Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ngày Tết là dịp để quên hay để nhớ ?

21 Tháng Mười Hai 201405:26(Xem: 14647)
Ngày Tết là dịp để quên hay để nhớ ?

 

 

Ngày Tết là dịp để quên hay để nhớ ?

 

Hoang Phong

           

 

            Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai. Những ước mơhy vọng ấy có thể rất khiêm nhường như trả bớt nợ nần, kiếm đủ ăn cho gia đình, thế nhưng cũng có những ước mơ to lớn hơn như xây thêm một ngôi biệt thự, sắm một chiếc xe hơi mới, hoặc hùn hạp đầu tư trong những dự án kinh doanh quan trọng. Dù là những người phải chật vật vì sinh kế hay là các "đại gia" thì Tết luôn là một dịp để tất cả cùng  quên đi năm cũ và gác lại những gì sau lưng mình để mà gửi đến nhau những lời chúc lành tốt đẹp nhất cho năm mới.

           

            Thế nhưng theo truyền thống thì Tết cũng là dịp để tưởng nhớ đến những người đã khuất, ngoài ông bà hay cha mẹ mình ra thì cũng còn rất nhiều những người khác nữa. Đó là những người dù không thuộc gia đình mình, không cùng chính kiến hay lý tưởng với mình nhưng cùng mang một dòng máu và nguồn gốc tổ tiên với mình. Vì thế thiết nghĩ trong những ngày xuân chúng ta cũng nên mở rộng lòng mình để tưởng nhớ đến tất cả những người đã khuất, nhất là những người kém may mắn hơn mình đã phải nằm xuống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động, phi lý và điên rồ, mang lại không biết bao nhiêu đau thương.  

 

            Những người đã vĩnh viễn ra đi bao giờ cũng yên lặng, không còn ồn ào, náo động, với đầy rẫy những hy vọngước mơ của những kẻ đang còn ngụp lặn trên cõi đời này như chúng ta hôm nay nữa. Nếu muốn thấu hiểu và chia sẻ cái yên lặng ấy với họ thì chúng ta cũng phải nhận ra cái yên lặng trong lòng mình, và đồng thời cũng phải cảm nhận được nó trong bối cảnh chung quanh. Thật vậy, giữa cảnh nhộn nhịp và ồn ào của ngày Tết thì cái yên lặng ấy quả rất khó phát hiện, vì thế chúng ta cũng nên nén lòng mình lắng xuống để có thể trực diện với nó. Sự yên lặng ấy rất kín đáo, nó len vào giữa những tiếng cười và tiếng khóc, nó nấp phía sau bạc tiền và sợ hãi.

 

            Bên tách trà đầu xuân, những mong một vài vần thơ góp nhặt dưới đây đã được viết từ lâu có thể sẽ gợi lên một chút yên ắng và bâng khuâng nào đó trong lòng chúng ta. Thế nhưng biết đâu những vần thơ ấy cũng có thể khiến cho tách trà bớt thơm và đĩa mứt bớt ngọt hơn trong những ngày Tết, thì cũng xin người đọc niệm tình thứ lỗi mà hãy cùng hân hoan chào đón một năm mới tràn đầy hy vọng.

 

                                                                                    Bures-Sur-Yvette, 03.12.14

 

 

Bài thơ thứ I:

 

            Bài thơ này được viết để tặng một người bạn cũ mà tôi gặp lại trong một dịp khá bất ngờ tại Hà Nội vào khoảng cuối năm 1989, trong một chuyến công tác ở Việt Nam.

 

            Này T. ạ, ngày hôm đó, từ khách sạn Hữu Nghị đi đến nhà em trên đường Hàng Bún, ngang khách sạn Bông Sen, và trước khi bước vào khu chợ, anh trông thấy một người phụ nữ còn trẻ, trẻ lắm, chỉ độ hơn hai mươi. Người phụ nữ gánh một thúng rau phía trước, trong thúng phía sau có một đứa bé độ lên ba, đầu nghiêng sang một bên, đang ngủ gà ngủ gật. Đứa bé mặc áo vá ở vai, ở lưng, và quần cũng vá. Thúng phía trước đặt một cái rá vừa miệng thúng, bên trên có ba bó cải cúc, hai bó rau muống, một quả bí đao dàì hơn gang tay, một ít cà pháo và một ít ớt gom lại thành hai nhúm cạnh nhau.

 

            Anh bước theo cùng một nhịp với chiếc gánh kẻo kẹt trên vai người phụ nữ. Thúng rau nhẹ hơn đứa bé nên người phụ nữ phải dang tay ra phía trước để ghì xuống giữ cho quang gánh cân đồng sức nặng. Dáng người phụ nữ mảnh mai và nhanh nhẹn. Anh rảo bước nhanh hơn và ngoảnh lại nhìn. Người phụ nữ mộc mạc, không chải chuốt. Mái tóc ngang vai, cài vén ra phía sau bằng một chiếc lược sừng. Mặt người phụ nữ thon dài nhưng đầy đặn, tuy dính vài vết bùn trên má và trên trán, nhưng không vì thế mà che dấu được nét trẻ trung, có thể còn gọi là non nớt nữa. Nhưng T. ạ, cặp mắt, cặp mắt buồn, bình thản, lạnh lùngnhẫn nhục. Một cặp mắt hình như đang chôn dấu một cái gì đó, đang đè nén một tình cảm nào đó. Một cặp mắt sâu thẳm không mấy khi anh được trông thấy.

 

            Hôm nay giữa biển khơi của vùng Bắc Âu, trời thấp và gió lạnh, lạnh hơn nhiều so với Hà Nội ngày hôm ấy, anh bỗng chợt nhớ đến bóng dáng của người phụ nữ gánh con và gánh rau đi về phía chợ Hàng Bún, hướng nhà em. Cái hình ảnh ray rứt đó làm cho anh nghẹt thở và khiến anh liên tưởng đến một giai đoạn lịch sử trên quê hương ta.

 

 

                Ru Con

 

Con ơi con ngủ cho ngoan,

Mẹ còn cuốc đất lại còn tưới rau.

Chợ mai mẹ gánh cho mau,

Thúng rau phía trước thúng sau con ngồi.

Đong đưa nhịp võng à ơi,

Mẹ mơ mẹ tưởng đến ngày con khôn.

Ru con say giấc ngủ mòn,

Mẹ lau nước mắt mẹ mòn nhớ thương.

Nhìn con nhắm mắt mà thương,

Để mẹ trông lén vào gương chải đầu.

Ru con giấc ngủ chìm sâu,

Thương con lòng mẹ âu sầu héo hon.

Ru con say giấc ngủ mòn,

Quần con rách nát mẹ còn phải khâu.

Con ơi con ngủ cho lâu,

Để mẹ ngồi khóc mẹ đau một mình.

Lắc lư nhịp võng rung rinh,

Tủi thân cho mẹ một mình cô đơn.

Ngày nào mẹ gặp cha con,

Yêu cha mẹ mới tuổi tròn đôi mươi.

Nhìn con giấc ngủ nửa vờì,

Nhớ cha quên cả tuổi đời còn xanh.

Ngày xanh sao khéo mong manh,

Hoa chưa đơm trái trên cành đã tan.

À ơi con ngủ cho ngoan,

Cha con một nắm xương tàn rừng sâu.

Tình yêu như giọt mưa ngâu,

Chưa chùi giọt ngắn đã lau giọt dài.

Thương cha con ngủ cho say,

Để mẹ ngồi nhớ những ngày mẹ yêu.

Yêu cha con những buổi chiều,

Mồ hôi ướt áo nắng chiều nhạt phai.

Cha con chiếc áo sờn vai,

Lần đầu mẹ nhớ thuở ngày gặp nhau.

Áo này mẹ gối lên đầu,

Mẹ ôm mẹ ngủ vẹn màu thủy chung,

Nhớ sao thương mấy cho cùng,

Cha con lạnh lẽo hố chung xương tàn.

Con ơi con ngủ cho ngoan,

Mẹ mở cái áo mẹ quàng lên tim.

À ơi con ngủ cho im,

Áo này mẹ đắp mẹ tìm lấy hơi.

Bao giờ con lớn con ơi,

Con mặc được áo mẹ vui mẹ mừng.

 

            Chờ lưng con đủ dài, vai con đủ rộng để khoác chiếc áo này của cha là hy vọng của mẹ. Niềm hy vọng đó sẽ giúp mẹ đủ can đảm để sống và để cam chịu số phận hẩm hiu của mẹ.

 

…Nhưng đến ngày đó anh biết không, em cũng sẽ phải già đi vì nhọc nhằn và thương nhớ. Hình bóng anh có lẽ cũng sẽ mờ dần trong đôi mắt em. Tai em cũng sẽ lãng để không còn nghe thấy tiếng thở của anh mỗi đêm. Chiếc áo này cũng sẽ phai nhạt hơi anh…

           

            Con hãy ngủ cho say, để mẹ cởi cái quần này của con mà vá rồi giặt cho con. Mẹ hứa là Tết năm nay, mẹ sẽ mua cho con một chiếc quần mới, nhưng mẹ không thể phá chiếc áo này của cha để may quần cho con. Đó là kỷ vật duy nhất của cha con còn lại. Chiếc áo này mẹ còn nhớ cha con đã mặc khi gặp mẹ lần đầu. Những quần áo khác của cha, mẹ đã bán đi từ năm ngoái, khi con ốm nặng.

 

            Con hãy nhắm mắt ngủ yên, như thế con sẽ cho riêng mẹ một vài giây phút ngắn ngủi để soi gương và chải lại mái tóc của mẹ. Thương cha mẹ thấy xấu hổ khi soi gương và chải tóc trước mặt con. Mẹ biết mẹ còn trẻ, mái tóc mẹ còn xanh. Mẹ rất sợ nhìn thấy hình bóng mẹ trong gương. Mẹ cố quên đi và chối bỏ những ngày xanh của mẹ.

 

            Mẹ không kể cho con nghe những ngày hạnh phúc của mẹ bên cha, vì mẹ cũng không dám nghĩ đến nữa. Những ngày đó ngắn ngủi lắm, nhưng êm đềm biết bao.

 

            Mẹ cũng không nói là tại sao cha con đã chết. Mẹ chỉ biết rằng những người đồng đội với cha con nhắn về cho biếtcha con đã nằm xuống với nhiều người khác nữa bên lề một con đường mòn trong dãy Trường Sơn, gần một thôn xóm nào đó. Tên gọi nơi này là gì thì mẹ cũng đã quên rồi vì chẳng biết là nó ở đâu. Đối với mẹ, cha con lúc nào cũng sống bên cạnh mẹ, an ủi mẹ , khuyến khích mẹ và giúp mẹ can đảm để nuôi con.

            Khi lớn lên mẹ sẽ cho con đi học. Trong những giờ học lịch sử, cô giáo sẽ giảng cho con nghe tại sao cha con phải chết. Thật vậy mẹ cũng không hiểu được rành rọt. Thỉnh thoảng có những đoàn người đến đây bắc loa hô hào, giải thích nhiều lắm, nhưng mẹ không đủ trí thông minh để hiểu và nhớ hết để mà lập lại cho con nghe. Ngày còn nhỏ nào mẹ có được đi học đâu.

            Thôi con ngủ đi, để mẹ được một lúc riêng tư để tưởng nhớ đến cha con và chải lại mái tóc của mẹ. Ngày mai mẹ sẽ gánh thúng rau phía sau, mẹ không cần ai trông thấy rau tươi của mẹ để gọi mua, mẹ sẽ đặt con vào thúng trước để lúc nào cũng nhìn thấy con. Mẹ sẽ vừa gánh vừa nói chuyện với con, dù con còn quá nhỏ để hiểu được mẹ đang nói gì. Mẹ sẽ chọn những quãng đường vắng để trò chuyện với con vì nếu người đi đường trông thấy thì biết đâu họ sẽ bảo mẹ là một người điên đấy.

 

                                    Bắc Hải (North Sea) thuộc hải phận của xứ Tô Cách Lan (Scotland)

                                                (trên giàn khoan Ocean Benloyal, ngày 12.06.1991)

 

 

Bài thơ thứ II:

           

 

              Đi thăm con

 

Hôm nay đi thăm con.

Mẹ nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Mẹ vẫn thương con như khi con còn trong nôi,

Như khi con mới biết ngồi.

Từ quê lên hai ngày đường,

Mẹ nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Năm mười tám tuổi,

Con nằm xuống ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này,

Một viên đạn nhỏ đã giết con.

Ngày xưa cha con cũng đã ngã xuống,

Vì một viên đạn đồng nhỏ xíu.

Những viên đạn của hận thù hay vui sướng?

Kẻ thù của con có vui mừng khi bắn trúng con?

Chắc họ được bằng khen thưởng và gắn huân chương?

Con đã làm gì khiến kẻ khác hận thù con?

Con có đau đớn lắm không khi ngã xuống ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này?

Con có cảm thấy viên đạn xuyên vào da thịt con và hất con ngã xuống?

Mẹ tin rằng con đã nghĩ đến mẹ và thương mẹ trước khi con nhắm mắt!

Con hãy thức dậy với mẹ!

Hôm nay mẹ lại nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Mẹ vẫn thương con như khi con còn trong nôi,

Tập đi đôi chân còn vấp ngã.

Này con, đường xa chuối đã dập, xôi đã nguội.

Con hãy thức dậy với mẹ!

Con làm gì nên tội?

Để phải nằm xuống ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này,

Ngày con mười tám tuổi.

Già nua hay lẩm cẩm,

Nghĩ đi rồi nghĩ lại,

Mẹ thương tất cả những ai có con dù là bên này hay bên kia,

Dù họ giàu sang, không nghèo hèn như mẹ,

Dù họ có học, không dốt nát như mẹ,

Nhưng có lẽ họ đều thương con mình,

Như mẹ đã thương con và vẫn còn thương con,

Thương con lúc con vừa biết nói, khi con còn rong chơi.

Này con, hãy thức dậy với mẹ,

Mẹ nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Đã hơn hai mươi năm mẹ đi thăm con,

Một nấm đất hoang ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này.

Nếu con còn sống,

Có lẽ mẹ đã được cái diễm phúc đi hỏi vợ cho con,

Con Hai ở đầu xóm thiệt giỏi lại dễ thương.

Nó lấy chồng và lên Sài Gòn từ lâu rồi.

Sao con lại nằm ở đây,

Ngày con mười tám tuổi?

Thương con nhớ tiếng con cười,

Tưởng như những lúc rong chơi sau hè.

Nhớ con tan chợ mẹ về,

Reo vui đón mẹ bờ đê đầu làng.

Một ngày sao ngắn ngủi,

Trời chuyển mưa sụp tối.

Mẹ ra đường đón xe.

Tóc mẹ bạc trắng, dạo này đau yếu luôn.

Nếu còn đủ sức, năm tới mẹ lại đi thăm con,

Nấu cho con nồi xôi, xách cho con nải chuối.

Thôi mẹ về.

 

Saint-Rémy-Lès-Chevreuse, 23.10.1998

(viết trong lúc đang làm việc tại trung tâm khảo cứu của một công ty dầu khí trong vùng ngoại ô Paris, một năm trước khi về hưu)

 

 

Bài thơ thứ III:

 

 

Quê hương yên lặng

 

Thôn sâu say nắng buổi trưa hè,

Đàn gà nấp nắng sau lũy tre.

Dưới hiên mẹ ẵm con cho bú.

Đàn ruồi kéo đến bay vo ve.

 

Bỗng dưng súng nổ rát trên đê,

Lộp độp đạn bay viên đạn bay.

Đứa bé ưỡn bụng không kịp khóc,

Nhả vú em chết giữa ban ngày.

 

Lom khom ôm xác con mà chạy.

Lộp độp đạn bay viên đạn bay,

Máu đào phọt ướt con trên tay,

Duỗi chân mẹ chết giữa ban ngày.

 

Mặt mẹ mặt con dòng máu đỏ,

Đàn ruồi bâu lại bay vo ve.

Thế đó quê hương tôi lặng lẽ,

Oi ả như một buổi trưa hè.

 

Tôi yêu thương cái yên lặng của quê hương tôi,

Cái yên lặng của mẹ duỗi chân con nhả vú,

Cái yên lặng của những người nằm xuống,

Oi ả giữa tiếng ruồi vo ve.

 

Những người nằm xuống bao giờ cũng yên lặng.

Cái yên lặng của họ rát bỏng như những viên đạn lọt khỏi nòng súng.

Cái yên lặng đó vẫn ngủ yên trên quê hương tôi,

Âm thầm, xót xa, đớn đau và rỉ máu.

 

Tôi yêu thương cái yên lặng của những người còn sống,

Cái yên lặng len giữa tiếng cười và tiếng khóc,

Cái yên lặng nấp phía sau bạc tiền và sợ hãi,

Cái yên lặng thay vào chỗ của lương trilòng từ bi đánh mất.

 

Tôi yêu thương cái yên lặng của tổ tiên tôi,

Cái yên lặng lãng quên của giống nòi.

Cái yên lặng của mẹ duỗi chân con nhả vú,

Oi ả giữa tiếng ruồi vo ve.

 

                                                            Saint-Rémy-Lès-Chevreuse, 05.08.98

                                                                 (đọc lại và hiệu đính, 01.12.14)

 

 

Bài thơ thứ IV:

 

Xe lên quán dốc

xe lên quán dốc chiều sương,
Tà huy bóng ngả bên đường dặm cao.

Bốn bề hoang vắng cỏ lau,

Tre rừng nghiêng ngả một màu hoang sơ.

 

Xe dừng quán tối bơ vơ,

Dường trong mái chếch bóng mờ có ai?

Lão bà áo rách hai vai,

Vội vàng quạt bếp châm vài cành khô.

 

Chiều tàn lắng xuống hư vô,

Cụ ơi áo rách đã bao tuổi đời?

Ngày xưa tan biến mất rồi,

Trên vai cụ đó kiếp người bao xa?

 

Cụ hâm cho bát nước trà,

Tôi ngồi ấm dạ nhìn ra quãng đường.

Gập ghềnh quán dốc chiều sương,

Trong tôi hóa kiếp mười phương giang hồ.

 

Cụ bảo tôi cứ ngồi chờ,

Dặm xa con cụ rừng sâu sắp về.

Góc nhà con muỗi vo ve,

Lão bà, con muỗi và tôi cùng chờ.

 

Quán nghèo gian tối xác xơ,

Cả ba cùng đói bếp trơ than hồng.

Dặm xa se thắt đáy lòng,

Quê hương tôi đó bụi hồng tà huy.

 

Muôn phương rong ruổi tôi đi,

Dáng quê hương đó còn gì trong tôi?

Giang hồ thế đó kiếp người,

Chiều sương quán dốc hôm nay tôi về.

 

Bỗng nghe tiếng động bên hè,

Hình như con cụ đã về rừng sâu.

Củi khô một bó trên đầu,

Hóa ra thiếu phụ bạc màu áo thô.

 

Dắt theo đứa bé xanh xao,

Trên lưng một túi khoai đào còn dây.

Con đưa cho ngoại bọc khoai,

Đi vào chào bác, rửa khoai ngoại làm.

 

Trước nhà khe suối lom khom,

Bóng già nghiêng xuống lưng còm tóc sương.

Bơ vơ quán dốc bên đường,

Nghìn năm tuổi tác quê hương tôi gầy.

 

Vo ve con muỗi đâu đây,

Quanh tôi chỉ thấy thân gầy héo khô.

Ráng hồng rặng núi nhấp nhô,

Rừng tre trở gió rì rào sương tan.

 

Lấy que khơi lớp tro tàn,

Mặt người thiếu phụ lửa than ánh hồng.

Tóc mai thấm ướt sương rừng,

Mồ hôi đọng lại trên lưng áo mòn.

 

Lão bà bước đến lom khom,

Vùi trong bếp lửa tro tàn mớ khoai.

Hai người ngoảnh lại nhìn tôi.

Trong gian nhà tối bốn người nhìn nhau.

 

Đứa bé hai mắt thụt sâu,

Chiếc khăn rách nát quấn đầu rét run.

Bếp hồng tí tách lửa than,

Quanh tôi chiều xuống bạt ngàn sương đêm.

 

Lão bà bới lớp tro đen,

Khoai vùi cụ gắp lên bàn cho tôi.

Đói lòng nghẹn củ khoai bùi,

Thế rồi nước mắt tình tôi hai dòng.

 

                                    Sơn La, 12.03.02

 

Picture6

                                                                               (Tranh H.P.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11330)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10423)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10679)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9645)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9444)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12791)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13156)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13342)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19680)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12411)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13134)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13451)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 12927)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12283)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18432)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10583)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12279)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 10878)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11093)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14565)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22330)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11499)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10070)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34407)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17570)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32529)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 21963)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11115)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17413)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17001)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10603)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10771)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9471)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10535)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10553)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10471)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12382)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12342)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 9914)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13103)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9637)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9046)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11734)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13361)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 11961)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11201)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11508)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10240)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10159)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10818)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28053)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10718)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7332)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9255)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11689)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11584)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10995)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10200)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10161)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13705)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14787)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10406)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11790)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10756)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10425)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10518)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9797)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10547)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9182)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 9860)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10082)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10385)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10516)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10430)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10000)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9720)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13387)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16183)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13358)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11443)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11029)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 10994)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12103)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15223)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10497)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11614)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10489)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 10990)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 9931)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10276)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11332)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 10891)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12788)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24114)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12507)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10204)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28366)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19214)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10816)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23102)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant