Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày Tết là dịp để quên hay để nhớ ?

21 Tháng Mười Hai 201405:26(Xem: 14809)
Ngày Tết là dịp để quên hay để nhớ ?

 

 

Ngày Tết là dịp để quên hay để nhớ ?

 

Hoang Phong

           

 

            Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai. Những ước mơhy vọng ấy có thể rất khiêm nhường như trả bớt nợ nần, kiếm đủ ăn cho gia đình, thế nhưng cũng có những ước mơ to lớn hơn như xây thêm một ngôi biệt thự, sắm một chiếc xe hơi mới, hoặc hùn hạp đầu tư trong những dự án kinh doanh quan trọng. Dù là những người phải chật vật vì sinh kế hay là các "đại gia" thì Tết luôn là một dịp để tất cả cùng  quên đi năm cũ và gác lại những gì sau lưng mình để mà gửi đến nhau những lời chúc lành tốt đẹp nhất cho năm mới.

           

            Thế nhưng theo truyền thống thì Tết cũng là dịp để tưởng nhớ đến những người đã khuất, ngoài ông bà hay cha mẹ mình ra thì cũng còn rất nhiều những người khác nữa. Đó là những người dù không thuộc gia đình mình, không cùng chính kiến hay lý tưởng với mình nhưng cùng mang một dòng máu và nguồn gốc tổ tiên với mình. Vì thế thiết nghĩ trong những ngày xuân chúng ta cũng nên mở rộng lòng mình để tưởng nhớ đến tất cả những người đã khuất, nhất là những người kém may mắn hơn mình đã phải nằm xuống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động, phi lý và điên rồ, mang lại không biết bao nhiêu đau thương.  

 

            Những người đã vĩnh viễn ra đi bao giờ cũng yên lặng, không còn ồn ào, náo động, với đầy rẫy những hy vọngước mơ của những kẻ đang còn ngụp lặn trên cõi đời này như chúng ta hôm nay nữa. Nếu muốn thấu hiểu và chia sẻ cái yên lặng ấy với họ thì chúng ta cũng phải nhận ra cái yên lặng trong lòng mình, và đồng thời cũng phải cảm nhận được nó trong bối cảnh chung quanh. Thật vậy, giữa cảnh nhộn nhịp và ồn ào của ngày Tết thì cái yên lặng ấy quả rất khó phát hiện, vì thế chúng ta cũng nên nén lòng mình lắng xuống để có thể trực diện với nó. Sự yên lặng ấy rất kín đáo, nó len vào giữa những tiếng cười và tiếng khóc, nó nấp phía sau bạc tiền và sợ hãi.

 

            Bên tách trà đầu xuân, những mong một vài vần thơ góp nhặt dưới đây đã được viết từ lâu có thể sẽ gợi lên một chút yên ắng và bâng khuâng nào đó trong lòng chúng ta. Thế nhưng biết đâu những vần thơ ấy cũng có thể khiến cho tách trà bớt thơm và đĩa mứt bớt ngọt hơn trong những ngày Tết, thì cũng xin người đọc niệm tình thứ lỗi mà hãy cùng hân hoan chào đón một năm mới tràn đầy hy vọng.

 

                                                                                    Bures-Sur-Yvette, 03.12.14

 

 

Bài thơ thứ I:

 

            Bài thơ này được viết để tặng một người bạn cũ mà tôi gặp lại trong một dịp khá bất ngờ tại Hà Nội vào khoảng cuối năm 1989, trong một chuyến công tác ở Việt Nam.

 

            Này T. ạ, ngày hôm đó, từ khách sạn Hữu Nghị đi đến nhà em trên đường Hàng Bún, ngang khách sạn Bông Sen, và trước khi bước vào khu chợ, anh trông thấy một người phụ nữ còn trẻ, trẻ lắm, chỉ độ hơn hai mươi. Người phụ nữ gánh một thúng rau phía trước, trong thúng phía sau có một đứa bé độ lên ba, đầu nghiêng sang một bên, đang ngủ gà ngủ gật. Đứa bé mặc áo vá ở vai, ở lưng, và quần cũng vá. Thúng phía trước đặt một cái rá vừa miệng thúng, bên trên có ba bó cải cúc, hai bó rau muống, một quả bí đao dàì hơn gang tay, một ít cà pháo và một ít ớt gom lại thành hai nhúm cạnh nhau.

 

            Anh bước theo cùng một nhịp với chiếc gánh kẻo kẹt trên vai người phụ nữ. Thúng rau nhẹ hơn đứa bé nên người phụ nữ phải dang tay ra phía trước để ghì xuống giữ cho quang gánh cân đồng sức nặng. Dáng người phụ nữ mảnh mai và nhanh nhẹn. Anh rảo bước nhanh hơn và ngoảnh lại nhìn. Người phụ nữ mộc mạc, không chải chuốt. Mái tóc ngang vai, cài vén ra phía sau bằng một chiếc lược sừng. Mặt người phụ nữ thon dài nhưng đầy đặn, tuy dính vài vết bùn trên má và trên trán, nhưng không vì thế mà che dấu được nét trẻ trung, có thể còn gọi là non nớt nữa. Nhưng T. ạ, cặp mắt, cặp mắt buồn, bình thản, lạnh lùngnhẫn nhục. Một cặp mắt hình như đang chôn dấu một cái gì đó, đang đè nén một tình cảm nào đó. Một cặp mắt sâu thẳm không mấy khi anh được trông thấy.

 

            Hôm nay giữa biển khơi của vùng Bắc Âu, trời thấp và gió lạnh, lạnh hơn nhiều so với Hà Nội ngày hôm ấy, anh bỗng chợt nhớ đến bóng dáng của người phụ nữ gánh con và gánh rau đi về phía chợ Hàng Bún, hướng nhà em. Cái hình ảnh ray rứt đó làm cho anh nghẹt thở và khiến anh liên tưởng đến một giai đoạn lịch sử trên quê hương ta.

 

 

                Ru Con

 

Con ơi con ngủ cho ngoan,

Mẹ còn cuốc đất lại còn tưới rau.

Chợ mai mẹ gánh cho mau,

Thúng rau phía trước thúng sau con ngồi.

Đong đưa nhịp võng à ơi,

Mẹ mơ mẹ tưởng đến ngày con khôn.

Ru con say giấc ngủ mòn,

Mẹ lau nước mắt mẹ mòn nhớ thương.

Nhìn con nhắm mắt mà thương,

Để mẹ trông lén vào gương chải đầu.

Ru con giấc ngủ chìm sâu,

Thương con lòng mẹ âu sầu héo hon.

Ru con say giấc ngủ mòn,

Quần con rách nát mẹ còn phải khâu.

Con ơi con ngủ cho lâu,

Để mẹ ngồi khóc mẹ đau một mình.

Lắc lư nhịp võng rung rinh,

Tủi thân cho mẹ một mình cô đơn.

Ngày nào mẹ gặp cha con,

Yêu cha mẹ mới tuổi tròn đôi mươi.

Nhìn con giấc ngủ nửa vờì,

Nhớ cha quên cả tuổi đời còn xanh.

Ngày xanh sao khéo mong manh,

Hoa chưa đơm trái trên cành đã tan.

À ơi con ngủ cho ngoan,

Cha con một nắm xương tàn rừng sâu.

Tình yêu như giọt mưa ngâu,

Chưa chùi giọt ngắn đã lau giọt dài.

Thương cha con ngủ cho say,

Để mẹ ngồi nhớ những ngày mẹ yêu.

Yêu cha con những buổi chiều,

Mồ hôi ướt áo nắng chiều nhạt phai.

Cha con chiếc áo sờn vai,

Lần đầu mẹ nhớ thuở ngày gặp nhau.

Áo này mẹ gối lên đầu,

Mẹ ôm mẹ ngủ vẹn màu thủy chung,

Nhớ sao thương mấy cho cùng,

Cha con lạnh lẽo hố chung xương tàn.

Con ơi con ngủ cho ngoan,

Mẹ mở cái áo mẹ quàng lên tim.

À ơi con ngủ cho im,

Áo này mẹ đắp mẹ tìm lấy hơi.

Bao giờ con lớn con ơi,

Con mặc được áo mẹ vui mẹ mừng.

 

            Chờ lưng con đủ dài, vai con đủ rộng để khoác chiếc áo này của cha là hy vọng của mẹ. Niềm hy vọng đó sẽ giúp mẹ đủ can đảm để sống và để cam chịu số phận hẩm hiu của mẹ.

 

…Nhưng đến ngày đó anh biết không, em cũng sẽ phải già đi vì nhọc nhằn và thương nhớ. Hình bóng anh có lẽ cũng sẽ mờ dần trong đôi mắt em. Tai em cũng sẽ lãng để không còn nghe thấy tiếng thở của anh mỗi đêm. Chiếc áo này cũng sẽ phai nhạt hơi anh…

           

            Con hãy ngủ cho say, để mẹ cởi cái quần này của con mà vá rồi giặt cho con. Mẹ hứa là Tết năm nay, mẹ sẽ mua cho con một chiếc quần mới, nhưng mẹ không thể phá chiếc áo này của cha để may quần cho con. Đó là kỷ vật duy nhất của cha con còn lại. Chiếc áo này mẹ còn nhớ cha con đã mặc khi gặp mẹ lần đầu. Những quần áo khác của cha, mẹ đã bán đi từ năm ngoái, khi con ốm nặng.

 

            Con hãy nhắm mắt ngủ yên, như thế con sẽ cho riêng mẹ một vài giây phút ngắn ngủi để soi gương và chải lại mái tóc của mẹ. Thương cha mẹ thấy xấu hổ khi soi gương và chải tóc trước mặt con. Mẹ biết mẹ còn trẻ, mái tóc mẹ còn xanh. Mẹ rất sợ nhìn thấy hình bóng mẹ trong gương. Mẹ cố quên đi và chối bỏ những ngày xanh của mẹ.

 

            Mẹ không kể cho con nghe những ngày hạnh phúc của mẹ bên cha, vì mẹ cũng không dám nghĩ đến nữa. Những ngày đó ngắn ngủi lắm, nhưng êm đềm biết bao.

 

            Mẹ cũng không nói là tại sao cha con đã chết. Mẹ chỉ biết rằng những người đồng đội với cha con nhắn về cho biếtcha con đã nằm xuống với nhiều người khác nữa bên lề một con đường mòn trong dãy Trường Sơn, gần một thôn xóm nào đó. Tên gọi nơi này là gì thì mẹ cũng đã quên rồi vì chẳng biết là nó ở đâu. Đối với mẹ, cha con lúc nào cũng sống bên cạnh mẹ, an ủi mẹ , khuyến khích mẹ và giúp mẹ can đảm để nuôi con.

            Khi lớn lên mẹ sẽ cho con đi học. Trong những giờ học lịch sử, cô giáo sẽ giảng cho con nghe tại sao cha con phải chết. Thật vậy mẹ cũng không hiểu được rành rọt. Thỉnh thoảng có những đoàn người đến đây bắc loa hô hào, giải thích nhiều lắm, nhưng mẹ không đủ trí thông minh để hiểu và nhớ hết để mà lập lại cho con nghe. Ngày còn nhỏ nào mẹ có được đi học đâu.

            Thôi con ngủ đi, để mẹ được một lúc riêng tư để tưởng nhớ đến cha con và chải lại mái tóc của mẹ. Ngày mai mẹ sẽ gánh thúng rau phía sau, mẹ không cần ai trông thấy rau tươi của mẹ để gọi mua, mẹ sẽ đặt con vào thúng trước để lúc nào cũng nhìn thấy con. Mẹ sẽ vừa gánh vừa nói chuyện với con, dù con còn quá nhỏ để hiểu được mẹ đang nói gì. Mẹ sẽ chọn những quãng đường vắng để trò chuyện với con vì nếu người đi đường trông thấy thì biết đâu họ sẽ bảo mẹ là một người điên đấy.

 

                                    Bắc Hải (North Sea) thuộc hải phận của xứ Tô Cách Lan (Scotland)

                                                (trên giàn khoan Ocean Benloyal, ngày 12.06.1991)

 

 

Bài thơ thứ II:

           

 

              Đi thăm con

 

Hôm nay đi thăm con.

Mẹ nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Mẹ vẫn thương con như khi con còn trong nôi,

Như khi con mới biết ngồi.

Từ quê lên hai ngày đường,

Mẹ nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Năm mười tám tuổi,

Con nằm xuống ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này,

Một viên đạn nhỏ đã giết con.

Ngày xưa cha con cũng đã ngã xuống,

Vì một viên đạn đồng nhỏ xíu.

Những viên đạn của hận thù hay vui sướng?

Kẻ thù của con có vui mừng khi bắn trúng con?

Chắc họ được bằng khen thưởng và gắn huân chương?

Con đã làm gì khiến kẻ khác hận thù con?

Con có đau đớn lắm không khi ngã xuống ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này?

Con có cảm thấy viên đạn xuyên vào da thịt con và hất con ngã xuống?

Mẹ tin rằng con đã nghĩ đến mẹ và thương mẹ trước khi con nhắm mắt!

Con hãy thức dậy với mẹ!

Hôm nay mẹ lại nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Mẹ vẫn thương con như khi con còn trong nôi,

Tập đi đôi chân còn vấp ngã.

Này con, đường xa chuối đã dập, xôi đã nguội.

Con hãy thức dậy với mẹ!

Con làm gì nên tội?

Để phải nằm xuống ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này,

Ngày con mười tám tuổi.

Già nua hay lẩm cẩm,

Nghĩ đi rồi nghĩ lại,

Mẹ thương tất cả những ai có con dù là bên này hay bên kia,

Dù họ giàu sang, không nghèo hèn như mẹ,

Dù họ có học, không dốt nát như mẹ,

Nhưng có lẽ họ đều thương con mình,

Như mẹ đã thương con và vẫn còn thương con,

Thương con lúc con vừa biết nói, khi con còn rong chơi.

Này con, hãy thức dậy với mẹ,

Mẹ nấu cho con nồi xôi,

Xách cho con nải chuối.

Đã hơn hai mươi năm mẹ đi thăm con,

Một nấm đất hoang ở cái bìa rừng cao-su hẻo lánh này.

Nếu con còn sống,

Có lẽ mẹ đã được cái diễm phúc đi hỏi vợ cho con,

Con Hai ở đầu xóm thiệt giỏi lại dễ thương.

Nó lấy chồng và lên Sài Gòn từ lâu rồi.

Sao con lại nằm ở đây,

Ngày con mười tám tuổi?

Thương con nhớ tiếng con cười,

Tưởng như những lúc rong chơi sau hè.

Nhớ con tan chợ mẹ về,

Reo vui đón mẹ bờ đê đầu làng.

Một ngày sao ngắn ngủi,

Trời chuyển mưa sụp tối.

Mẹ ra đường đón xe.

Tóc mẹ bạc trắng, dạo này đau yếu luôn.

Nếu còn đủ sức, năm tới mẹ lại đi thăm con,

Nấu cho con nồi xôi, xách cho con nải chuối.

Thôi mẹ về.

 

Saint-Rémy-Lès-Chevreuse, 23.10.1998

(viết trong lúc đang làm việc tại trung tâm khảo cứu của một công ty dầu khí trong vùng ngoại ô Paris, một năm trước khi về hưu)

 

 

Bài thơ thứ III:

 

 

Quê hương yên lặng

 

Thôn sâu say nắng buổi trưa hè,

Đàn gà nấp nắng sau lũy tre.

Dưới hiên mẹ ẵm con cho bú.

Đàn ruồi kéo đến bay vo ve.

 

Bỗng dưng súng nổ rát trên đê,

Lộp độp đạn bay viên đạn bay.

Đứa bé ưỡn bụng không kịp khóc,

Nhả vú em chết giữa ban ngày.

 

Lom khom ôm xác con mà chạy.

Lộp độp đạn bay viên đạn bay,

Máu đào phọt ướt con trên tay,

Duỗi chân mẹ chết giữa ban ngày.

 

Mặt mẹ mặt con dòng máu đỏ,

Đàn ruồi bâu lại bay vo ve.

Thế đó quê hương tôi lặng lẽ,

Oi ả như một buổi trưa hè.

 

Tôi yêu thương cái yên lặng của quê hương tôi,

Cái yên lặng của mẹ duỗi chân con nhả vú,

Cái yên lặng của những người nằm xuống,

Oi ả giữa tiếng ruồi vo ve.

 

Những người nằm xuống bao giờ cũng yên lặng.

Cái yên lặng của họ rát bỏng như những viên đạn lọt khỏi nòng súng.

Cái yên lặng đó vẫn ngủ yên trên quê hương tôi,

Âm thầm, xót xa, đớn đau và rỉ máu.

 

Tôi yêu thương cái yên lặng của những người còn sống,

Cái yên lặng len giữa tiếng cười và tiếng khóc,

Cái yên lặng nấp phía sau bạc tiền và sợ hãi,

Cái yên lặng thay vào chỗ của lương trilòng từ bi đánh mất.

 

Tôi yêu thương cái yên lặng của tổ tiên tôi,

Cái yên lặng lãng quên của giống nòi.

Cái yên lặng của mẹ duỗi chân con nhả vú,

Oi ả giữa tiếng ruồi vo ve.

 

                                                            Saint-Rémy-Lès-Chevreuse, 05.08.98

                                                                 (đọc lại và hiệu đính, 01.12.14)

 

 

Bài thơ thứ IV:

 

Xe lên quán dốc

xe lên quán dốc chiều sương,
Tà huy bóng ngả bên đường dặm cao.

Bốn bề hoang vắng cỏ lau,

Tre rừng nghiêng ngả một màu hoang sơ.

 

Xe dừng quán tối bơ vơ,

Dường trong mái chếch bóng mờ có ai?

Lão bà áo rách hai vai,

Vội vàng quạt bếp châm vài cành khô.

 

Chiều tàn lắng xuống hư vô,

Cụ ơi áo rách đã bao tuổi đời?

Ngày xưa tan biến mất rồi,

Trên vai cụ đó kiếp người bao xa?

 

Cụ hâm cho bát nước trà,

Tôi ngồi ấm dạ nhìn ra quãng đường.

Gập ghềnh quán dốc chiều sương,

Trong tôi hóa kiếp mười phương giang hồ.

 

Cụ bảo tôi cứ ngồi chờ,

Dặm xa con cụ rừng sâu sắp về.

Góc nhà con muỗi vo ve,

Lão bà, con muỗi và tôi cùng chờ.

 

Quán nghèo gian tối xác xơ,

Cả ba cùng đói bếp trơ than hồng.

Dặm xa se thắt đáy lòng,

Quê hương tôi đó bụi hồng tà huy.

 

Muôn phương rong ruổi tôi đi,

Dáng quê hương đó còn gì trong tôi?

Giang hồ thế đó kiếp người,

Chiều sương quán dốc hôm nay tôi về.

 

Bỗng nghe tiếng động bên hè,

Hình như con cụ đã về rừng sâu.

Củi khô một bó trên đầu,

Hóa ra thiếu phụ bạc màu áo thô.

 

Dắt theo đứa bé xanh xao,

Trên lưng một túi khoai đào còn dây.

Con đưa cho ngoại bọc khoai,

Đi vào chào bác, rửa khoai ngoại làm.

 

Trước nhà khe suối lom khom,

Bóng già nghiêng xuống lưng còm tóc sương.

Bơ vơ quán dốc bên đường,

Nghìn năm tuổi tác quê hương tôi gầy.

 

Vo ve con muỗi đâu đây,

Quanh tôi chỉ thấy thân gầy héo khô.

Ráng hồng rặng núi nhấp nhô,

Rừng tre trở gió rì rào sương tan.

 

Lấy que khơi lớp tro tàn,

Mặt người thiếu phụ lửa than ánh hồng.

Tóc mai thấm ướt sương rừng,

Mồ hôi đọng lại trên lưng áo mòn.

 

Lão bà bước đến lom khom,

Vùi trong bếp lửa tro tàn mớ khoai.

Hai người ngoảnh lại nhìn tôi.

Trong gian nhà tối bốn người nhìn nhau.

 

Đứa bé hai mắt thụt sâu,

Chiếc khăn rách nát quấn đầu rét run.

Bếp hồng tí tách lửa than,

Quanh tôi chiều xuống bạt ngàn sương đêm.

 

Lão bà bới lớp tro đen,

Khoai vùi cụ gắp lên bàn cho tôi.

Đói lòng nghẹn củ khoai bùi,

Thế rồi nước mắt tình tôi hai dòng.

 

                                    Sơn La, 12.03.02

 

Picture6

                                                                               (Tranh H.P.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23023)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14049)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12976)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55103)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9164)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14440)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14161)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14201)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13881)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36315)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19874)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18164)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19208)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19141)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20280)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17635)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31525)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15934)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15017)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14679)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46171)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35935)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21048)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21595)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23396)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34377)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19483)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18945)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22940)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20182)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18363)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19839)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19527)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33411)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34476)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54517)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37719)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21130)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17875)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63641)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17379)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49655)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27436)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20276)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23027)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18891)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16324)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17912)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20934)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17361)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14467)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16864)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16370)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15994)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17465)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21978)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15100)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13504)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14363)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15385)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14983)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12696)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13348)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27396)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12514)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13188)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14484)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16233)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12403)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15416)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12866)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12200)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13197)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21644)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11277)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22723)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15082)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14945)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46180)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22448)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14572)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12618)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18900)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14730)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43856)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56969)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13834)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47482)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13651)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14572)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29007)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33309)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38376)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15397)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31229)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12525)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40388)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43414)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46660)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14412)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant