Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 2

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10327)
Phần 2

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 2)

 

Pháp Sư Tịnh Không

 

PHẨM I: “PHÁP HỘI THÁNH CHÚNG”
“Như thị ngã văn” 
Bốn chữ “Như thị ngã văn” hàm nghĩa rất sâu rộng, thậm chí có thể nói “khôn cùng tận”. “Như thị” là gì?

Các đại đức xưa thuyết minh cho chúng ta bằng cách nói đơn giản nhất “như thị chi kinh”, tức là “tôi đích thân nghe Phật nói”. Đây là cách giảng nói đơn giản. Vậy “tôi” là ai? Đó là tôn giả A Nan. Năm xưa khi Thế Tôn còn tại thế, giảng kinh nói pháp tuyệt nhiên không có ghi chép. Khổng Lão Phu Tử năm xưa ở đời dạy học cũng vậy. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của ngài cảm thấy lão sư cả đời nói pháp, không thể để cho những gì đã nói ngay đời này bị chìm mất mà phải lưu truyền cho những đời sau. Các học trò của đức Phật bèn mở hội thảo luận làm thế nào đem tất cả kinh Phật lưu truyền lâu dài. Từ đó mới có cuộc kết tập này. 
Trong lúc kết tập kinh tạng, hoàn toàn phải nhờ vào sức nhớ của người ngay lúc đó. Phật nói pháp bốn mươi chín năm, không một cá nhân nào có thể ghi nhớ kinh giảng trong suốt bốn mươi chín năm. Ở thế gian này, chúng ta cũng không thể tìm ra được một người. Chưa kể bốn mươi chín năm, những thứ đã giảng từ chín năm về trước, e rằng chúng ta còn quên sạch. Rất may trong hàng đệ tử Phật, năng lực ghi nhớ của tôn giả A Nan đặc biệt mạnh. Năng lực này của ngài A Nan rất thù thắng, sau khi nghe qua một lần, vĩnh viễn không hề quên. Cho nên khi kết tập kinh tạng, ngài A Nan được tuyển cử để giảng lại, đem kinh Thế Tôn cả đời đã giảng trùng tuyên giảng lại lần nữa. Lần giảng lại, thính chúng đều là những bậc đại A La Hán, đệ tử lớn của Phật. Những vị này đến nghe ngài A Nan thuyết và làm chứng cho A Nan
Cuộc kết tập lần thứ nhất, có năm trăm A La Hán nghe A Nan giảng lại. Trong năm trăm người, nếu chỉ một người nêu ra ý kiến: “A Nan! Câu nói này dường như không phải Phật nói”, thì nội dung lời nói đó phải xóa bỏ lập tức. Lời giảng lại của A Nan phải được toàn thể năm trăm người thảy đều thông qua, như vậy mới có thể ghi chép, trở thành kinh điển truyền cho đời sau. Đó là lấy chữ tín đối với đời sau, người đời sau có được kinh điển, mới khởi lòng tôn kính. A Nan giảng lại như Phật đã nói, không hề khác nhau. Cho nên mở đầu kinh “Như thị ngã văn” còn có rất nhiều ý nghĩa. Chúng tathể tham khảo chú giải của đại đức xưa. Ngày nay chúng ta phải học tập, lấy bổn tông mà nói mật nghĩa của “Như thị”. 
“Như” là chân như bổn tánh. Cả đời Thế Tôn thuyết pháp đều nói rõ thể - tướng. Tác dụng của “tự tánh” là “thật tướng các pháp” mà kinh Bát Nhã đã nói. Phật dùng chữ “như” để đại biểu “tánh như tướng, tướng như tánh, tánh tướng không hai”. Tánh từ trên lý, tướng từ trên sự, “lý như sự, sự như lý, lý sự không hai”. Phật nói rõ đại đạo lý cũng như chân tướng sự thật này, cho nên khi vừa mở kinh ra liền gặp hai chữ “như thị”, chính là chân thật tuyên nói tổng cương lĩnh. Nếu có người đặt câu hỏi “Kinh điển Phật giáo nhiều như vậy, rốt cuộc thì Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói những gì?” Chúng ta chỉ có thể nói “như thị”. Muốn giải thích một cách tỉ mỉ một bộ đại tạng kinh thì quan trọng phải giảng hai chữ “như thị”. Không có bất cứ câu chữ nào siêu việt hơn hai chữ “như thị”, cho nên ý nghĩa của hai chữ này sâu rộng vô tận. Theo bổn tông và cổ đức xưa: “như” là “thị tâm thị Phật”; “thị” là “thị tâm tác Phật”. Cách nói này hoàn toàn theo kinh Quán Vô Lượng Thọ
Nguyên lý cơ bản của Tịnh tông chính là hai câu “thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật”. Hay nói cách khác, tâm chính là Phật, Phật chính là tâm. Ai mà chẳng có tâm? Cho nên Phật nói “tất cả chúng sanh vốn dĩ thành Phật”. Vì sao nói vốn dĩ thành Phật? Thị tâm thị Phật. Tông môn nói “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, minh tâmchân tâm, chân tâm là bổn tánh. Minh tâm chính là kiến tánh. Kiến tánh, tâm tánh chính là Phật, vì sao tâm và tánh đều là Phật? Và hà tất phải phân biệt hai chữ “tâm”, “tánh”? Hai chữ này đương nhiên có hai cách nói. Thông thường nói: “tánh là bản thể của tâm, tâm là tác dụng của tánh”. Hay nói cách khác, tâm chúng ta có thể có dụng, từ trên thể gọi là tánh, từ trên dụng thì gọi là tâm. Cho nên có lúc chỉ cần dùng một chữ “thể dụng” để nói tâm cũng được, nói tánh cũng được. Hai chữ này hợp lại, một gọi là “thể”, một gọi là “dụng”.
Chúng ta vốn dĩ đã là Phật, nhưng vì sao hiện tại không phải là Phật? Vì chúng ta làm cho tâm tánh mê mất, kinh nói mê mất không phải đã mất thật sự cho dù chúng tabiến thành ngạ quỷ, súc sanh, đọa A Tỳ Địa ngục, tâm tánh không hề bị mất mà vẫn tồn tại, chỉ là chúng ta mê mất thôi. Bản thânchân tâm, có bổn tánh mà không thể giác ngộ, đó là vì sau khi mê rồi, chúng ta không gọi là tâm cũng không gọi là tánh nữa, vậy gọi là gì? Phật pháp gọi là thức, “tình thức”. Tình thức chính là tâm tánh đã mê, khi giác ngộ mới gọi là tâm tánh
Tâm tánh rốt cuộc là như thế nào? Làm thế nào mới có thể nhận biết nó? Phật nói, thể của tâm tánhkhông tịch, nó không phải là một vật chất, thế nhưng nó đích thực đang tồn tại, tất cả hiện tượng vật chất đều từ nó biến hiện ra. Nó là cội gốc của vũ trụ nhân sinh. Như vậy vũ trụ nhân sinh từ tâm tánh biến hiện ra. Cho nên kinh Hoa Nghiêm, Phật nói “mười pháp giới y chánh trang nghiêm, do tâm hiện ra”, đó là do chân tâm chúng ta biến hiện. Sự biến hóa đó do thức, mê rồi mới có biến hóa nhiều như vậy. Trong mười pháp giới, từ trên “Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác”, xuống sáu đường, càng hướng xuống, mê càng sâu; càng hướng lên, mê càng ít, đều là mê mất đi tâm tánh. Nếu không mê chính là Phật, người đó không phải phàm phu. Mười pháp giới cũng gọi là phàm phu, kinh Phật gọi là ngoại phàm; sáu cõi là nội phàm, hoặc phàm phu
Ngoài sáu cõi, pháp giới bốn thánh của mười pháp giớichúng ta gọi là ngoại phàm cũng vẫn là phàm phu, chưa kiến tánh, chưa hồi phục bổn tâm. Cho nên “thị tâm thị Phật” là sự thật ngàn vạn lần chính xác. Chúng ta tu hành Tịnh tông thành Phật, ngay trong một đời này thành Phật là căn cứ chính. Bởi vì chúng ta vốn dĩ là Phật, nhưng hiện tại đã mê, phải phá mê khai ngộ, hồi phục lại bản lai diện mục. Cho nên phương pháp tu học của Tịnh tông tuyệt diệu. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, thì pháp môn này là cứu cánh nhất, viên mãn nhất, rất đặc thù, trực tiếp, ổn định, cũng rất mau chóng. Cụ thể phương pháp này là gì? Thị tâm tác Phật thế nào? 
Niệm Phật chính là làm Phật, Bồ tát Đại Thế Chí đã dạy “nhớ Phật niệm Phật”. Trong miệng niệm Phật, trong tâm tưởng Phật, chính là đang làm Phật. Tưởng Phật như thế nào? Tưởng tướng hảo của Phật, tưởng trang nghiêm của Phật, tưởng công đức của Phật, tưởng Phật tu hành ngay lúc còn phàm phu, tưởng Phật thành tựu ngay trên quả địa, tưởng Phật độ hóa tất cả chúng sanh, vô lượng vô biên công đức thù thắng, chúng ta thường nghĩ đến những cái tốt này, tâm của chúng ta chính là làm Phật. Do đó nhất định phải thuộc kinh Vô Lượng Thọ.
Theo chúng tôi, khi vừa bắt đầu, chúng ta hãy đem kinh này tụng một năm ba ngàn biến. Nếu thời gian một năm không đủ, thì hai năm, ba năm. Tụng thuộc lòng ba ngàn biến, sau khi tụng thuộc, người đó liền có thể làm đến ức Phật, mới chân thật có thể làm Phật. Một ngày từ sớm đến tối, hai mươi bốn giờ đồng hồ không nên nghĩ thứ khác, chỉ hoàn toàn nghĩ đến y chánh trang nghiêm của thế giới Tây Phương Cực Lạc. Trong kinh điển đã nói, thường hay ghi nhớ trong tâm, thường nghĩ đến cảnh giới trong kinh điển, chính là chúng ta đang chân thật tu hành. Nếu đem “lý, sự, tánh, tướng, nhân, quả, y, chánh” của bộ kinh này, toàn bộ thực tiễn vào cuộc sống thường ngày, thực hành rốt ráo thì làm sao không thể thành Phật. Đó là “thị”, hoàn toàn tương ứng với “như”, cũng hoàn toàn tương ứng với “thị tâm tác Phật”. 
Pháp môn này thù thắng biết bao, niệm Phật thành Phật là có căn cứ lý luận, không phải tùy duyên nói. Tôn giả A Nan đích thân nghe được Thích Ca Mâu Ni Phật. Hai chữ “như thị” này, chúng ta phải học tập như vậy, phải đem đạo lý, phương pháp, cảnh giới của toàn kinh đều thực tiễn ngay trong tâm tưởng. Đây chính là tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc của Tín Giải Hành Chứng trong thiên kinh vạn luận. Cho nên khi vừa mở kinh văn là gặp ngay hai chữ này.
“Nhất thời”
“Nhất thời” chỉ thời gian, không hề viết ngày tháng năm mà chỉ viết “nhất thời”. “Nhất thời” rất có đạo vị. Nếu có thể bước vào nhất thời, người khác nói quá khứ, hiện tại, vị lai, chúng ta thảy đều tường tận, người đời thường gọi “thần thông quảng đại”. Vì sao biết được quá khứ, vị lai? Vì họ sống ngay trong nhất thời. Chúng ta không biết quá khứ, vị laichúng ta sống ở ba thời. Ba thời này là gì? Việc quá khứ thì quên mất, việc vị lai thì không biết tí gì, hiện tại cũng mơ mơ hồ hồ, không rõ ràng. Học Phật phải qua nhất thời, chúng ta phải hiểu thông suốt. Tuy chưa làm được, nhưng chân tướng của sự và lý không thể không biết. Nên biết “nhất” chính là như như bất động. Phật pháp đã nói “pháp môn bất nhị”, bất nhị chính là nhất, có nhị thì không nhất. Nhất là thật, nhị là giả. “Nhất chân pháp giới” trong kinh Hoa Nghiêm đó là thật, nếu nhị thì đã biến thành mười pháp giới mất rồi. “Nhất” là giác, “nhất” chính là như, nhị thì không như, nhị là đã mê, nhà Phật gọi “ba tâm hai ý”. 
“Ba tâm hai ý” là đem một biến thành ba, một tâm biến thành ba tâm. Một tâm là chân tâm, chân như, biến thành ba tâm: tâm ý thức, A Lại Da thức là tâm, Mạt Na là ý. Các thức vốn dĩ là một tâm, hiện tại biến thành tám thức. Tám thức cũng gọi là ba tâm. Vì sao có hai ý? Tác dụng của hai ý rất lớn. Trong tám thức, tám cái tâm thì hai ý tác dụng rất lớn, hai ý ý căn chính là Mạt Na. Mạt Nachấp trước kiên cố. Căn thứ sáu là ý thức, ý thứcphân biệt. Hiện tại chúng ta khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước chính do thứ này làm chủ đạo. Đó là mê. Vậy làm thế nào mới có thể hồi phục lại “nhất”? 
Thiền tông minh tâm kiến tánh, đề cao “nhất”. Trong tông môn thường nói “thức đắc nhất, vạn sự tất”. Vào được cảnh giới “nhất” rồi, bất cứ việc gì cũng xong. Những việc trong sáu cõi không còn, việc trong mười pháp giới cũng không còn. Chỉ cần chứng được “nhất” liền đến được pháp giới nhất chân. Khi vào được pháp giới nhất chân, xin thưa rằng thời gian chính là “nhất thời”. 
Thời gian hiện tại của chúng ta cũng là “nhất thời”, nhà khoa học gia thời cận đại Iten đã nói qua trong trước tác của ông rằng “quá khứ, hiện tại, vị lai đồng thời tồn tại”. Cách nói này của ông thật hơn người. Làm sao ông có thể biết quá khứ, hiện tại, vị lai đồng thời tồn tại?. Chúng ta không biết ông căn cứ từ đâu mà phát hiện ra, đương nhiên ông cũng chưa hề thấy được. Có thể ông từ nơi lý luậnsuy đoán. Lý luận cơ bản nhất của khoa học là căn cứ vào số học, cho nên gọi “số học là mẹ của khoa học”. Trên lý số cao thâm mà suy đoán có thể biết được quá khứ, hiện tại, vị lai đồng thời tồn tại. Do đó Đông phương, Tây phương, bất cứ quốc gia, khu vực nào cũng đều có con số dự ngôn suy đoán tương lai. Dự ngônsuy lý, phần nhiều từ số học mà suy đoán, do đó chưa chắc chính xác
Thế nhưng nếu chúng tathể nhập định, chân thật được định, thì ở trong cảnh giới thiền định đột phá thời không, cũng chính là vượt qua quá khứ, hiện tại, vị lai; quá khứ, hiện tại, vị lai thảy đều xem thấy. Iten nói: “Quá khứ, hiện tại, vị lai đồng thời tồn tại”, những việc vị lai chúng ta có thể xem thấy rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, không chút sai lầm. Đó là dự ngôn chính xác. “Nhất thời” ý nghĩa rất sâu rộng. Nhất thời mới là thật, còn nói cho chúng ta nghe ngày tháng năm là giả. Đó là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của tất cả chúng sanh. Phật pháp nói lời thật cho chúng ta nghe. Kinh điển tuy là Phật y theo Nhị đế mà nói nhưng Phật hoàn toàn giảng lời chân thật.
Pháp Nhị đế chính là Chân đế, cảnh giới Phật đã thân chứng. Tùy theo tri kiến của chúng sanhgiảng giải gọi là Tục đế. Trong một bộ kinh, hai loại ý nghĩa này thảy đều có. Kinh Tiểu thừa giảng nói rất nhiều Tục đế, ít giảng Chân đế. Trong kinh Đại thừa thì giảng nhiều Chân đế, ít giảng Tục đế. Cho nên chữ “Nhất thời” là lời chân thật, là “chân đế”, lấy cảnh giới của Phật mà nói. Chúng ta nhất định không được hoài nghi
“Phật tại Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung, dữ đại tỳ kheo chúng, vạn nhị thiên nhân câu”
“Phật” là Thích Ca Mâu Ni Phật, người chủ giảng giảng kinh nói pháp lần đó. “Tại Vương Xá Thành, Kỳ Xà Quật sơn trung”, là nơi chốn giảng kinh năm xưa. Trên kinh điển đều có ghi chép, chứng minh sự thù thắng của pháp hội này: có thời gian, có địa điểm, có thính chúng “cùng một vạn hai ngàn vị Tỳ Kheo có mặt”. Pháp hội này vô cùng trang nghiêm.
Chúng ta đọc kinh, xem trong kinh điển, số lượng thính chúng trong pháp hội của Phật thông thường là “một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ Kheo”. Như vậy, hội này tăng gấp mười lần so với chúng hội thông thường, một vạn hai ngàn người. Lại thêm vào phía sau cho chúng ta biết có tỳ kheo, tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ tại gia, tổng cộng thêm hai ngàn người. Pháp hội trang nghiêm thù thắng không thể nghĩ bàn. 
Chúng ta xem trong hội Pháp Hoa của kinh Pháp Hoa, khi vừa mở đầu cũng cho biết có một vạn hai ngàn thính chúng. Việc này âm thầm nói lên “mật nghĩa hàm chứa trong kinh” rằng quyển kinh Vô Lượng Thọ này đồng với Pháp Hoa xác quyết nhất thừa giáo không thể nghĩ bàn. Chúng ta từ đó phải nhận biết giá trị bộ kinh điển này không phải kinh điển phổ thông mà là kinh điển thù thắng.
“Nhứt thiết đại thánh, thần thông dĩ đạt”
Kinh văn tiếp theo tán thán đức, tán thán đại chúng hội không phải người bình thường. Một vạn hai ngàn vị đại tỳ kheo trong chúng hội đều là đại thánh, không phải tiểu thánh. Tiểu thánhtiểu thừa A La Hán. Bốn quả A La Hánthánh nhân của tiểu thừa, trong khi đó thánh nhân của đại thừa địa vị cao hơn, thường được gọi là “thập hiền, thập thánh”. Lúc nào mới có thể xưng thánh? Quả vị của Bồ tát “Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng” gọi là tam hiền vị. Từ sơ địa trở lên mới gọi là thánh nhân. Thập thánh chính là thập địa Bồ tát. Từ sơ địa đến thập địa, quả vị này gọi là thánh nhân. Ngay trong hàng thánh nhân thì đại thánh không phải là thánh nhân thông thường. Đại thánh chỉ Bồ tát Pháp Vân địa cùng Bồ tát Đẳng giác. Hai vị thứ này có thể gọi là đại thánh. Do đây mà biết, một vạn hai trăm người đến dự hội không phải là người thường, chí ít cũng đều là Bồ tát Pháp Vân Địa, Bồ tát Đẳng giác thừa nguyện trở lại ủng hộ Thích Ca Mâu Ni Phật, nên gọi là “một Phật xuất thế, vạn Phật ủng hộ”. 
Giống như diễn kịch, Thích Ca Mâu Ni Phật là nhân vật chính, các vị khác đến phối hợp phụ diễn. Dĩ nhiên những người diễn phụ này không phải là người thông thường, họ có những tư cách còn lão luyện hơn so với người diễn chính, thậm chí còn là thầy của người diễn chính. Họ đóng vai phụ cho ngài, phối hợp diễn xướng với ngài. Thế gian là một sân khấu lớn, Thích Ca Mâu Ni Phật đóng vai chủ diễn của kịch trường, có rất nhiều cổ Phật Bồ tát Đẳng giác tái lai hiệp trợ, diễn tốt xướng hay trên kịch trường. Các ngài chỉ có một mục đích giống nhau, giúp cho tất cả chúng sanh phá mê khai ngộ, ngay một đời viên mãn thành Phật. Đó là bản nguyện của chư Phật. 
Đề kinh phía trước đã nói, hiện tại Phật cùng với những đại thánh xem thấy thế giới Ta Bà có một loại chúng sanh cơ duyên thành Phật đã chín muồi. Thế Tôn vui mừng không kể xiết, những vị đại thánh này cùng đến phối hợp cũng hoan hỉ không gì bằng, tiếp dẫn chúng sanh căn tánh chín muồi ngay trong một đời bình đẳng thành Phật. Cho nên những người này không phải là người thường. Xem kinh, đoạn này không hề liệt kê thính chúng là những tỳ kheo, tỳ kheo ni, thanh tín sĩ, thanh tín nữ, vì những người đó là phàm phu, không phải là đại thánh. Một vạn hai ngàn vị đại tỳ kheo đều là đại thánh. Thế nên Thế Tôn ở hội này tự nhiên vô cùng trang nghiêm thù thắng
Theo thường lệ, mở đầu kinh văn luôn liệt kê các nhân vật đại biểu. Cổ đức gọi các vị đó là “Thượng thủ”. Quyển kinh này từ triều nhà Hán mãi đến triều nhà Tống, tổng cộng mười hai lần phiên dịch, nêu tên nhiều ít không giống nhau. Có quyển nêu hơn ba mươi vị, có quyển nêu ra mười, hai mươi vị. Vì sao phải nêu tên? Vì các vị đó là biểu pháp. Thế Tôn giảng kinh nói pháp bất cứ hội nào, họ cũng đều đến tham gia. Nhưng tại sao ở trong hội này, kết tập bộ kinh này nêu tên những vị này, kết tập bộ kinh khác lại nêu lên tên những vị khác? Chúng ta phải hiểu ý nghĩa của nó. Những người này, từ danh hiệu đức hạnh của họ đủ có thể đại biểu ý nghĩa của bộ kinh. Chúng ta chỉ cần xem danh hiệu thì liền biết được nội dung kinh, biết được trọng điểm của pháp hội nằm ở đâu. Cho nên việc nêu tên rất có ý nghĩa, không phải tùy tiện.
Cũng như hiện tại trong xã hội chúng ta mở hội nghị, chỉ cần nghe tên đại biểu đến tham dự hội nghị là những nhân vật nào, chúng ta liền biết được tính chất và nội dung của hội nghị. Phật pháp pháp hội này cũng vậy, nêu ra tên bậc thượng thủ cũng có ý tương tự. Lão cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập bộ kinh Vô Lượng Thọ, ông đã tỉnh lược bớt rất nhiều người trong số bậc thượng thủ, chỉ nêu ra những bậc quan trọng nhất đủ để biểu đạt nghĩa thú toàn kinh. Đó là thủ pháp cao minh của người hội tập, làm cho hậu học chúng ta tiết kiệm thời gian và giảm căng thẳng tinh thần
Chúng ta nhận được tinh hoa của kinh Vô Lượng Thọ. Tuy nhiên từ mười hai loại bản dịch sau nhiều năm lưu truyền đến nay, đã thất truyền bảy loại. Hiện tại trong đại tạng kinh chỉ còn năm. Hội tập này của Hạ lão có thể nói là bổn tổng hợp của năm loại nguyên bản dịch. Chúng ta chỉ cần đọc quyển này cũng như đã đọc qua hết năm loại nguyên bản dịch kia, văn tự nghĩa lý hoàn chỉnh đầy đủ, không hề kém khuyết chút nào. Năm xưa khi Hạ lão còn ở đời được pháp sư Huệ Minh, pháp sư Từ Chu tán thán, lão cư sĩ Mai Quang Hi thì càng không cần phải nói. Trong lời tựa, bạt văn, chúng ta đều xem thấy, hội tập được quá viên mãn, thù thắng hơn rất nhiều so với ba loại hội giảo bổn ngày trước.
“Kỳ danh viết: Tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Đại Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Diếp, tôn giả A Nan đẳng, nhi vi thượng thủ”
Đây đều là đại A La Hán, kinh chỉ nêu ra năm vị, thật là giản lược thấu đáo. 
Vị thứ nhất, tôn giả Kiều Trần Như. Chúng ta xem nhiều kinh điển, thượng thủ đại biểu rất hiếm khi có ngài, mà thường là Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên xuất hiện quen thuộc hơn. Thực tế trong bất cứ pháp hội nào đều không thiếu vắng Kiều Trần Như nhưng chúng ta rất ít nghe đến tên của ngài, vì sao không nêu ngài lên? 
Trong số đệ tử Phật, Kiều Trần Như đại biểu “chứng quả đệ nhất, khai ngộ đệ nhất”. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa ở dưới cội bồ đề thị hiện thành đạo, sau khi thành Phật, đến vườn nai để độ năm vị Tỳ kheo. Đó là lần đầu tiên giảng kinh nói pháp, thính chúng chỉ có năm người. Trong năm vị Tỳ kheo này, khai ngộchứng quả thứ nhất là Kiều Trần Như. Kiều Trần Như có rất nhiều tích truyện, ở đây chúng tôi sẽ không giảng về tích truyện. Trọng tâmchúng ta cần phải tin tưởng ngài đại biểu cho cái gì. Ngài đại biểu bộ kinh này là “kinh khai ngộ bậc nhất”, pháp môn này là “pháp môn chứng quả đệ nhất”. Đó mới là điểm then chốt.
Với bổn kinh, phần “Phi thị Tiểu Thừa – Đệ tứ thập tam” gần cuối kinh, đoạn đầu khuyên tín lưu thông, có câu “tâm vô hạ liệt, diệc bất cống cao, thành tựu thiện căn, tất giai tăng thượng. Đương tri thử nhân, phi thị Tiểu thừa, ư ngã pháp trung, đắc danh đệ nhất đệ tử”, chứng tỏ kinh văn trước sau tương ứng. Kiều Trần Nhưkhai ngộ đệ nhất, chứng quả đệ nhất, nên xếp ngài ở thứ nhất, chính là nói rõ bộ kinh này là pháp môn khiến cho tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật đệ nhất. Tất cả kinh Thích Ca Mâu Ni Phật nói trong suốt bốn mươi chín năm, đây chẳng phải đã nói rõ ràng Vô Lượng Thọ là đệ nhất kinh, thiên kinh vạn luận. Ngày nay chúng ta chọn được đệ nhất kinh trong tất cả kinh, nếu không phải là đại thiện căn, đại phước đức, đại nhân duyên thì làm sao có thể gặp được.
Kiều Trần Như đại biểu đệ nhất, nên xếp ngài ở thứ nhất. Phía sau cũng đều là thứ nhất, mỗi câu mỗi chữ trong kinh đều là đệ nhất, không có đệ nhị. Xá Lợi Phất đại biểu cho trí tuệ đệ nhất, Mục Kiền Liên đại biểu thần thông đệ nhất. Kiều Trần Như được xếp ở phía trước, vậy ý nghĩa biểu thị của ngài được nâng cao hơn. 
Mục Kiền Liên đại biểu thần thông đệ nhất, thần thông chính là năng lực mà ngày nay chúng ta thường gọi. Thông là ý nghĩa thông đạt, thông đạt tất cả, không hề chướng ngại. Thần là thần kỳ, siêu việt thường thức, tưởng tượng của chúng ta. Họ có năng lực thù thắng, đệ nhất, cho nên trong tất cả kinh đều có hai vị tôn giả Mục Kiền LiênXá Lợi Phất, ý nói: tất cả các kinh Phật nói đều là trí tuệ đức năng, từ trong trí tuệ chân thật, đức năng chân thật mà lưu xuất ra, trí tuệ đệ nhất; thần thông năng lực cũng đệ nhất. Tuy nhiên tuyệt đối các kinh khác không thể so sánh với kinh Vô Lượng Thọ, vì sao? Không phải kinh nào cũng đều có thể giúp cho tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật. Chỉ có bộ kinh này, một pháp môn này mới có thể giúp cho tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật
Phải ghi nhớ, chúng ta hãy xây dựng tín tâm, học đoạn kinh văn này chính là kiến lập tín tâm kiên định không gì bằng, tin tưởng chính mình “thị tâm thị Phật”, tin tưởng chính mình “thị tâm tác Phật”, nhất quyết sẽ thành Phật
Tôn giả Ca Diếp đại biểu Thiền tông, sơ tổ của Thiền tông. Tôn giả A Nan đại biểu giáo hạ. Tông môn cùng giáo hạ họp lại là tổng thể Phật pháp, không hề sót lọt thứ nào. Ngoài Thiền tông ra thảy đều gọi là giáo hạ. Hai vị này đại biểu ý nghĩa rằng Tông môn và Giáo hạ cuối cùng sẽ quy về Tịnh độ, thế chẳng phải Tịnh độ thù thắng dường nào. Tuy nhiên Tông môn có thật quy về Tịnh độ hay không? Chân thật quy về. 
Ví dụ rõ ràng nhất, Mã Tổ, Bá Trượng là hai vị đại sư đã xây dựng tòng lâm, lập thanh qui, đề xướng cùng tu, “Thiền môn nhật tụng”. Thanh qui mà đại sư Bá Trượng lập ra là bổn khóa tụng của Thiền tông. Khóa tối đều niệm A Di Đà Phật, buổi tụng kinh tối thì tụng kinh Di Đà, há chẳng phải quy Tịnh Độ đó sao? Không hề xem nhẹ Tịnh độ, rõ ràng là ngàn kinh vạn luận và mọi tông phái đều quy về Vô Lượng Thọ, quy về bộ kinh này, quy về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Hiểu rõ, chúng ta cũng nên lựa chọn pháp môn Tịnh độ, chuyên tu chuyên hoằng, nhất quyết không bị các pháp môn khác làm lay động ý nguyện
“Hựu hữu Phổ Hiền Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Di Lặc Bồ tát”
Trong pháp hội còn có chúng Bồ tát, ở trong chúng Bồ tát đề cử cho chúng ta ba vị. Thứ nhất là Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Di Lặc và tất cả Bồ tát trong hiền kiếp đều đến hội họp. Ý nghĩa này rất tuyệt diệu
Bồ tát Phổ Hiền đại biểu điều gì? Đại biểu Tịnh Mật không hai. Mười tông phái của Phật pháp trong đó có Mật tông. Vào thời cận đại, Mật tông hoằng truyền rất rộng. Tổ sư của Mật tôngBồ tát Phổ Hiền. Vị truyền thừa của Mật tôngBồ tát Long Thọ. Sau khi Phật diệt độ sáu trăm năm, Bồ tát Long Thọ xuất hiện trên thế gian. Ngài là Bồ tát sơ địaNam Thiên mở Tháp Sắt. Sau khi tháp sắt mở thì Kim Cang Tát Đỏa gọi là Kim Cang Thủ Bồ tát truyền cho ngài mật pháp này. Kim Cang Thủ Bồ táthóa thân của Bồ tát Phổ Hiền. Cho nên Bồ tát Phổ HiềnMật tông xưng là Kim Cang Tát Đỏa. Ngài đại biểu cho Mật tông, đến cuối cùng cũng quy về Tịnh độ. Ý nghĩa này hiển thị đặc biệt rõ ràng trong phẩm thứ hai “Đức Tôn Phổ Hiền”. Trong kinh Hoa Nghiêm, “thập đại nguyện vương, đạo quy Cực Lạc”, như vậy Mật tông đâu có lý nào không quy về Tịnh độ
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đại biểu Thiền tông. Thiền tông do tổ sư Đạt ma truyền xuống, không phải là thiền định trong Lục độ, mà là Bát Nhã Ba La Mật trong Lục độ, gọi là “Lục Tổ Đàn Kinh”. Lục Tổ khi mở lời, luôn dạy mọi người niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, cho nên chúng ta phải hiểu Thiền tông là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đại biểu, đây là bổn tôn trong tông môn. Phổ Hiền là bổn tôn trong Mật tông, tất cả đều hướng về Tịnh độ
Chúng ta tu Tịnh độ, tâm đã định thì nhìn thấy Thiền, nhìn thấy Mật rất hay. “Mật trong Mât, Thiền trong thiền”, tín tâm, nguyện tâm kiên định, không hề bị làm lay động. Chư vị Bồ tát được liệt kê ở đây đều mang nghĩa thú sâu rộng, chân thật giúp đỡ chúng ta xây dựng tín tâm, nguyện tâm không gì bằng. 
Bồ tát Di Lặc đại biểu truyền thừa tương lai. Thích Ca Mâu Ni Phật là một thời đại lớn. Trong thời đại lớn này, một vạn hai ngàn năm, pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phậtchánh pháp, tượng pháp, mạt pháp. Như vậy, sau một vạn hai ngàn năm, các chư Phật khác đến hoằng dương pháp môn gì, có giống như Thích Ca Mâu Ni Phật không? Không gì khác, Bồ tát Di Lặc chính là kế thừa Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật thứ tư trong Hiền kiếp, Di Lặc là vị thứ năm, tiếp nối tương lai, cũng tiếp nối pháp môn này, vì đây là pháp môn đệ nhất. Mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai độ chúng sanh thành Phật đạo, pháp môn đệ nhất là kinh Vô Lượng Thọ. Đối tượng kinh Vô Lượng Thọ tiếp dẫn chính là chúng sanh căn tánh chín muồithế gian. Như thế nào mới gọi là chín muồi? Ngay trong một đời quyết tâm thành Phật
Cho nên chúng ta tiếp xúc được pháp môn này, nếu không thể vãng sanh, không phải vì kinh kém khuyết mà vì chính chúng ta chưa y giáo phụng hành. Còn nếu y giáo phụng hành, nhất định đời này làm Phật, không hề khác biệt với Phật A Di Đà. Đó là sự thật, tuyệt nhiên không giả. Tất cả chư Phật Như Lai gặp được chúng sanh căn tánh chín muồi đều phải nói pháp môn này, đều khuyên bảo niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Do đó, pháp mônpháp hội này thù thắng, xác thực không tiền tuyệt hậu.
“Cập Hiền kiếp trung, nhất thiết Bồ Tát, giai lai tập hội”
Tất cả Bồ tát chuyên chỉ Hiền Kiếp Thiên Phật, thời đại đó càng to lớn hơn, ngay trong một đại kiếp. Nhà Phật gọi một đại kiếp, ý nói đơn vị thời gian rất lớn. Trong đại kiếp này có một ngàn vị Phật xuất hiệnthế giới Ta Bà. Cho nên thế giới Ta Bà chúng ta hiện tại ở trong đại thiên thế giới. Quả địa cầu này chỉ là một tinh cầu nhỏ của đại thiên thế giới. Trước kia đa phần người ta cho rằng: đại thiên thế giới mà nhà Phật nói chẳng qua là hệ ngân hà mà các nhà thiên văn học hiện tại phát hiện. Thế nhưng lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ có cách nhìn không như vậy. Phía sau chú giải kinh Vô Lượng Thọ có một đoạn văn chương của ông. Lần sau cùng ông gởi cho tôi, khi đó tôi ở Đài Loan. Ông gửi từ Bắc Kinh đến nói rằng ông hy vọng chúng tôi đem thiên văn chương này bổ sung để vào phía sau phần chú giải, bởi vì lúc giảng kinh ông đã để sót đoạn này. Ông là nhà khoa học đồng thờigiáo thọ khoa học, dạy vô tuyến điện ở trường đại học Thiên Tân.
Hiện tại chúng ta gọi là hệ ngân hà, nhưng theo cách nhìn của ông, trên thực tế chỉ là một đơn vị thế giới mà trong Phật pháp thường gọi. Kinh Phật nói đơn vị thế giới lấy núi Tu Di làm trung tâm, thái dương xoay vòng theo núi Tu Di. Rốt cuộc núi Tu Di là gì? Từ xưa đến giờ chưa có người nào có thể giải thích rõ ràng. Hoàng lão cư sĩ nói: “Núi Tu Di có thể là lỗ đen mà thiên văn đã phát hiện”. Lỗ đen đó ngày nay chúng ta gọi là trung tâm của vũ trụ, trung tâm của hệ ngân hà. Thái dương đích thực đang xoay quanh điểm này. 
Giả như lời nói của ông có thể chứng thực, vậy một đại thiên thế giới có bao nhiêu hệ ngân hà? Mười vạn ức hệ ngân hà. Một đại thiên thế giới là khu vực giáo hóa của một vị Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật hoàn toàn không diệt độ. Ngài ở thế giới này thị hiện cho chúng ta thấy ngài đã diệt độ, nhưng có thể ngài lại thị hiện ở một tinh cầu khác. Phật xem nơi nào duyên đã chín muồi thì liền hiện thân ở nơi đó. Phẩm Phổ Môn nói “Thiên xứ sở cầu thiên xứ ứng”, kinh Lăng Nghiêm cũng nói tùy loại hóa thân, “tùy chúng sanh tâm ứng sở tri lượng”. Phật không có thân tướng nhất định, nơi nào có duyên thì hiện thân đến nơi đó, nơi nào không còn duyên nữa, thân cũng sẽ không còn. Cho nên không có sanh tử, tùy loại hóa thân, đó là sự thật
Thế nên Hiền kiếp, trong thời đại lớn này, có một ngàn vị Phật ở thế giới Ta Bà, chính là một đại thiên thế giới. Chúng ta lấy lời của Hoàng lão cư sĩ thì mười vạn ức hệ ngân hà, phạm vi lớn đến vậy, thị hiện một ngàn vị Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật là vị thứ tư, Phật Di Lặc là vị thứ năm, sau đó còn 995 vị Phật. Hiện tại trong Hiền kiếp, địa vị các ngài là Bồ tát, nhưng tương lai liên tục thảy đều thay nhau thành Phật. Ý này rõ ràng cho chúng ta biết, vạn Phật không vị Phật nào không nói kinh này, không vị Phật nào không tuyên dương pháp môn này, không vị Phật nào không khuyên tất cả chúng sanh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ
Chúng ta phải chân thật nắm được, hiện tại nhất định sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tương lai ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, chúng ta sẽ trở thành nguyên lão, tư cách tiền bối. Kinh nói rõ “A Di Đà Phật thành Phật đến nay mới có mười kiếp”, mười kiếp ở trong thời không rất ngắn ngủi. Chúng ta sớm đến thế giới Cực Lạc, sau này vạn Phật ra đời đều là hậu bối của chúng ta. Cho nên hiện tại nếu vãng sanh, tương lai đều là huynh trưởng của họ. Do đó hãy nhanh chân hơn, không nên tiếp tục luân hồi, vừa luân hồi vừa đọa lạc, trong khi người sau thành Phật, thành đại Bồ Tát, thì chúng ta lại trở nên lạc hậu quá xa. Đó là việc không ai muốn. Muốn vậy, thì phải chăm chỉ nỗ lực học tập tinh tấn.
Tóm lại, quả thực mười phương tất cả chư Phật Như Lai, không chỉ là Hiền kiếp thiên Phật, không vị nào không lấy kinh này, lấy pháp môn niệm Phật làm đệ nhất. Đó là nội dung nên học tập trong phẩm thứ nhất.

(Còn tiếp ...)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31575)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10504)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11207)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12717)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10793)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16613)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10792)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22935)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11997)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11474)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10668)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12311)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11185)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10001)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10315)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11897)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10685)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12351)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9789)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11243)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13823)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9571)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12607)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9681)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10439)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10537)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10296)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9883)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11037)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11992)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10132)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10775)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9531)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9883)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8757)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9487)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14502)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8763)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12538)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10403)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9057)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10544)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9321)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8778)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10493)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9171)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8346)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12008)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9687)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10207)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10218)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19105)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9383)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8963)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9570)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9009)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14730)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10072)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8338)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8934)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8956)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8728)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9351)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14567)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9023)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8748)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9026)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10511)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8625)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9982)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24253)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10153)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11006)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8987)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9453)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7994)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9229)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15326)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10321)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9560)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17428)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21359)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12147)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10223)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19211)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25999)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7960)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14734)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10617)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11339)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9524)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18626)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12338)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11862)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10728)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13323)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9971)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9259)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9364)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15856)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant