Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Giao thừa Ất Mùi khai bút chuyện con dê

19 Tháng Hai 201514:13(Xem: 11063)
Giao thừa Ất Mùi khai bút chuyện con dê
GIAO THỪA ẤT MÙI KHAI BÚT CHUYỆN CON DÊ

Thích Giác Nguyên

chuyện con dêDê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà. Do đó, dê có rất nhiều giai thoạitruyền thuyết. Trong 12 con giáp thì Dê là hàng địa chi thứ tám gọi là Mùi . Đặc biệt, trong văn học dân gian, hình ảnh con dê rất dễ thương, chúng sống khá đơn giản, chỉ cần cỏ non và lá xanh là có thể sống mãn nguyện, nhưng chúng không bao giờ được yên thân.

Dê rừng, dê núi cũng là đối tượng cho nhiều loài săn bắt. Khi dê được thuần chủng trở thành gia súc cho con người sử dụng hơn ba ngàn năm qua thì nó bị bốc lột sự sống không thương tiếc. Da thịt lông sừng không chừa bỏ. Nó lại là món ăn thích khẩu của con người. Dê cái khi sanh con bị vắt cạn sữa cho người tiêu thụ nên không đủ cho con bú làm khổ nhọc thân mình.

Con Dê trong văn học

Đặc biệt loài dê có thiên tính nhớ ơn mẹ còn tấm bé, khi dê con bú vú mẹ, nó liền lùi ra phía sau và quỳ hai chân trước xuống. Bởi vậy trong Tăng Quảng Hiền Văn, một tác phẩm giáo dục trẻ em từ đời nhà Minh đã nói:

羊 有 跪 乳 之 恩 , 鴉 有 反 哺 之 義 ,

Dương hữu qụy nhũ chi ân, Nha hữu phản bộ chi nghĩa,

你 及 他 未 及 ?

Nễ cập tha vị cập?

Con dê vì biết ơn của mẹ nên quỳ xuống mà bú. Con quạ có cái nghĩa là khi cha mẹ già thì nó đi kiếm mồi mớm cho cha mẹ ăn.

Ngoài ra, hai câu chót của bài Sấm Trạng Trình là:

Mã đề Dương cước anh hùng tận,

Thân Dậu niên lai kiến Thái bình!

Ẩn nghĩa hai câu này là:

 Con ngựa nó đá con dê, anh hùng tận mạt bốn bề lao đao

Thân Dậu năm tới xáo xào, Thái bình biển động sóng gào phong ba.

Nhưng không biết vào thời gian nào đích thực xảy ra trước cuộc cờ thế giới Á châu.

Dê cũng là hình thức châm biếm những kẻ cúi luồn nịnh nọt ngoại bang để cầu chút hư vinh:

Tài giỏi sá gì thân khuyển mã

Thà rằng ngồi tót vuốt râu dê.

Hoặc treo đầu dê bán thịt chó, ý nói là một chuyện, còn làm là chuyện khác. Không phải chỉ lừa miếng ăn mà nó lừa ta vào cõi u mê ám chướng mà ta không hay, bởi do nhẹ dạ cả tin mà ra vậy.

Trong tác phẩm Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều cũng có câu:

Phải duyên hương lửa cùng nhau,
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.

Con Dê trong sử sách:

Sau khi diệt Ngô và Thục, Tư Mã Ý lên ngôi, lập nên nhà Tấn. Truyền đến đời cháu nội là Tấn Võ Đế tên thật là Tư Mã Viêm (236-290), ở ngôi 35 năm. Võ Đế là ông vua hoang dâm khi vừa lên ngôi, ông bèn ra lệnh cho dân gian ngưng ngay việc cưới hỏi, rồi sai hoạn quan đến từng địa phương để tuyển gái đẹp đem về hậu cung lên đến 5 ngàn người. Vua tỏ ra vui mừng đến bối rối, không biết phải hưởng dụng như thế nào? May có một cận thần đưa ý kiến: Sắm cho vua một cỗ xe dê, vua nên ngồi trên xe do 2 con dê đực kéo đi vòng quanh hậu cung, hễ xe dê ngừng ở cửa cung nhân nào thì tối hôm đó vua sẽ ngự đến ăn tối và ở đêm lại với cung nhân đó. Nhà vua cho là ý kiến hay liền nghe theo, báo hại các cung nhân phải nhờ người tìm hái lá dâu rắc trước lối vào cửa nơi mình ở để mong rằng xe dê sẽ ngừng lại, vì dê thích ăn lá dâu.

Vào thời Tam Quốc, khi Tào Tháo đuổi bắt Tả Từ. Cùng đường, Tả Từ liền chạy thẳng vào đàn dê, rồi dùng phép thuật biến mình thành dê. Khi phụ tá của Tào Tháo cho kiểm lại số dê thấy thừa một con, biết có Tả Từ trong đó, liền bảo: "Tả từ cứ đầu hàng, ta không giết đâu mà sợ !" Bỗng một con dê trong đàn bước ra gật đầu, quỳ lạy. Phụ tá Tào Tháo xông vào định bắt sống, tức thời cả đàn dê liền quỳ xuống, khiến tên quan không phân biệt được con dê nào là hoá thân của Tả Từ nữa! Câu chuyện kết luận: Loài dê có đức độ hơn người, không phản trắc, không tố giác bạn bè". Sách nhà Hán còn kể chuyện Lý Thức mặc áo dài, đi giày cỏ, chăn dê hàng năm trời ở Thượng Lâm để lập chí.

Ngoài ra câu chuyệnca ngợi đức trung kiên của Tô Vũ. Khi bị giặc Hung nô đày ra Bắc Hải chăn một đàn dê đực, Hẹn khi nào dê đẻ thì cho về. Tô Vũ vẫn giữ tiết nghĩa của nhà Hán, thường hái lá rau, kiếm dế, bắt chuột nướng ăn để sống qua ngày, không hề nản lòng thoái chí.

Con dê trong Thánh kinh Thiên chúa giáo

Thánh kinh Cựu Ước Chúa phán như sau: “Nếu một đầu mục, một vị linh hướng trong giáo dân vô ý phạm đến các giới răn của Chúa một cách công khai, được người khác biết đến. Người đầu mục đó phải tiến một con dê đực còn non chưa nhảy cái dâng lên cho Chúa để làm lễ tạ tội. Con dê sẽ bị giết và vị tư tế dùng tay bôi máu con vật lên các góc của bàn thờ, số máu còn lại thì đổ xuống chân bàn thờ (Lv 4:22-26). Luật lệ này cũng được áp dụng lên toàn thể cộng đồng Do thái nếu họ vô ý không giữ mệnh lệnh của Chúa, thông qua luật Mô-sê. Khi toàn thể cộng đồng vô ý phạm phải một luật định của Mô-sê, thì toàn thể cộng đồng phải dâng một số con vật như đã kể ở trên, kể cả một con dê đực để làm lễ xá tội (Lv 9:15-17 & Ds 15:22-26). Nhưng ngược lại, nếu một thường dân vô ý vi phạm luật Mô-sê công khai, được người khác biết, thì người ấy sẽ tiến dâng một con dê cái để làm lễ xá tội (Ds 15:27)”. Công thứcnghi lễ thì cũng như trường hợp kể trên.

Trong ngày lễ này, cộng đồng Do thái đặc biệt tiến dâng hai con dê đực trước bàn thờ Chúa. Vị tư tế sẽ bắt thăm chọn giữa hai con: một thăm chọn một con cho Chúa, thăm còn lại sẽ chọn con dê cho A-da-dên (A-da-dên có nghĩa là scapegoat trong tiếng Anh, dịch là con dê gánh tội). Vị tư tế sẽ giết tế "con dê cho Chúa" làm lễ tạ tội cho toàn dân. Sau khi rảy máu con dê trên một cái nấp xá tội và làm một vài nghi thức thánh hiến bàn thờ, người ta dẫn "con dê cho A-da-dên" còn sống tới. Vị tư tế đặt hai tay lên đầu con dê này, rồi xưng thú trên nó tất cả lỗi lầm của toàn dân. Dĩ nhiên vị tư tế có cả một danh sách các giống tội gớm ghiếc mà cộng đồng hay phạm. Ông trút tất cả những tội lỗi đó lên mình "con dê gánh tội."

Sau khi xưng thú tội cộng đồng xong, vị tư tế sẽ nhờ một người phục dịch dẫn con dê này thả sâu vào sa mạc. Con dê này gánh mọi tội lỗi cộng đồng Do tháiđi lạc lõng trong sa mạc. Thức ăn của dê là cỏ tươi mà giữa một sa mạc khô cằn, không cỏ, không nước, lại có thú dữ ăn thịt như sư tử và chó sói quanh quẩn, thì số phận của "con dê gánh tội" thật là thảm não. Vì phải gánh tội cho cộng đồng mà nó giờ đây phải sống trong đói khátsợ hãi, và cuối cùng nó sẽ chết trong đau đớn, có khi là kiệt sứcđói khát, có khi bị phanh thây bởi một con sư tử hay một đàn sói dữ tợn. Phần người thả dê khi trở về phải làm những việc thanh tẩy để tránh sự uế tạp lây từ con dê đó. Anh ta phải giặt áo và tấm rửa kỷ lưỡng trước khi anh ta trở về với cộng đồng. Phần con dê bị sát tế để tạ tội thì xác của nó được đem ra ngoài trại xa mà đốt đi. Và luật lệ này được lưu truyền mãi trong dân Do thái trong suốt thời Cựu ước (Lv 16:1-34).

Con Dê trong Kinh điển Phật giáo

 

 

Vào thời Đức Phật, sự hiến tế sinh vật của Bà-la-môn giáo cũng rất thịnh hành và công việc tế lễ thượng đế, thần linhđặc quyền của giai cấp Bà la môn. Đức Phật đã tuyên ngôn: “Giới bất sát không khi nào giết; Sát bất nhơn mất biệt tiếng người”. Ngài đã cực lực phản đối những cuộc hiến tế như thế, Ngài cũng chủ xướng học thuyết duyên sinh vô ngã, bác bỏ niềm tin vào một đấng thượng đế quyền năng tối thượng.

Một thời thái tử đi về thành Vương Xá, giữa đường gặp một đoàn cừu bị dắt đưa về thành để vua Tần Bà Sa La làm lễ tế thần. Ngài đi thẳng đến bàn thờ, vừa gặp vua đang làm lễ và các vị giáo sĩ Bà La Môn đang sắp sửa giết một con cừu để cúng các vị hung thần. Thái tử tự thân đến cởi trói cho con vật khỏi nạn và giảng giải cho mọi người nghe rằng : - Ai cũng tham sống, thế mà ai cũng thích giết hại. Ai cũng muốn tạo ra sự sống. Ngài nói tiếp: - Dẫu muôn loài có khác nhau, nhưng sự sống chỉ là một. Ngài dạy tiếp: Sau khi giết chết chúng sinh, có người sẽ đầu thai làm thú vật, và có nhiều thú vật sẽ tái sanh làm người. Người và thú lẫn lộn, lúc làm người, lúc làm thú, vì thế chúng cùng một dây liên lạc như anh em. Không thể lấy máu của thú vật rửa tội cho mình hoặc xin các vị thiên thần tha tội là một việc vô ích. Nếu các vị ấy đều thiện thì các vị sẽ không tha thứ cho một việc làm ác như thế. Nếu các người làm ác, thì dầu có giết bao nhiêu thú vật đi nữa để cúng, các người cũng không hết ác được. Nhưng dù thiện dù ác, các vị đó cũng không thể tha tội cho ai. Nhân nào thì quả nấy, không ai sửa đổi luật nhơn quả.Tội của người nào thì người ấy phải chịu, không ai có thể vượt qua. Càng giết hại nhiều lại càng mang lắm tai ương họa hoạn cho cuộc sống hôm nay.

Nhờ sự cảm hóa của Phật giáo biết bao người buông đao thành Phật, thành Bồ tát

Thậm chí kẻ hàng thịt cũng đốn ngộ tỉnh thức:

Tạc nhật Dạ-xoa tâm

Kim triêu Bồ tát diện,

Bồ tát dữ Dạ-xoa

Bất cách nhứt điều tuyến

Tạm dịch:

Hôm qua tâm Dạ-xoa,

Ngày nay mặt Bồ tát.

Bồ tát cùng Dạ-xoa

Cách nhau đường tơ tóc
Chính vì vậy, vua Tần Bà Sa La sai khắc trong đá và chạm vào gỗ chỉ dụ: “Từ xưa đến nay, chúng ta đã phạm một tội lớn là giết súc vật để tế thần và để ăn thịt. Nhưng bắt đầu từ ngày nay, trong dân gian không được ai làm đổ máu một con vật nào, vì chúng sanh cùng chung một sự sống. Và nên nhớ rằng những điều lành sẽ dành riêng cho những kẻ hiền lương”.

Thời Phật còn tại thế, Kutadanta là một vị Bà La Môn làu thông kinh điển Phệ Đà, có rất nhiều đệ tửtín đồ. Ông được vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) sùng kính và nhà vua đã hiến cúng cho ông ta ngôi làng Khanumata trong nước Ma Kiệt Đà. Ngày nọ, đức Phật đến hóa duyên tại làng này. Lúc ấy, Kutadanta đang chuẩn bị giết các thú vật gồm một số lớn bò đực, bò cái, cừu con và dê để tế thần. Khi hay tin đức Phật ngự ở tại vườn xoài trong làng mình, Kutadanta muốn đến yết kiến để thỉnh vấn Ngài về phương thức tế lễ thế nào cho có hiệu quả tốt.

Các đệ tử của Kutadanta cố gắng khuyên ông đừng đi, nhưng ông đã nói cho họ biết đức Phật là một đấng Giác Ngộ vĩ đại, và sau cùng ông đã thuyết phục được họ cùng đi đến viếng thăm đức Thế tôn. Đức Phật giảng cho Kutadanta và các đồ đệ của ông nghe kinh Kutadanta (thuộc Trường Bộ Kinh) nhằm giải thích cho Kutadanta hiểu rõ lợi ích của đời sống tu hành. Ngài bèn kể một câu chuyện Dê Cứu Thầy Tu như sau:

Thuở xưa, có một bà-la-môn rất nổi tiếng trong tôn giáo Ấn Độ. Ông quyết định đó là ngày thực hiện các nghi lễ hiến tế một con dê. Mà theo ông nghĩ đây là một buổi lễ tế theo yêu cầu đấng thần linh của mình. Ông đã lấy một con dê thích hợp cho việc tế sinh, rồi ra lệnh cho đệ tử của mình đem con dê ra sông Hằng và tắm rửa cho nó sạch sẽ và đeo vào cổ nó một vòng hoa. Sau đó, họ cũng tắm rửa như là một phần của việc thực hành tịnh hóa.

Khi xuống ở bên bờ sông, dê đột nhiên hiểu rằng hôm nay mình chắc chắn sẽ bị giết và đây là lần trả nghiệp cuối cùng rồi sẽ được tái sinh. Nó biết được các kết quả của những hành động bất thiện trong quá khứ của nó tạo ra được trả quả dứt điểm trong đời sống kiếp dê cuối cùng này. Vì vậy, nó cười vang một cách náo nhiệt.

Ở giữa tiếng cười của nó, nó nhận ra một sự thật khác - đó là vị đạo sĩ đã thực hiện cuộc hiến tế bằng giết nó, để rồi người đạo sĩ ấy  sẽ phải chịu những hậu quả kinh khủng do sự thiếu hiểu biết của mình. Vì vậy, dê bắt đầu khóc to như là vừa cười!

Các người đệ tử tắm trong giòng sông Hằng rất lấy làm ngạc nhiên khi đầu tiên nghe tiếng dê cười và bây giờ lại khóc. Vì vậy họ hỏi con dê: "Tại sao khi nảy ngươi lớn tiếng cười vang rồi bây giờ lại đổi sang tiếng khóc thảm thiết?” Dê liền trả lời: "Tôi sẽ cho bạn biết lý do nhưng phải có mặt ông thầy của bạn, đạo sĩ Bà-la-môn mới được."

Vì họ muốn biết sự thật, ngay lập tức đẫn con dê tế thần đến cho vị đạo sĩ bà-la-môn. Họ giải thích tất cả những gì việc con dê đã làm. Đạo sĩ cũng trở nên rất tò mò. Ông trân trọng hỏi dê: "Tại sao ngươi cười đã rồi lại lớn tiếng khóc?"

Con dê nhớ lại cuộc sống quá khứ của mình, nó nói: "Thuở xưa, tôi cũng là một tu sĩ Bà-la-môn, giống như bạn, được đào tạo trở thành một hành giả thực hiện các nghi thức hiến tế tôn giáo thiêng liêng. Tôi tự nghĩ ra rằng là nên phải hy sinh một số dê theo sự mặc khải cần thiết của thần, sẽ mang lại  lợi ích cho người khác, cũng như bản thân mình trong sự tái sinh ở tương lai. Tuy nhiên, kết quả thực sự của hành động của tôi là số dê bị tôi giết lên đến 500 con. Do đó tôi phải chịu trả quả báo trong 499 kiếp sống bị chặt đầu. Lần này tôi nhận ra rằng hôm nay tôi chắc chắn sẽ bị mất đầu của tôi lần thứ 500. Như vậy tôi đã hoàn tất cuộc trả quả báo do những hành động bất thiện của tôi từ bao đời trước. Niềm vui này làm cho tôi cười thoải mái không thể dừng được. Sau đó, tôi chợt nhận ra rằng  bạn là người đạo sĩ cũng giống như tôi trước đây, đã có những hành động sát sanh bất thiện và sẽ phải chịu một quả báo tương tự bị chém đầu như tôi trong 500 kiếp sau của bạn! Vì vậy, lòng từ bi và cảm thông, tiếng cười mãn nguyện của tôi quay lại là những giọt nước mắt thảm thiết để khóc cho bạn. "

Đạo sĩ Bà-la-môn nghe qua liền rún sợ cho là lời nói của dê có thể đúng sự thật, ông ta bèn bảo, "Vâng, này ông dê, ta sẽ không giết ông nữa." Dê trả lời, "Thưa đạo sĩ, dù bạn không giết tôi, tôi biết rằng hôm nay tôi cũng sẽ bị mất đầu vì lý do khác, để hoàn tất sự trả quả cuối cùng qua những hành động bất thiện trong quá khứ của tôi."

Đạo sĩ nói, "Đừng sợ, Tôi sẽ tìm mọi cách bảo vệ tốt nhất không cho sự xâm hại nào sẽ đến với bạn."  Dê đáp, "Ô này ông bạn Đạo sĩ , dù bạn có bảo vệ cho tôi bằng cách nào đi nữa, hay dẫu tôi có chạy trốn bất cứ nơi đâu cũng không thoát khỏi nghiệp báo của mình.

Vì vậy, Đạo sĩ Bà-la-môn hủy lễ tế sinh và bắt đầu từ bỏ việc giết các động vật vô tội để hiến tế thần linh. Ông ra lệnh cho những đệ tử của mình chú tâm bảo vệ con dê mà ông vừa tha tội chết. Con dê được thả ra và tung tăng chạy lên sườn núi có nhiều đá để gặm một số lá non trên cành, nó trườn cổ của mình để tiếp cận cắn bứt. Thình lình mây đen u ám kéo đến và một tia sét kinh hoàng đánh trúng một tảng đá trên sườn núi, cắt một phiến đá sắc nét, văng chém ngay vào đầu chú dê khiến chết ngay lập tức. Sau đó mây tan và dông tố cũng qua đi.  Ôi, lưới trời cao lồng lộng tuy thưa nhưng khó lọt!

Ngày xưa Thái tử Tất Đạt Đa trên đường tầm đạo, ngài đã trải qua sáu năm quá ư khổ hạnh, thân thể ốm gầy còn da bọc xương, sức cùng lực tậm, Một hôm ngài lần bước xuống bờ sông để tắm gội nhưng giữa đường Ngài ngã xuống đất bất tỉnh. Khi ấy  có một cô gái chăn dê tên là Su- dà-ta (Sujàta) thấy thế liền mang bịch sữa dê  nấu thành đề hồ đổ vào miệng Ngài. Sau khi sữa thắm vào cổ họng, Ngài dần dần hồi phục được sức khỏe nhận ra ép xác là sự sai lầm, bèn nỗ lực tham thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm, cuối cùng khi sao mai vừa mọc thì hốt nhiên đại ngộ. Ngài  chứng được Tam minh thành tựu Chánh đẳng Chánh giác hiệu là Phật Thích ca Mâu ni. Ngài giảng thuyết Kinh Pháp Hoa, đưa ra thí dụ Giáo lý của ngài có ba trình độ, như có ba cỗ xe. Xe trâu tượng trưngĐại thừa chở được nhiều người. Xe hưu là Trung thừa chở vài ba người. Xe dê là tiểu thừa chỉ chở được một người tùy sở thích của mỗi chúng sanh.

Tóm lại, nhân loại của thế kỷ 21 này, đã hấp thụ một nền văn minh khoa học khá cao, con người đã phóng phi thuyền lên không gian, lên mặt trăng và dự kiến di cư lên sao hỏa, vậy mà tại thế gian này vẫn còn bao điều ngốc nghếch vô minh, vẫn còn duy trì những hành động dã man như cảnh chém lợn, chặt hàng ngàn đầu con trâu gọi là Lễ hội.

Nói đến Lễ là phải tôn nghiêm, tôn kính, thanh cao, đẹp đẽ minh triết, đậm nét nhân văn, thắm đượm tình người, hiếu sinh hơn là hiếu sát, đáng để đời sau noi gương học hỏi, chứ không phải cuồng sát trước cái chết vô tội vạ đáng được yêu thương tha thứ. Thử đặt mình vào cảnh ấy sẽ ra sao? Một chiếc gai đâm vào người, một viên sõi trong chiếc giày, một hạt bụi rơi vào mắt cũng đủ cho ta xốn xang đau buốt. Huống chi kẻ khủng bố ra tay hạ thủ lấy đi bao mạng sống không có tấc sắt trong tay và họ cũng không có khởi lòng thù hận. Như vậy có còn nhân tính chăng? Ôi chao! Thế giới này sẽ an vui biết mấy, nếu mọi người biết dừng tay nghĩ lại thì những cảnh thảm khốc manh động sẽ không còn nữa. Nếu nhân loại biết thương yêu đến loài vật mà không nỡ tâm giết chúng để cúng tế và ăn thịt. Nếu nhân loại chỉ tự nuôi sống với rau củ hoa trái thì cõi nhân hoàng này sẽ là thiên đường tại thế, anh em bốn biển một nhà, vạn loại chúng sanh đại đồng một thể. Mong thay!

Soạn viết xong 3 giờ sáng đêm Giao thừa

California, Xuân Ất Mùi 2015

Thích Giác Nguyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31186)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10420)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11111)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12576)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10711)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16424)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10713)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22702)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11862)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11371)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10562)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12221)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 9916)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10215)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11752)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10579)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12219)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9671)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11146)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13706)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9483)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12503)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9587)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10306)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10391)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10173)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9774)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10944)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11912)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10055)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10676)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9438)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9797)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8657)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9388)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14402)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8679)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12421)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10301)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8943)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10454)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9210)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8667)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10382)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9026)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8264)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11880)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9610)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10117)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10139)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18929)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9303)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8894)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9470)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8901)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14624)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 9997)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8244)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8798)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8866)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8625)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9218)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14422)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8929)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8634)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8946)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10402)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8514)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9883)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24079)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10051)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10906)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8885)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9367)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7921)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9148)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15190)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10215)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9456)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17229)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21139)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12034)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10129)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19019)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25782)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7877)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14596)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10538)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11240)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9404)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18445)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12230)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11769)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10576)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13199)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9858)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9185)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9273)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15680)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25406)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant