Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 15

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10446)
Phần 15


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 15)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Thứ tư, nếu chúng ta tạo tội nghiệp từ thân khẩu ý đồng nghĩa tạo mười ác nghiệp, thân tạo sát đạo dâm; miệng thì vọng ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, thêu dệt, tâm thì tham sân si mạn. Vậy bạn phải nỗ lực cầu sám hối, việc sám hối này là phát lồ sám hối. Chúng ta không có dũng khí phát lồ sám hối trong đại chúng thì chí ít cũng phải ở trước mặt Phật Bồ Tát phát lồ sám hối. Một số người đến trước mặt Phật Bồ Tát thầm lặng sám hối, thấy miệng của họ động đậy, người ngoài không thể nghe được câu nào, e rằng Phật Bồ Tát cũng không nghe thấy. Phật dạy chúng ta phát lồ sám hối là phải nói ra, không nên che giấu. Do đây có thể biết loại sám hối này là rất muốn sám hối, còn ngượng ngùng, xấu hổ thì nghiệp chướng không thể sám trừ. Trước mặt Phật Bồ Tát, bạn còn không chịu phát lồ, không chịu lớn tiếng nói ra thì có thể thấy được ý nguyện của bạn không chân thành. Chân thật sám hối thì không những trước mặt Phật Bồ Tát mà còn phát lồ sám hối trước mặt thiện tri thức thông thường.

Thứ năm, Phật nói, tuy bạn không làm nhiều việc ác, nhưng tâm của bạn ác. Ác tâm đó đã trùm khắp, bạn không thể làm ác vì duyên chưa chín muồi. Nếu duyên chín muồi thì việc ác của bạn cũng trùm khắp. Thực tế tạo ác cũng phải có phước báu, không có phước báu thì chỉ có thể làm ác nhỏ, không thể làm được việc ác lớn. Người phước báu lớn mới có thể làm được đại ác. Họ có thể tùy tâm muốn làm gì thì làm, còn người không có phước báu, muốn làm đại ác cũng không làm được, chỉ có thể làm chút ác nhỏ. Tuy là ác nhỏ nhưng tâm ác của họ có thể không nhỏ, việc này cần phải ghi nhớ.

Thứ sáu, “ý niệm làm ác tiếp nối không ngừng”. Ban ngày tạo ác, buổi tối nằm mộng vẫn là đang tạo ác, nên gọi “Ngày nghĩ việc gì, đêm mộng việc đó”, vô cùng đáng sợ. Kinh Phật nói những sự việc này đều là hiện tượng ác hạnh thông thường của chúng ta hiện tại.

Thứ bảy, “che giấu, tránh né lỗi lầm của chính mình”. Chính mình tạo tác tất cả lỗi lầm nhưng lại đẩy trách nhiệm cho người khác, việc ác này khá nặng. Mình tạo tác thì mình phải dũng cảm gánh vác, mạnh dạn nhận lỗi, như vậy cái lỗi của bạn mới có thể sám trừ. Nếu che giấu, ngụy trang thì tội sẽ càng thêm nặng. Phật dạy chúng ta phải tích âm đức, nghĩa là làm việc tốt không nên để người biết. Phải che giấu thì phước đức của bạn càng tích càng dầy, quả báo tương lai sẽ thù thắng. Còn tội nghiệp thì không nên che giấu, cho dù tạo nhiều hay ít đều phải để người khác biết, biết để làm gì? Người này mắng bạn một câu, người kia trách bạn một tiếng, quả báo của bạn liền được trả hết. Mình tạo vô số ác nghiệp phải mau báo hết, còn tích những thiện thì không nên để người biết. Hiện tại người thông thường thật điên đảo, họ tạo ra việc ác nhưng không muốn người khác biết, còn chỉ làm một chút thiện là đã muốn đem nó tuyên dương thành đại thiện để mọi người xem trọng, tán thán. Như vậy, thiện đã sài hết mà ác vẫn ém để đó chưa động, đợi đến khi Diêm La Vương tính sổ một lần. Đó là người ngu si. Cho nên Phật dạy chúng ta chân thậtđạo lý.

Thứ tám, hiện tại thông thường chúng ta nói “ngoan cố, cố chấp, ngang ngược, tàn ác” là những người không thể nghe khuyên răn của người khác, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm đều xung đột với người, ưa thích đối kháng, hiếu thắng bồng bột, không chịu thiệt, tranh hơn thua, tất cả đó cũng là tập khí, là tâm bệnh lớn. Phật có giảng cho họ nghe những đạo lý nhân quả báo ứng, họ cũng không tin tưởng. Khi tôi ba mươi tuổi bắt đầu học Phật, lúc đó vừa mới xuất gia không bao lâu, một hôm tôi nghe một số lão pháp sư lớn tuổi hơn tôi đang nói chuyện, tôi cũng đến ngồi bên cạnh, nghe xong tôi toát mồ hôi lạnh. Họ đã hỏi nhau: “Nhân quả mà kinh Phật nói, ông có tin không?” Tôi nghe bàng hoàng, họ là người xuất gia, bình thường cũng giảng nhân quả báo ứng cho cư sĩ nghe, thế nhưng chính họ lại không tin, chẳng trách lão sư Lý ngày trước đã nói một câu ngạn ngữ: “Hòa thượng sợ cư sĩ, cư sĩ sợ nhân quả, nhân quả sợ hòa thượng”, tuy là lời nói đùa nhưng đạo lý rất sâu rộng.

Cho nên vào thời kỳ mạt pháp, bạn thấy học Phật thành tựu, chẳng hạn trong Vãng Sanh truyện cho thấy người xuất gia vãng sanh ít, người tại gia vãng sanh nhiều. Người tại gia vãng sanh tướng lạ, rất hi hữu. Khoảng ba mươi năm gần đây, Đài Loan đã có người đứng vãng sanh, đó là nữ cư sĩ tại gia. Còn trường hợp ngồi vãng sanh thì càng nhiều. Họ dự biết giờ đi, không có bệnh khổ. Thế nhưng mấy mươi năm qua tại Đài Loan không thấy có một người xuất gia nào vãng sanh tướng lạ như trên, ngồi cũng không có người nào huống hồ đứng vãng sanh. Lời của Lý lão sư nói thật không sai. Chúng ta tỉ mỉ quan sát, người xuất gia, thân xuất nhưng tâm không xuất, trong lòng còn chấp trước hơn so với người tại gia. Họ chỉ xuất ra từ căn nhà nhỏ của họ nhưng tìm đến một ngôi chùa lớn, lớn hơn nhiều so với căn nhà xưa cũ. Quyến thuộc nhiều hơn, tiền của cũng nhiều hơn, dẫn đến tăng thêm tham sân si mạn, tạo vô lượng tội nghiệp. Đối với những sự việc này, chúng ta đều phải cảnh giác cao độ, đó không phải việc tốt, rất đáng sợ, sợ chính mình ngay một đời này đọa lạc vào ba đường.

Thứ chín, “Vô Tàm vô Quý, Bất Cụ Phạm Thánh”. “Tàm” là lương tâm bị dày dò, bản thân làm sai việc gì trong lòng không an gọi là tàm. “Quý” là phê bình của người khác. Không sợ phê bình của người khác chính là không sợ dư luận. Con người như thế không nể trọng Phật Bồ tát. Nếu chúng ta đọc kinh Vô Lượng Thọ nhiều lần sẽ thấy kinh nói, nhân số của thế giới Tây Phương Cực Lạcvô lượng vô biên, không ai có thể tính đếm được. Kinh Phật nêu ra một thí dụ, ngay trong hàng đệ tử Thích Ca Mâu Ni Phật, năng lực thần thông mạnh nhất như tôn giả Mục Kiền Liên có thể dùng trí tuệ thông minh trong một ngày đêm tính đếm số lượng tinh cầuđại thiên thế giới, trong mỗi tinh cầu có bao nhiêu chúng sanh, ngài có thể tính ra được, nhưng Phật nói “Giả như tất cả chúng sanh đều chứng được quả vị Bích Chi Phật, thần thông đạo lực như ngài Mục Kiền Liên cùng nhau để tính số người của thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng không thể tính được”. Thế giới Tây Phương Cực Lạc phồn hoa, náo nhiệt, tốt hơn nhiều so với chúng ta nơi đây. Phật lại nói, người ở cõi đó cho dù là hạ hạ phẩm vãng sanh cõi phàm thánh đồng cư thì trí tuệ năng lực của họ thảy đều hồi phục gần giống như Phật. Họ có thể thấy được mười phương thế giới tất cả chúng sanh. Chúng ta không thể thấy họ nhưng họ có thể thấy chúng ta. Chúng ta ở đây nói nhỏ, đối phương còn nghe chưa rõ ràng, nhưng ở thế giới Tây Phương Cực Lạc thảy đều nghe được chúng ta, bạn làm sao có thể giấu được? Ở nơi đây chúng ta khởi tâm động niệm, họ thảy đều biết vì họ có tha tâm thông. Chúng ta thường cho rằng, làm một số việc xấu sẽ không ai biết, có thể giấu được người. Đúng! Bạn có thể giấu được năm mươi ức người của thế giới này nhưng với thế giới Tây Phương, vô lượng vô biên hàng Bồ tát, bạn không thể giấu một vị nào.

Nếu bạn chân thật tin tưởng, chân thật thấu hiểu, thì bạn sẽ không dám khởi một niệm ác vì khởi một niệm ác, Phật Bồ tát đều biết, thế giới Tây Phương Cực Lạc người người đều biết. Nếu bạn muốn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, Phật A Di Đà đại từ đại bi có kéo bạn lên đó thì người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng mỗi mỗi đều trợn mắt nhìn: “Làm sao ông có thể đến đây? Là một người ác, ông đến đây chẳng phải phá hoại hoàn cảnh của chúng tôi sao?”. Điều kiện của thế giới Tây Phương Cực Lạc là “Các bậc thượng thiện đều ở một nơi”. Chúng ta phải tu thượng thiện, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm không nên tạo ác, nhất định phải biết, không luận chúng ta ở lúc nào, nơi nào, Phật Bồ tát của thế giới Cực Lạc thảy đều xem thấy. Đây là thật, không phải giả. Không những không dám làm việc xấu, không ác khẩu, không vọng ngữ mà ngay cả trong ý niệm cũng không có dù chỉ một niệm ác, lúc đó chúng ta mới có thể vỗ ngực nhất định vãng sanh.

Hai hôm trước, có một vị cư sĩ ở Hoa Kỳ cũng là một lão đồng tu chúng ta, ông bị bệnh gọi điện thoại cho tôi. Câu thứ nhất ông hỏi: “Tôi liệu có bị đọa địa ngục không?” Tôi liền thành thật trả lời: “Ông có bị đọa địa ngục hay không tôi không biết, việc này ông phải hỏi chính mình”. Chính bạn niệm Phật tu thiện thì làm sao có thể đọa địa ngục. Nếu niệm Phật mà còn tạo nghiệp mới không thể tránh khỏi. Tôi liền khuyên ông đọc nhiều lần Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo kinh, vừa đọc vừa nghĩ lại xem mình đã tạo ra những nghiệp gì. Nếu bạn tạo tội nghiệp cực trọng địa ngục thì chỉ cần hơi thở của bạn chưa dứt là vẫn có thể cứu, bằng cách nào? Sám hối. Cầu vãng sanh phải chân thật sám hối, phải từ nội tâmsám hối, về sau không tái tạo. Khi đó bạn có thể không đọa ba đường, có thể mang nghiệp vãng sanh. Những thí dụ như vậy đều có trong kinh.

Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Vãng sanh truyện có nêu, người tạo tội nghiệp cực trọng khi chân thật hồi đầu, chân thật sám hối đều có thể vãng sanh. Nếu bạn không tin tưởng, tiếp tục tạo tác, vậy không còn cách nào, còn chân thật hồi đầu giác ngộ, sau không tái tạo thì đều được cứu. Phật Bồ tát đại từ đại bi không hề nhớ lỗi lầm của chúng sanh, ngay Đại sư Huệ Năng cũng nói “Người chân chính tu hành không thấy lỗi người khác”, Phật Bồ Tát làm sao nhớ lấy lỗi lầm của chúng sanh được. Vấn đề là chính mình tạo ra tội nghiệp lại sợ tánh tội, cho nên nhất định phải tự nỗ lực sám hối.

Thứ mười, “không tin nhân quả báo ứng”. Người chân thật tin tưởng nhân quả báo ứng biết tự kiểm điểm khi khởi tâm động niệm, lời nói việc làm. Biết được quả báo đáng sợ nên quyết không dám thưởng thức. Chúng ta cả đời may mắn gặp được Phật pháp mới hiểu rõ đạo lý này. Khi chưa gặp Phật pháp, những tội nghiệp chúng ta thường tạo trong đời quá khứ tuy chúng ta không có túc mạng thông nhưng vẫn không thể tránh khỏi. Khi chưa gặp Phật pháp, Phật nói những tội nghiệp này tôi đều đã làm qua, đến sau khi học Phật mới hiểu rõ. Thời gian kháng chiến năm đó tôi mười mấy tuổi, đã tạo nghiệp sát rất nặng, ham thích săn bắn, cho nên nhiều tướng số đoán mạng cho tôi nói tôi đoản mạng, tôi tin tưởng, vì sao? Vì nghiệp sát quá nặng làm sao không đoản mạng. Ngay đời này đời sống rất khổ cực không thể đoàn tụ với người nhà, tôi cũng tin tưởng. Do nghiệp báo tôi sát sanh làm cho cả nhà chim thú không được đoàn viên thì tôi phải chịu quả báo này. Tạo nhân gì thì phải nhận lại quả đó, việc này không thể tránh được. Sau khi chân thật hiểu, Phật Bồ tát đã cứu chúng ta thấu hiểu chân tướng sự thật và thay đổi tự làm mới, không còn vì chính mình mà vì Phật pháp, vì chúng sanh. Lại gặp được pháp môn Tịnh Độ, một đời viên mãn, chúng ta xác định một con đường làm thế nào để báo ân Phật, báo ân chúng sanh, đền trả những lỗi lầm trước đây đã giết hại chúng sanh. Chỉ có hoằng dương Phật pháp, đem pháp môn thù thắng giới thiệu cho mọi người, mọi người niệm Phật tương lai đều vãng sanh Tịnh Độ, đều thành Phật, tội nghiệp này của chúng ta mới có thể được tiêu trừ.

Ngày nay, sám hối nghiệp chướng là mấu chốt vô cùng quan trọng. Mấy năm gần đây, rất nhiều đồng tu đón nhận thông tin từ báo chí truyền hình, nhiều nơi trên toàn thế giới tai nạn phổ biến, mỗi năm một phức tạp hơn, năm sau nghiêm trọng hơn năm trước. Singapore tuy là đất phước cũng không thể không bị ảnh hưởng, đó là việc mà mỗi người chúng ta đều quan tâm. Làm thế nào mới có thể tiêu tai giải nạn? Tôi tin tưởng không chỉ đồng tu học Phật đều đang quan tâm lo lắng, muốn tìm phương pháphiệu quả để tiêu tai giải nạn, đón kiết hoá hung, mà tín đồ các tôn giáo khác cũng đang lo lắng như vậy. Thậm chí những người nổi tiếng hoặc những người không tín ngưỡng tôn giáo khi thấy các tai biến, trong lòng đều không an ổn. Đây là vấn đề của ngày nay, hơn nữa còn là vấn đề trọng đại của xã hội. Vậy chúng taphương pháp gì không? Giúp chúng ta tiêu tai khỏi nạn chỉ có đáp án trên kinh Phật mới có thể khẳng định được. Nhất địnhphương pháp hơn nữa còn hiệu quả, nhưng chúng tatin tưởng hay không, có chịu tiếp nhận hay không?

Những tai biến này do đâu mà đến? Nguyên nhân rất phức tạp, kinh Đại Thừa Phật thường nói “vô lượng nhân duyên”, không phải nhân duyên nhỏ, không phải nhân duyên đơn giản mà là nhân duyên phức tạp tạo thành hiện tượng ngày nay của chúng ta. Hiện tượngquả báo, có nhân ắt có quả. Kinh Phật nói rõ cội gốc của vũ trụ nhân sinh. Trong thái không này có rất nhiều tinh cầu, nó làm thế nào sanh ra? làm thế nào những tinh cầu này vận hành trong thiên không một cách có qui tắc, không hề va chạm lẫn nhau? Còn sinh mạng từ nơi đâu mà đến? Vì sao có sinh mạng? Vì sao có những hoàn cảnh đời sống hiện tiền của chúng ta?. Không đọc kinh Phật thì không thể nào tường tận những chân tướng sự thật này. Có không ít chuyên gia học giả thế gian, nhà triết học, nhà khoa học, các nhà tôn giáo đều đang thăm dò, tìm kiếm đáp án chân thật chính xác. Thế nhưng từ mấy ngàn năm khi nhân loại bắt đầu nền văn minh lịch sự đến ngày nay cũng chưa tìm ra. Rất nhiều lý luận nhưng không có gì đúng. Chúng ta nghe nhưng lại không thể tâm phục khẩu phục. Khi quay đầu lại nghe Phật mới thấy đích thực có đạo lý.

Tường tận nhất, thấu triệt nhất chính là trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh. Bộ kinh này rất dài, sau khi đọc dù không hiểu triệt để chúng ta cũng có thể biết đại khái, liền biết được phải làm người như thế nào, phải tu hành ra sao, làm thế nào đón kiết hoá hung tiêu tai khỏi nạn, trải qua đời sống hạnh phúc chân thật mỹ mãn. Mong cầu của chúng ta nơi cửa Phật đích thực có thể đạt được đầy đủ. Phật nói, lý do của mười pháp giới y chánh trang nghiêm chính là khởi nguồn của vũ trụ. Vũ trụ cùng sinh mạng đồng thời mà có, không trước không sau. Có sinh mạng thì có vũ trụ, có vũ trụ thì có sinh mạng. Sinh mạng cùng vũ trụ không thể phân hai. Phật nói rõ nguyên lý căn bản trong kinh Hoa Nghiêm: “Tất cả pháp duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, tâm là gì? Không người nào biết.

Chúng ta vừa nhắc đến tâm, mọi người lập tức liền nghĩ, chỗ này là tâm, chỗ kia là tâm, cái tâm này không dùng được, cái tâm kia không thể biến đổi, hoặc tâm chỉ có thể sanh ra chướng ngại, không có gì tốt cả. Đại đức xưa của thiền tông nói rất hay “Nhược nhân thức đắc tâm, đại địa vô thốn thổ”, người nào chân thật nhận được cái tâm thì “đại địa vô thốn thổ” thảy đều được giải quyết. Do đây có thể biết mong cầu của cả Phật pháp chính là cầu được “Minh tâm kiến tánh”. Minh có nghĩa minh bạch. Ngày nay chúng ta không minh bạch, nếu tâm minh bạch, tánh liền thấy được. Tánh là thể của tâm, tâm là dụng của tánh. Chân tâm có thể, có dụng. Từ trên thể, chúng ta gọi nó là tánh, bổn tánh. Từ trên dụng, chúng ta gọi nó là tâm. Tác dụng nếu cùng với thể tương ưng thì cái tác dụng này gọi là chân tâm, trái ngược với thể thì chúng ta gọi là vọng tâm. Chân tâm khởi tác dụng, cảnh giới đó liền thù thắng, cho nên mới nói chư Phật Bồ Tátpháp giới nhất chân.

Kinh Hoa Nghiêm nói “thế giới Hoa Tạng của Phật Tỳ Lô Giá Na”, kinh Vô Lượng Thọ nói “thế giới Tây Phương Cực Lạc”, đó là tác dụng cùng thể tánh hoàn toàn tương ưng. Chân tâm khởi tác dụng, duy tâm sở hiện, cái tâm đó là chân tâm. Hiện tại chúng ta đọa lạc thành phàm phu, phàm phu có tâm hay không? Đương nhiên có tâm, tuy có tâm nhưng bạn không biết, thế là hiện tại cái tâm này của chúng ta khởi tác dụng. Trái ngược với chân tánh, không tương ưng, nó vẫn khởi tác dụng. Thế nhưng ở trong tác dụng liền sanh ra biến hoá. Hoặc giả chúng ta nói biến chất, chất biến tánh không biến, nếu tánh biến thì tánh không phải thật. Cho nên Phật ở trên kinh mới nói “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, đã có Phật tánh thì đương nhiên có thể làm Phật, đây là đạo lý nhất định. Chất đổi tánh không đổi. Chất đổi là gì? Là biến thành mười pháp giới y chánh trang nghiêm. Thân thể của chúng ta, nguồn gốc của sinh mạng, chất thay đổi, hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta ngày nay cũng thay đổi, chất vì sao có thể thay đổi? Phật nói rồi, trong mười pháp giới bao gồm sáu cõi của chúng ta, ngày nay chúng ta bao gồm tất cả hình hình sắc sắc những hiện tượng này, “duy thức sở biến”, thức liền sanh ra biến chất.

Thức là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chúng ta thử nghĩ xem trong chúng ta có người nào không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Mỗi mỗi đều có, vậy phiền não không nhỏ. Cho nên thế giới này, mỗi người cộng nghiệp biến ra. Thân thể, dung mạo của chúng ta, tình trạng sinh hoạt của mỗi cá nhânbiệt nghiệp. Những đạo lý, những chân tướng sự thật, kinh Đại thừa Phật đã nói rất tường tận, thấu triệt, do đó “Tất cả pháp do tâm tưởng sanh”. Tâm tưởng này chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Mọi người đều hãy hướng đến phương diện thiện mà nghĩ thì thế giới liền hòa thiện, còn mọi người hướng đến mặt ác mà nghĩ thì thế giới liền đổi xấu. Chúng ta tỉ mỉ quan sát thử xem những người ở thế gian này đang nghĩ cái gì?

Chúng ta là người học Phật so với người thế gian thông thường thì dụng tâm không như nhau, nhất là phát tâm từ công việc hoằng pháp lợi sanh. Bạn lên giảng đài giảng kinh nói pháp, bình thường bạn sinh hoạt tu trì đều phải làm mô phạm cho chúng sanh. Do đó nói pháp phải khế cơ, hình thức sinh hoạt của chúng ta càng phải khế cơ. Hiện nay nghiêm trọng chính ở hiện tượng xã hội không tốt. Phương pháp chẩn đoán hiệu quả nhất là phải đem những mê hoặc của chúng sanh cụ thểvọng tưởng, phân biệt, chấp trước làm cho họ thức tỉnh. Chúng ta nghĩ sai, làm sai, nói sai, kết quả sai lầm chính là hiện tượng xã hội ngày nay. Nếu bạn hỏi xã hội này động loạn, có tai biến từ nguyên nhân nào? Tôi nghĩ mỗi người đều cảm xúc riêng. Ngay trong tin tức cũng thường hiển thị, khí hậu toàn thế giới khác thường, mấy năm gần đây, nhiệt độ trên địa cầu không ngừng nâng cao, núi băng ở nam bắc hai cực đang bắt đầu tan rã. Đương nhiên nó tan rã không quá nhanh nhưng nếu nhiệt độ không ngừng tăng lên, hoặc giả sử dừng lại không nâng lên cao nữa thì theo tính toán của khoa học gia, núi băng ở nam bắc cực sẽ tan chảy hoàn toàn sau năm mươi năm nữa. Tuy nhiên căn cứ thống kê của mấy năm gần đây, nhiệt độ mỗi năm nâng lên cao nhiều hơn, như vậy, tôi e núi băng của nam bắc cầu sẽ tan chảy hoàn toàn sau hai mươi năm nữa. Khi núi băng tan rã, mực nước biển liền dâng cao, khu vực Duyên Hải thảy đều chìm vào đáy biển, tai nạn này quá lớn, khoa học có tiến bộ thế nào cũng không cách gì ứng phó. Hiện tại mọi người quy việc này cho đại tự nhiên, không phải sức con người. Phần lớn đùn đẩy trách nhiệm, đó là vì không hiểu chân tướng sự thật.

Nhiệt độ lên cao, nguyên nhân chân thật do đâu? Phật đã nói rồi, đáng tiếc mọi người không tin. Phật nói với chúng ta nhiệt độ do lửa sân hận, nguyên nhân căn bản của tai biến ngày nay, chính là tham sân si mạn của chúng sanh. Cái vọng tâm mỗi ngày thêm lớn không ngừng nên ảnh hưởng đến hoàn cảnh. Khi vừa mở đầu tôi đã nói với các vị, khởi nguồn vũ trụ cùng sinh mạng là đồng thời, không thể phân ra. Sinh mạng nhà Phật gọi là chánh báo, hoàn cảnhy báo. “Y Chánh” có cùng một cội gốc, cho nên y báo chánh báo là một không hai. Kinh Phật lại nói với chúng ta rất nhiều lần “Y báo tuỳ theo chánh báo chuyển”. Kinh Lăng Nghiêm nói rõ ràng hơn “Nếu có thể chuyển cảnh thì đồng Như Lai”, Như Lai là gì? Là người giác ngộ có thể thay đổi hoàn cảnh tự nhiên. Họ không cần phải dùng những công cụ khoa học. Tâm chuyển rồi, hoàn cảnh tự nhiên liền đổi. Chúng ta muốn đại tự nhiên này hạ nhiệt độ địa cầu xuống thì mọi người phải dập tắt tham sân si. Nhiệt độ sẽ hạ rất nhanh. Ngày ngày chúng ta vẫn đang tham sân si thì nhiệt độ đó vẫn cứ hướng lên cao. Đó là hiện tượng chúng ta đã xem thấy ở rất nhiều quốc gia khu vực, mỗi năm đi qua, mọi người tăng thâm tham sân si mạn, không những không hạ thấp mà ngay đến tạm dừng cũng không có. Thật là tham không chán, tham không được thì sân hận. Do đây có thể biết “Sám trừ nghiệp chướngvô cùng quan trọng.

Nghiệp chướng là tạo tác ra những ác nghiệp. Tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi, nhất định phải sám trừ, kinh Phật cho biết có mười loại “tâm nghịch thuận”. Mười loại tâm tùy thuận sanh tử sáu cõi luân hồi, phía trước chúng ta đã nói qua, nay chúng ta tiếp tục giảng mười tâm nghịch sanh tử, cái nghịch này trái ngược với nó, có nghĩa là khuyên chúng ta tu mười loại tâm này để siêu việt sáu cõi luân hồi, tiêu tai giải nạn, hoá giải vô số tai biến thế gian hiện tại. Phật nói cho chúng ta nghe mười điều, người khác không tin tưởng, chúng ta cũng không nên để ý. Chính mình phải tin tưởng, phải từ chính bản thân nỗ lực mà làm. Hay nói cách khác, việc này trên kinh Phật nói rất tường tận, ngày nay chúng ta sống trên thế gian là cộng nghiệp. Trong cộng nghiệp còn có biệt nghiệp, cho dù địa cầu gặp phải tai biến to lớn như rất nhiều người nói, khi đại nạn đến, người trên địa cầu này có thể chết phân nửa, có thể chết 2/3, vậy vẫn còn 1/3 không chết, họ vẫn có thể vượt qua.

Trong cộng nghiệp vẫn còn có biệt nghiệp, người ngoại quốc nói “Ai tin tưởng thượng đế thì được cứu”, không tin thượng đế e rằng không có cách gì tránh khỏi tai nạn. Chúng ta rất khó tán thành cách nói này, người không từ bất cứ một việc ác nào nhưng chỉ cần tin vào thượng đế thì thượng đế cũng có thể cứu giúp họ. Còn cả đời làm người tốt nhưng không tin thượng đế thì thượng đế không cứu, như vậy thượng đế quá bất công. Chỉ Phật nói có đạo lý giúp bạn hồi tâm chuyển ý, diệt trừ tham sân si, tu phước, tu thiện, tích công bồi đức, khi đó bạn liền được cứu, được tiêu tai khỏi nạn. Nếu tiếp tục tham sân si mạn, tiếp tục tạo ác thì khi đại tai nạn đến e rằng sẽ không thể tránh khỏi. Phật nói như vậy, chúng ta nghe rồi vẫn cảm thấy tràn đầy đạo lý, có thể tiếp nhận. Cho nên nếu thượng đế không nói đạo lý thì chúng ta cũng không bằng lòng theo.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31585)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10514)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11208)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12725)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10796)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16622)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10799)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22935)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12002)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11479)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10669)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12318)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11185)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10001)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10318)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11898)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10689)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12356)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9792)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11244)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13825)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9571)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12611)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9685)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10443)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10538)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10298)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9885)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11044)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11999)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10133)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10775)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9531)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9887)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8759)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9487)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14506)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8768)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12540)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10405)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9062)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10549)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9323)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8781)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10494)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9173)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8347)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12009)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9688)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10207)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10221)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19116)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9391)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8965)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9572)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9011)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14730)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10073)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8340)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8934)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8959)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8730)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9359)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14576)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9028)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8752)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9027)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10514)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8629)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9982)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24255)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10155)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11009)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8990)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9456)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7997)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9238)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15331)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10325)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9560)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17428)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21362)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12147)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10225)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19215)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26009)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7966)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14749)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10619)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11340)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9526)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18634)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12338)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11864)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10729)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13324)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9971)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9259)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9364)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15871)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant