Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 28

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 9953)
Phần 28


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 28)

 

Pháp Sư Tịnh Không

“GIÁNG VƯƠNG CUNG”

Tướng thành đạo thứ hai là “thác thai”, thông thường người thế tục chúng ta gọi là đầu thai, xuất sanh, “giáng vương cung”. Thích Ca Mâu Ni Phật nói, chư Phật Bồ Tát đến thế gian này là thừa nguyện tái lai. Các ngài không đến do nghiệp tái sanh. Phàm phu chúng ta do nghiệp tái sanh, nghiệp báo đến thì không có chọn lựa. Chính mình không làm chủ được, tùy nghiệp lưu chuyển, đời sống của chúng ta sẽ rất đau khổ. Bồ Tát thừa nguyện tái lai, họ do nguyện lực mà đến. Họ có thể chọn lựa đi đến một nhà nào đó để đầu thai. Vì sao phải chọn ở nhà đế vương? Vì để thuận tiện giáo hoá chúng sanh.

Người thế gian cầu danh vọng lợi dưỡng, trong khi quốc vương đầy đủ danh lợi, những thứ mà người thế gian ham muốn. Thế nhưng đế vương có thể xả bỏ tất cả. Đó là cách biểu diễn rất hay để người xem. Nếu ngài sanh ra trong gia đình nghèo cùng mà lại nói về việc xả bỏ thì người ta sẽ hoài nghi: “Không phải ông muốn làm quốc vương mà không được nên mới làm tôn giáo? Ông muốn làm lãnh đạo tôn giáo thống trị mọi người, không phải đó là vì danh lợi hay sao?Mọi người sẽ hoài nghi, cho nên nhất định phải chọn lựa ở nhà của đế vương.

Chọn lựa đầu thai đến nhà quốc vương, dùng thân phận thái tử để xuất hiện, dụng ý của ngài rất sâu, vì người thế gian có người nào không mong cầu phú quý. Thời xưa có câu nói: “quý như thiên tử, giàu như bốn biển”. Bồ Tát liền thị hiện: “Tôi đã có những thứ các người mong cầu, nhưng không gì đáng tự hào mà rất bình thường”. Hoàng đế cũng phải chết, tạo tác tội nghiệp vẫn phải đọa ba đường. Việc tốt là việc nên làm, đã làm việc xấu thì phải đọa ba đường. Con người sống ở đời không phải vì phú quý. Bồ tát dùng phương thức thị hiện làm một tấm gương tốt để chúng ta phản tỉnh, giác ngộ.

“KHÍ VỊ XUẤT GIA”

Vị” là vương vị. Xả bỏ vương vị. Quyền lực quốc vương của một quốc giaquyền lực lớn nhất. Người tranh quyền đoạt lợi xem thấy Bồ Tát biểu diễn vậy phải sanh tâm tàm quý. Bồ tát có danh, vị, quyền lực, tiền của nhưng đều xả vì biết những thứ này không phải là thứ tốt. Kinh Phật nói, “tài, sắc, danh, thực, thùy” là năm điều của địa ngục. Chỉ vướng một điều thì bạn cũng đã không thể thoát khỏi sáu cõi luân hồi. Nếu đầy đủ năm điều thì phiền não của bạn sẽ to, cho nên nhất định phải xả. Người niệm Phật chúng ta mỗi tâm mỗi niệm phải cầu sanh tịnh độ, không ở thế giới Ta Bà.

Chúng ta có thể đi hay không? đi bằng cách nào? Phải đem thế giới Ta Bà xả bỏ, bạn mới có thể đi. Chúng ta không thể đem danh vọng lợi dưỡng từ thế giới Ta Bà đến đó, cho nên phải xả bỏ thế gian này. Xả bỏ năm dục sáu trần, danh vọng lợi dưỡng, chúng ta niệm Phật mới được sanh. Không gian đời sống của chúng ta rất có hạn lượng, làm gì an vui. Chúng ta đem thế gian này thảy đều xả bỏ thì sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc mới được tự tại chân thật. Nơi đây nói dân chủ mở rộng tự do, toàn bộ đều là giả, không phải thật. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc mới thật là dân chủ tự do mở rộng. Ở Thế Giới Tây Phương Cực Lạc không hề có quốc vương, tổng thống, bộ trưởng, thị trưởng.v.v…, vì sao không có? Dân chủ. Mỗi người đều là chủ, không ai làm chủ ta. Đó mới thật là dân chủ, thật tự do, chân thật mở rộng, tùy lúc tùy nơi muốn đến quốc gia nào, thấy một vị Phật nào thì liền đi, không chút khó khăn.

Thế Giới Cực Lạc đáng được chúng ta đi. Còn thế gian này có tốt hơn, chúng ta cũng không nên lưu luyến, vì thời gian quá ngắn, không thể hưởng thụ lâu. Cho dù thọ mạng của chúng ta dài, sống trên trăm tuổi cũng chẳng hưởng thụ được bao nhiêu. Thật không đáng, nghĩ lại vẫn phải vãng sanh Thế Giới Cực Lạc. Cho nên tất cả thọ dụng, danh vọng lợi dưỡng, tất cả oai thế quyền lực thảy đều xả bỏ mà xuất gia. Nói như vậy không có nghĩa là bảo mọi người đều xuất gia. Nếu bạn nhìn văn giải nghĩa thì ba đời chư Phật hàm oan. Phật thị hiện hình dáng xuất gia là khải thị cho chúng ta để chúng ta ở nơi đây giác ngộ phải “xuất gia”.

Ý nghĩa của xuất gia là đối với gia nghiệp không có chút lưu luyến nào. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là đại chướng ngại. Nếu bạn không có phân biệt, chấp trước thì cái nhà đó có hay không không hề khác nhau, vậy thì không chướng ngại. Cho nên Phật nói đến xuất gia có bốn loại. Bốn loại này đều là nói đối với người học Phật, không nói người không học Phật.

Loại thứ nhất, “Thân xuất, tâm không xuất”

Người xuất gia hiện tại, thân đã xuất nhưng lòng vẫn còn danh vọng lợi dưỡng, vẫn tham sân si mạn. Tuy tướng của người xuất gia nhưng những việc làm vẫn là sự nghiệp của người tại gia. Vốn dĩ cái nhà không lớn, cha mẹ anh chị em không đông, vừa xuất gia thì làm chùa to. Ra khỏi nhà nhỏ liền bước vào nhà lớn, phiền não liền lớn. Nhà nhỏ tạo nghiệp nhỏ, nhà lớn tạo nghiệp lớn. Người xưa mới nói “Trước cửa địa ngục tăng đạo nhiều”. Ai đọa địa ngục? Thân xuất gia nhưng tâm không xuất gia, gần như không thể vượt qua địa ngục. Việc này chúng ta phải hiểu.

Xuất gia phải thật giống Phật Thích Ca Mâu Ni, thân tâm thế giới tất cả buông bỏ, toàn tâm toàn lựcPhật pháp, vì chúng sanh, đó là công đức vô lượng. Báo của tội phước ở ngay khoảng một niệm, không thể không đề cao cảnh giác.

Loại thứ hai, “Thân không xuất gia, tâm xuất gia”

Các cư sĩ tại gia học Phật, tuy thân ở nhà nhưng tâm xuất gia. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên tâm xuất gia mà thân không xuất gia, họ không tạo nghiệp. Thực tế người tại gia học Phật thành tựu nhiều, vãng sanh tướng lạ hi hữu. Những năm gần đây, chúng ta cũng đã xem thấy hay nghe thấy: đứng mà đi, ngồi mà đi, đều là đồng tu tại gia, nhất là nữ chúng. Nam chúng tương đối ít, còn xuất gia thì chưa hề nghe nói qua dù chỉ một người. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ từng rất cảm khái mà nói, thời xưa tu hành thành tựu, thứ tự là nam chúng xuất gia thành tựu nhiều nhất; thứ hai nữ chúng xuất gia, thứ ba là nam chúng tại gia, thứ tư là nữ chúng tại gia. Hiện tại thảy đều điên đảo, số người nhiều thành tựu nhất lại là nữ chúng tại gia, kế đến là nam chúng tại gia, kế đến nữa là nữ chúng xuất gia, rất e ngại là nam chúng xuất gia. Hiện tại đảo ngược, chúng ta không thể không cảnh giác. Chân tướng sự thật như vậy không thể phủ nhận, cho nên ý nghĩa của xuất gia phải hiểu.

Loại thứ ba, “Thân tâm đều xuất”

Đó là người xuất gia tốt, thân xuất gia tâm cũng xuất gia, Phật pháp gọi là “đệ tử chân thật của Phật”, có thể gánh vác việc hoằng pháp lợi sanh, kế tục huệ mạng Phật, kế tục gia nghiệp Như Lai.

Loại thứ tư “thân tâm đều không xuất”

Cư sĩ tại gia thân không xuất, tâm cũng không xuất. Tuy học Phật, nhưng việc học Phật chỉ là việc phụ, chủ yếu lo danh vọng lợi dưỡng thế gian. Đại khái 99% lo thế gian pháp, chỉ lo Phật pháp khoảng 1% cũng là rất tốt.

Phật ở ngay bốn loại này thị hiện nhắc nhở chúng ta. Các đồng tu tại gia, tâm phải xuất dù thân không xuất. Trong bất cứ nghề nghiệp nào, ở bất cứ công việc nào, các vị đều phải thị hiện thành chánh giác. Bạn biểu diễn ở trong nghề nghiệp này, bạn là mô phạm tốt nhất, trải qua đời sống của Bồ Tát. Phàm hễ nếu tâm xuất gia, cái tâm đó nhất định phải thông minh hơn người, nhất địnhtrí tuệ hơn người. Nếu bạn buôn bán sẽ kiếm rất nhiều tiền. Thế nhưng Bồ Tát kiếm được tiền không phải dùng cho chính mình mà để giúp đỡ chúng sanh khổ nạn trong xã hội, đó là một tấm gương tốt nhất cho người có tiền có thế lực xem, để ảnh hưởng họ, giáo hoá họ. Hy vọng người phú quý đều quan tâm đến lợi ích của cả xã hội, xã hội này liền an lành, không bị bất cứ ai làm loạn. Được như thế, chính chúng ta cũng trải qua ngày tháng tốt đẹp, xã hội sẽ vĩnh viễn an định hòa thuận, hợp tác lẫn nhau.

Khi hiểu được ý nghĩa của xuất gia, chúng ta sẽ biết nên làm thế nào tu học. Thực tế mà nói, chân thật phát tâm cạo tóc xuất gia không phải dễ, ngược lại rất khó khăn. Bạn phải chân thật hiểu Phật pháp. Bạn nghĩ mình có thể gánh vác công việc hoằng pháp lợi sanh kế tục huệ mạng Phật hay không. Trách nhiệm này rất lớn. Nếu bạn nói “Tôi niệm Phật cầu vãng sanh”, vậy thì không cần phải cạo đầu. Bạn ở tại gia niệm Phật cũng vãng sanh thượng thượng phẩm. Còn thị hiện dáng vẻ như vậy mà làm không đúng pháp, bại hoại Phật môn thì tội nghiệp của bạn sẽ nặng, vì sao? Vì bạn phá hoại hình tượng của Phật. Phật là thầy của trời người, khởi tâm động niệm của Phật, lời nói việc làm đều là tấm gương tốt nhất cho chúng sanh chín pháp giới. Bạn làm tấm gương xấu cho người thì bạn đang diệt Phật pháp, không phải hưng Phật pháp. Trong tâm còn có tham lam, sân hận, ngu si, không giữ giới luật, không giữ pháp, còn phóng túng, vậy sao được! Cho nên mặc vào tấm y này phải mỗi giờ mỗi lúc nghĩ đến Phật. Ngày ngày nhìn Phật tượng, ngày ngày mở quyển kinh ra đọc phải nghĩ lại xem ta có giống Phật hay không? Nếu không giống Phật là đã đánh dấu trong địa ngục, còn có thể trốn được sao.

Cầu sanh tịnh độ, tâm ta đối chiếu cùng với tâm của Phật A Di Đà. Tâm của Phật A Di ĐàBốn mươi tám nguyện, ta xem nguyện nào cùng với tâm mình tương ưng. Đọc Bốn mươi tám nguyện thấy tâm mình không tương ưng dù chỉ một điều, như vậy làm sao có thể vãng sanh. Đó chính là người xưa thường nói: “đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Nguyện thứ nhất của Phật A Di Đà, mọi người đều rất rõ ràng, “nước không ác đạo”. Thế Giới Tây Phương Cực Lạc không có đường ác, chúng ta đọc nguyện này có cảm tưởng thế nào? Ba đường ác là quả, tham sân si mạn là nhân. Nước không ác đạo là quả, chính là không có cái nhân của ác đạo. Hay nói cách khác, chúng ta đọc cái nguyện này phải nghĩ rằng, tham sân si mạn không đoạn không thể được. Nếu bạn không đoạn thì không tương ưng với nguyện thứ nhất của Phật A Di Đà. Chúng ta không thể nói đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc mới đoạn, mà phải đoạn ngay hiện tại, không thể có lòng tham dù một chút.

Buổi trưa hôm nay ở Hồng Các, đoàn thể của cư sĩ Thừa Mông Giám cúng trai, chúng tôitham gia. Khi đi ông tặng tôi một cái túi, trong túi toàn là bao đỏ, tôi không biết bao nhiêu tiền. Tôi giao cho Ngộ Hoằng, ông nói, người xuất gia quá nhiều, ông không thể phát từng người một; trong khi mỗi tín chủ cúng dường số lượng không như nhau. Tôi liền thay các vị xử phân. Người xuất gia không nên có tâm tham, tôi đem toàn bộ số tiền này giao cho cư sĩ Lý Mộc Nguyên cúng dường đạo tràng. Trong túi có tiền là họa hại, không phải việc tốt. Chúng ta phải làm đến được, nói được phải làm được, chân thật buông bỏ. Thân xuất gia này tuy từ trước không tường tận đối với Phật giáo, mơ mơ hồ hồ đi xuất gia, nhưng sau khi xuất gia cố gắng học tập, từ mơ mơ hồ hồ biến thành một chánh giác xuất gia, cũng là việc tốt. Nhân duyên cá nhân không giống nhau, nhưng kết quả về sau hy vọng giống nhau.

“KHỔ HẠNH HỌC ĐẠO”

Đời sống khổ một chút là tốt. Phật dạy chúng talấy khổ làm thầy”. Thường hay chịu đời sống khổ cực thì dễ dàng có tính đề cao cảnh giác, còn đời sống quá thoải mái sẽ bị đọa lạc. Cư sĩ Lý rất quan tâm đối với tôi, tôi cũng rất cảm tạ ông. Ông nói, lão pháp sư của Trung Quốc đại lục được người chăm sóc rất nhiều, ông xem thấy tôi khổ vì không có người chăm sóc. Khổ một chút cũng được, vì nhờ vậy mà tính cảnh giác của tôi tương đối cao. Ông muốn tìm một số người đến chăm sóc tôi. Tôi cảm tạ và từ chối, vì sợ rằng khi có nhiều người chăm sóc, tôi liền sẽ đọa lạc. Tác oai tác phước, vậy không được.

Thầy của tôi đã làm một tấm gương tốt cho tôi xem. Tôi nhận thân giáo của ông rất sâu. Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam đến năm chín mươi lăm tuổi vẫn một mình trải qua ngày tháng không có người hầu hạ, giặt quần áo, nấu cơm. Ông vẫn tự tay làm. Sau chín mươi lăm tuổi, ông mới chịu nhận học trò chăm sóc. Đến năm chín mươi bảy tuổi vãng sanh. Không có người chăm sóc sẽ tốt hơn, điều đó giúp thân thể ta khoẻ mạnh. Nếu có người chăm sóc, đi đâu cũng cần phải có hai người dìu đỡ, thật phiền phức, thật đáng thương. Cho nên tôi cảm ơn tấm lòng của cư sĩ Lý Mộc Nguyên, nhưng không nên tìm người hầu tôi thì hơn, để sức khoẻ của tôi được tốt.

Khổ hạnh đối với thân tâm mình đều có sự giúp đỡ, trước nhất là thân thể nhất định khoẻ mạnh. Cho nên người thế gian có phước mà không thấy thật phước báu. Họ cho rất nhiều người hầu hạ họ, dần dần thể lực của họ kém xa so với lão nông phu dưới quê. Những lão nông dưới quê có thể sống đến tám chín mươi tuổi mà không có người chăm sóc. Chính mình nhất định phải làm mà sống, không làm không thể sống được.

Các vị phải biết, ở tuổi trung niên trở lên thì cái gì là chân thật. Khoẻ mạnh là thật, thứ khác là giả. Thân thể khoẻ mạnh mới là phước báu chân thật. Giả như rất giàu có nhưng thân thể không khỏe, nằm trên gường bệnh, được ba hộ lý đến chăm sóc; loại phước đó, tôi cảm thấy không ý nghĩa gì, không bằng người có thân thể khỏe mạnh như chúng ta, đi đến mọi nơi thoải mái, đời sống hoạt bát.

Thế gian này bao gồm tất cả hiện tượng, chúng ta phải tỉ mỉ quan sát, phải hưởng thụ phước báu chân thật. Khổ hạnh có thể đột phá được mê hoặc chướng nạn, do đó không cầu hưởng thụ. Có phước để tất cả chúng sanh cùng hưởng. Thế gian còn rất nhiều người khổ nạn, chúng ta làm thế nào giúp đỡ họ. Giúp đỡ cũng phải tùy duyên phận, có duyên nhất định phải giúp. Không có duyên thì trong lòng thường hay nghĩ đến, thường phải nhớ lấy. Chỉ có khổ hạnh mới có thể đột phá chướng nạn.

Học đạo”. Học là học tập, sau khi học phải làm cho được. Đạo là hiểu thực tướng các pháp, đối với chân tướng của vũ trụ nhân sanh, chân thật giác ngộ, chân thật hiểu rõ, đó là đạo. Từ bất cứ sự việc nào đều có thể giác ngộ, từ bất cứ pháp nào cũng đều có thể giác ngộ. Cho nên Phật nói pháp vô lượng pháp môn, lại nói “pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”. Mỗi môn đều có thể khế nhập, đều khiến cho người giác ngộ. Tất cả chúng sanh căn tánh không đồng nhau, duyên phận không đồng nhau, không định vào lúc nào gặp được nhân vật như thế nào, nhưng bỗng nhiên giác ngộ. Sự thật này chúng ta thấy rất nhiều trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Người xuất gia khai ngộ minh tâm kiến tánh, người tại gia khai ngộ minh tâm kiến tánh cũng không ít, việc này chúng ta phải hiểu.

“TÁC TƯ THỊ HIỆN, THUẬN THẾ GIAN CỐ”

Đó là nói ý nghĩa của thị hiện. Phật Thích Ca Mâu Ni trên kinh Pháp Hoa nói lời thành thật, ngài đã thành Phật từ kiếp lâu xa. Kinh Phạm Võng nói, lần này ngài đến thế gian thị hiện làm Phật, thị hiện tám tướng thành đạo là lần thứ 8000. Không tínhthế giới phương khác, chỉ riêng đến cõi này là lần thứ 8000. Thế mà dường như phàm phu không hiểu biết gì. Ngài làm thái tử ra ngoài du ngoạn, xem thấy tất cả người vật trong xã hội, xem thấy sanh, lão, bệnh, tử, liền xúc động tâm tu hành. Ngài giả làm như vậy, đều là diễn kịch cho chúng ta xem. Chúng ta ngày ngày xem thấy sanh, lão, bệnh, tử, không hề cảm xúc, bất tri bất giác liền đến trên thân chúng ta. Khi chính mình bị lão bệnh tử đến, hối hận không còn kịp. Ngạn ngữ nói “Người không lo xa, ắt có họa gần”, ý nghĩa của câu nói này rất sâu.

Bạn có nghĩ đến lúc bạn già hay không? có nghĩ đến lúc bạn bệnh hay không?, có nghĩ đến lúc bạn chết hay không? Bạn có nghĩ đến đời sau hay không? Nếu con người biết nghĩ đến việc này mới gọi là lo xa. Chúng ta phải làm thế nào mới có cách nghĩ chính xác? Nếu chúng ta được dạy, ngay trong một đời này không già, không bệnh, không chết, đó gọi là chánh tri chánh kiến. Không nên cho rằng tương lai chúng ta sẽ già, cần phải chuẩn bị một ít tiền, nghĩ ra vài cách để dưỡng già; tương lai phải có bệnh nên cần phải có một khoản tiền để làm phí thuốc thang; còn khi chết phải mai táng như thế nào. Nếu bạn có cách nghĩ như vậy, đó không phải là nghĩ xa lo gần, hoàn toàn sai rồi. Hiện tại bạn chưa già, nhưng bạn đã chuẩn bị già thì bạn sẽ già rất nhanh; hiện tại bạn không bệnh nhưng bạn đã chuẩn bị phí thuốc thang chờ bị bệnh thì bạn làm sao không bệnh chứ? Thậm chí tương lai khi chết, còn phải tìm một nơi phong thuỷ tốt thì bạn sẽ chết rất nhanh.

Chân thật nghĩ đến tương lai là phải mau tu học đại thừa. Phật pháp đại thừa kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta làm thế nào không già, làm thế nào không bệnh, và làm thế nào không chết. Phật pháp đích thực vì chúng ta giải quyết ba vấn đề lớn này một cách cứu cánh viên mãn. Vãng sanh Thế Giới Tây Phương Cực Lạc không phải chết, đó là sống mà ra đi.

Trong những năm gần đây, ở Singapore và Malaysia, người niệm Phật vãng sanh không ít. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên đưa rất nhiều người vãng sanh. E rằng không ai so được với ông, ông tiễn vãng sanh, chính mắt xem thấy hiện tượng, tướng lạ vãng sanh, sống mà ra đi, không phải chết rồi mới ra đi. Họ ra đi thấy Phật A Di Đà đến tiếp dẫn, họ còn nói với người hai bên: “Phật đến rồi, tôi theo ngài đi đây”. Họ đi theo Phật, không cần túi da này nữa. Trước là buông bỏ tất cả thân tâm thế giới, đến sau cùng cái túi da này cũng phải buông bỏ, theo Phật A Di Đà đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc hóa sanh trong hoa sen. Thân tướng đó là thân kim cang bất hoại, kinh nói “đều là thân sắc vàng tử ma”, tướng mạo đẹp như Phật A Di Đà, không chỉ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp.

Vì sao họ đi được như vậy? bởi vì họ có thể buông bỏ. Họ buông bỏ lúc nào? Ngay hiện tại buông bỏ, không đợi đến lúc lâm chung mới buông. Bởi vì hiện tại đã buông bỏ cho nên bạn sẽ không già, sẽ không bệnh. Mộc Nguyên hảo tâm muốn tìm mấy người đến chăm sóc cho tôi, cho rằng tôi già rồi, nhưng tôi không cần. Học Phật phải hiểu được đạo lý của Phật pháp, đó là chân lý, cho nên làm ra loại thị hiện này, thuận theo nhân tình của thế gian, sau đó mới có thể khiến người thế gian giác ngộ. Tuy kinh văn chỉ có bốn câu mười hai chữ, nhưng quá trình Phật xuất gia tu hành học đạo đều được hình dung tương đối viên mãn, mỗi câu mỗi chữ đều hàm nhiếp vô lượng nghĩa.

“DĨ ĐỊNH HUỆ LỰC, HÀNG PHỤC MA OÁN”

Hàng ma” là tướng thứ năm trong tám tướng. “định huệ lực, hàng phục ma oán”, hai câu nói này vô cùng quan trọng, liên hệ đến cả đời tu học thành bại của chúng ta. “Ma” “Oán”, trong tất cả nghiệp chướng, hai loại lớn này rất phiền phức. “Ma” là dày vò, nên gọi là ma vương. Vào thời xưa dịch kinh, ma là một sự dày vò. Dưới chữ ma có bộ thạch, là sư dày vò. Đem bộ thạch bỏ đi đổi thành bộ quỷ. Chữ này do Lương Võ Đế phát minh. Lương Võ Đế nói dày vò quá khổ, còn đáng sợ hơn quỷ, cho nên đổi thành quỷ. Đem bộ thạch đổi thành bộ quỷ, đó là ma quỷ.

Qan” là oan gia, nên gọi là báo oan, đòi nợ, trả nợ. Loại oan gia này gọi là oan gia trái chủ. Kinh Phật nói, mười thiện là bạn lành, mười ác là oan gia. Mười ác là gì? Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, thêu dệt, tham, sân, si, đó là oan gia của chúng ta. Khởi tâm động niệm của chúng ta nếu rơi vào trong mười điều này thì oan gia hiện tiền, dạy chúng ta tạo nghiệp. Cho nên Phật giảng mười thiện là bạn lành, bạn cũ thân thiết nhất. Chúng ta phải thân cận thiện hữu tri thức

Ý nghĩa trong đây rất nhiều, oan gia không phải chỉ kết ở một đời một kiếp. Có oan gia nhiều đời nhiều kiếp. Nếu chúng ta muốn tu hành, những người này liền đến gây phiền phức, vì sao? họ phải đến báo thù, họ có một ý nguyện báo thù mãnh liệt, nên khiến chúng ta gặp phải chướng nạn nhất định, phá hoại chúng ta tu hành. Không nhất định dùng phương thức gì, chúng ta luôn luôn bị thiệt bị lừa. Yêu ma quỷ quái trong xã hội ngày nay có thể nói quá nhiều. Kinh Lăng Nghiêm nói “thời kỳ mạt pháp” chính là nói thời đại hiện tiền của chúng ta. Phật Thích Ca Mâu Ni dự ngôn từ ba ngàn năm trước: “tà sư nói pháp như cát sông Hằng”, nơi nơi đều có, nói những lời gần giống Phật pháp nhưng không phải, luôn làm bạn sanh phiền não, không được thanh tịnh.

Chúng ta làm thế nào phân biệt những ma oán? lấy đề kinh này làm tiêu chuẩn. Đề kinh nêu tổng cương lĩnh tu học có năm chữ “thanh tịnh, bình đẳng, giác”. Chúng ta tiếp xúc tất cả người sự vật, cảm thấy tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ, đó là chánh pháp. Ai nói tốt hơn, nhưng nếu phá hoại tâm thanh tịnh của chúng ta, phá hoại tâm bình đẳng, làm cho chúng ta mê hoặc điên đảo, thì pháp này chắc chắntà pháp, không phải chánh pháp. Phật ở chỗ này nói, phải “dùng lực định huệ, hàng phục ma oán”. Bạn có sức định, sức định chính là chính mình có chủ tể, không thể bị cảnh giới bên ngoài dao động. Sức huệ chính là bạn thấy rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo; bạn có năng lực phân biệt tà chánh, thiện ác. Do đó bạn ở cảnh giới bên ngoài mới không bị mê hoặc. Cảnh giới hiện tiền, chính mình như như bất động mới có thể hàng phục ma oán. Trên đạo Bồ Đề, ma chướng oan gia trái chủ quá đông. Bạn không có định huệ làm sao ngay một đời này thành tựu?

Chính tôi mỗi niệm cảm kích giáo huấn của thầy giáo. Không nhờ thầy giáo, chúng taphàm phu làm sao thành tựu. Cái thiện mà thầy giáo dạy, chúng ta có thể tuân thủ. Dù thầy giáo có khiêm tốn, không dám tự xưng mình là thầy, nhưng chúng ta làm học trò thì phải tôn trọng. Lão sư Lý lần đầu gặp mặt tôi, ông liền nói: “Năng lực của tôi chỉ có thể dạy ông năm năm”, lời nói rất khách sáo. Mục đích của ông là hy vọng tôi cố gắng nghe ông dạy bảo năm năm. Năm năm không rời khỏi ông, năm năm tuân thủ qui củ của ông, nghe một mình ông giảng kinh nói pháp, một môn thâm nhập. Cái gốc này sâu, cái được chính là định huệ. Sau đó, đối với tất cả người sự vật thay đổi, tôi quan sát đích thực là khác đi với trước. Ba tháng là đã thấy hiệu quả, chính mình liền thể hội được.

Ban đầu lão sư dặn bảo, chúng tôi cũng có chút miễn cưỡng, cảm thấy thái độ này của thầy giáo dường như quá ngạo mạn, quá tự đại, gần như thế gian này chỉ có mình ông, người khác đều không thể so sánh. Chúng ta không có trí tuệ nên không hài lòng. Cha mẹ ở nhà còn không dạy chúng ta chỉ được nghe một mình họ, ngoài ra không được nghe bất cứ người nào. Tất cả văn tự không được sự đồng ý của thầy cũng không được xem. Lại còn một việc nữa, những gì đã học từ trước, ông thảy đều không thừa nhận, một mực bài trừ, ông bắt phải học lại với ông từ đầu. Không còn lời gì để nói, chúng tôi cũng xem như vẫn có một chút thiện căn phước đức, đành thật chịu nghe lời, thật chịu tiếp nhận, y giáo phụng hành. Thế nhưng cứ như vậy mà làm qua ba tháng, chính mình liền phát hiện thật có chỗ tốt, đó là tâm thanh tịnh. Ba tháng không đi khắp nơi nghe. Bất cứ người nào nói chuyện đều không được nghe, bịt tai lại.

Giáo trình lão sư chỉ định rất có hạn. Ngoài số đó ra, thứ khác không được xem, đóng bít cái nhìn của bạn. Tất cả pháp không thấy không nghe, dần dần tâm liền định. Phương pháp này dạy chúng ta tu thiền định. Định có thể khai huệ. Chỉ ba tháng sau, nghe người khác nói chuyện, nhìn thấy mọi việc, chính mình cảm thấy thông minh hơn trước nhiều. Từ trước nghe nói không hiểu ý nghĩa, hiện tại thì hiểu được, liền có năng lực đoán ý qua lời nói. Sau sáu tháng thì rất rõ ràng. Cho nên tôi bội phục tận đáy lòng đối với lão sư, mới biết được phương pháp của lão sư rất cao minh, chưa từng được thấy qua, cũng chưa từng nghe nói, nên không biết phương pháp này tuyệt diệu như vậy.

Sau năm năm, tôi liền nói với thầy: “con xin giữ thêm năm năm nữa”. Lão sư yêu cầu tôi năm năm, tôi tuân thủ qui củ của ông mười năm. Sau mười năm, tôi giảng kinh mới thành thạo, tất cả đều trôi chảy. Gốc đã được cắm sâu như vậy, không giữ qui củ, tự cho mình thông minh thì nhất định thất bại. Đồng học thất bại rất nhiều. Học trò lão sư dạy có đến vài trăm người, chân thật có được chút thành tựu, nhưng hiện tại chỉ có ba người. Vậy làm thế nào thành tựu? Giữ qui củ, nghe lời, thành thật, bạn mới có thể thành tựu. Phàm tự cho mình là đúng, sau cùng đều thất bại. Cũng giảng kinh nhưng giảng mấy năm không tiến bộ, không dẫn khởi hứng thú của thính chúng. Thính chúng ngày càng ít thì duyên không còn nữa. Chính mình cũng không giảng nữa.

Khi tôi đến Đài Trung, nhiều đồng tu của chúng ta như vậy, mỗi mỗi đều giảng không tệ. Nhưng vì sao hiện tại, một người giảng kinh cũng không có? Họ mời tôi ăn cơm. Bạn học cũ còn khoảng năm sáu người, đều không giảng. Cho nên nếu không thể vâng giữ lời giáo huấn của lão sư, bạn không có sức định, không có hằng tâm, không có lòng nhẫn nại thì bạn làm sao có thành tựu? Đó là đại sự nghiệp.

Học Phật so với bất cứ sự nghiệp thế gian nào đều lớn. Sự nghiệp lớn nhất của thế gianxây dựng chính sách quốc gia, mở nước, xây dựng triều đại, xây dựng quốc gia, nhưng vẫn không thể sánh với Phật pháp. Phật phápsiêu việt ba cõi, siêu việt mười pháp giới, thành Phật làm tổ. Sự việc lớn như vậy, nếu bạn không đến tu học như lý như pháp, nghĩ chính mình sẽ làm cách gì đó. Không sai, bạn có thể nghĩ, nhưng biện pháp đó của bạn có hiệu quả không? Rất khó nói! Tổ sư đại đức truyền dạy phương pháp này từ mấy ngàn năm, đời đời truyền nối nhau, đều làm theo phương thức này mà thành tựu. Ngày nay chúng ta bỏ đi phương thức này, lại tìm ra một cách khác, thử xem có thành công hay không? Bạn đi thử nghiệm, nếu thử nghiệm thất bại thì thật đáng tiếc, vì bạn bỏ mất duyên của đời này. Còn bạn thử nghiệm thành công thì thật cừ khôi, lại có thêm một phương pháp thành công.

Chúng ta chính mình không phải là thượng căn lợi trí, đi theo đường cũ mới đáng tin. Chư Phật Như Lai thị hiệnthế gian vì sao phải dùng tám tướng thành đạo?, vì sao không tìm ra một qui củ khác, một hình thức khác? Vì sao giữ theo phương pháp cũ? Tám tướng thành đạo là thanh qui của tất cả chư Phật độ hoá chúng sanh. Chư Phật Như Lai xuất hiện thế gian đều giữ qui củ. Phật Thích Ca Mâu Ni giữ lấy qui củ của người xưa, qui củ của cổ Phật. Đại sư Thanh Lương trong “Hoa Nghiêm sớ sao” nói: Phật Thích Ca Mâu Ni có nói pháp cho chúng ta nghe không? Không. Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni nói đều là cổ Phật đã nói, “thuật nhi bất tác”. Hay nói cách khác, pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói trong bốn mươi chín năm, không có câu nào do ngài sáng tạo.

Những thị hiệntác tư thị hiện, thuận thế gian cố”, đều là khải phát chúng ta, dạy bảo chúng ta đi theo con đường của cổ thánh tiên hiền thì sẽ không sai. Không nên tự cho mình thông minh muốn làm mới. Khi làm mới, vấn đề liền xuất hiện, nhất là người mới học thì càng không nên. Dù lão tu hành cũng không thể làm mới. Cứ phương pháp nguyên lý nguyên tắc nhất định không thay đổi, còn hình thức có thể tùy theo thời đại mà thay đổi. Giống như giảng đường này của chúng ta. Chúng ta hiện đại hoá, nghi qui có thể được tiết chế bớt. Từ trước nghi qui đại tòa phải làm bốn mươi phút. Người hiện tại công việc bận rộn, làm sao có thể lãng phí thời gian bốn mươi phút. Cho nên hiện tại chúng ta giảng kinh giản hoá nghi qui, việc này thì được. Giảng đường của chúng ta hiện đại hoá, việc này không ảnh hưởng gì. Nếu từ trên lý luận, từ phương pháp lại chế ra một nghi qui mới, đó mới đặc biệt sai lầm.

Tóm lại, ở trên kinh luận, trên nguyên tắc, nhất định phải theo qui củ xưa của cổ thánh tiên hiền. Cư Sĩ Lâm muốn xây dựng niệm Phật đường, cư sĩ Mộc Nguyên thương lượng với tôi, niệm Phật đường chọn lấy qui củ xưa của Đại sư Ấn Quang, không thể sai. Chúng ta không nên làm gì mới. Chúng ta có làm thế nào cũng không thể hơn được người xưa. Nếu làm sai, nhân quả gánh vác không nổi. Do đó hoàn toàn mô phỏng theo nghi qui của Linh Nham Sơn. Nếu qui củ này có sai, đại sư Ấn Quang chịu trách nhiệm, chúng ta sẽ không sao vì đã có chỗ để đẩy trách nhiệm.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31305)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10452)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11141)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12624)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10735)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16471)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10740)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22766)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11913)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11417)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10585)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12251)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11099)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9938)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10240)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11794)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10614)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12257)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9706)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11178)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13749)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9508)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12526)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9610)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10342)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10435)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10210)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9801)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10982)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11934)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10078)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10696)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9462)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9817)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8697)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9419)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14436)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8704)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12453)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10329)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8982)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10473)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9237)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8710)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10419)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9070)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8289)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11926)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9631)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10146)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10167)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18969)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9336)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8912)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9493)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8931)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14658)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10021)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8272)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8820)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8883)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8664)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9257)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14452)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8959)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8674)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8963)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10439)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8547)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9913)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24143)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10082)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10947)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8912)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9384)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7938)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9178)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15240)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10249)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9476)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17280)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21216)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12066)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10156)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19099)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7904)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14664)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10554)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11267)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9438)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18486)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12260)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11795)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10611)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13244)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9899)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9193)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9299)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15725)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant