, tất cả thánh hiền như điện chớp”. Tất cả không bằng tâm chơn thật pháp thân, từ xưa đến nay cùng Phật, Tổ đồng một loại, chỗ nào thiếu kém một mảy lông? Đã hội được ý như thế, cần phải cố gắng trọn một đời nầy thôi, hơi thở ra không bảo đảm trở vào !

Hỏi : Lục Tổ không hiểu Kinh sách sao được truyền y làm Tổ, thượng tọa Tú là thủ tọa của năm trăm người, làm thầy giáo thọ, giảng được ba mươi hai bổn kinh luận, tại sao không được truyền y?

Đáp : Vì Tú có tâm là pháp hữu vi, có tu có chứng cho là phải. Ngũ Tổ trao cho Lục Tổ. Lục Tổ khi ấy chỉ nhằm khế hội, được thầm trao ý thậm thâm của Như Lai. Do đó truyền y cho Ngài. Ông chẳng thấy nói:

Pháp bổn pháp vô pháp

Vô pháp pháp diệc pháp

Kim phó vô pháp thời

Pháp pháp hà tằng pháp.

Dịch :

Pháp bổn pháp là không pháp

Pháp không pháp cũng là pháp

Nay trao cái không pháp nầy

Mỗi pháp đâu từng là pháp.

Nếu hội được ý nầy mới là kẻ xuất gia, mới là tu hành tốt. Nếu không tin, tại sao thượng tọa Minh chạy đến ngọn Đại Dữu tìm Lục Tổ, Lục Tổ hỏi: “Ngươi đến cầu việc gì, vì cầu y hay vì cầu pháp?”. Thượng tọa Minh nói: “Không vì y mà đến, chỉ vì pháp mà đến”. Lục Tổ bảo: “Ông hãy tạm thời dừng niệm, thiện ác đều chớ nghĩ tính”. Thượng tọa Minh nhận lời nầy. Lục Tổ bảo: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, chính khi ấy hiện lại bộ mặt thật của thượng tọa Minh khi cha mẹ chưa sanh”. Thượng tọa Minh ngay câu nói đó bỗng thầm nhiên khế hội, bèn lễ bái thưa: “Như người uống nước, lạnh nóng tự biết, tôi ở trong hội Ngũ Tổ uổng dùng công phu ba mươi năm, ngày nay mới biết lỗi trước”. Lục Tổ bảo: “Khi đến đây mới biết Tổ sư từ Ấn độ đến, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, không ở nói bàn”. Đâu không thấy Tổ A Nan hỏi Tổ Ca Diếp: “Thế tôn ngoài truyền kim lan (y xiêm), còn riêng truyền pháp gì?”. Ca Diếp gọi: “ A Nan ! “. A Nan đáp: “Dạ !”. Ca Diếp bảo: “Cột phướng trước cửa chùa ngã lật ngược”. Đây là chỗ bộc lộ của Tổ sư vậy. Ngài A Nan ba mươi năm làm thị giả, chỉ vì trí huệ đa văn bị Phật quở: “Người ngàn ngày học huệ, không bằng một ngày học đạo. Nếu không học đạo, một nhỏ nước cũng không tiêu”.

Hỏi : Thế nào để không rơi vào thứ lớp?

Đáp : Chỉ hằng ngày ăn cơm mà chưa từng nhai một hạt gạo trắng, trọn ngày đi mà chưa từng đạp một cân đất, cùng khi ấy không có tướng nhơn, tướng ngã... trọn ngày không rời tất cả việc mà không bị các cảnh mê hoặc, mới gọi là người tự tại. Lại lúc nào mỗi niệm đều không thấy tất cả tướng, chớ nhận ba thời trước sau, quá khứ không đi, hiện tại không dừng, vị lai không đến, ngồi ngay an ổn mặc tình không câu chấp, mới gọi là người giải thoát. Cố gắng! Cố gắng! Trong môn nầy, ngàn người muôn người chỉ được ba người năm người. Nếu không làm việc nầy, ắt có ngày thọ ương. Cho nên nói: “Cố gắng đời này phải xong xuôi, còn đâu nhiều kiếp mang tai họa”.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22955)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13999)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12928)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55053)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9113)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14393)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14136)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14161)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13863)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36242)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19839)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18134)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19155)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19086)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20251)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17594)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31478)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15886)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14945)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14644)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46117)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35874)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20997)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21547)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23326)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34304)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19447)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18904)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22888)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20131)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18309)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19795)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19493)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33367)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34409)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54458)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37636)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21097)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17854)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63566)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17335)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49585)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27355)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20240)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22984)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18858)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16302)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17880)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20912)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17323)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14423)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16829)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16344)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15977)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17440)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21930)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15076)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13459)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14334)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15340)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14950)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12651)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13315)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27349)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12473)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13156)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14443)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16183)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12363)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15369)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12842)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12165)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13173)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21590)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11257)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22656)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15017)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14908)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46163)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22396)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14504)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12588)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18872)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14696)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43805)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56914)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13806)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47424)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13614)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14538)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28964)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33239)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38303)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15366)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31174)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12497)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40345)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43352)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46595)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14389)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant