Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trái bom chổng ngược

21 Tháng Tư 201506:17(Xem: 11497)
Trái bom chổng ngược

Trái bom chổng ngược

Mười lần như chục, hôm nào gặp bữa ăn trưa trong căng-tin có món xúc-xích là mấy người đồng nghiệp Đức của tôi hay nói đùa bằng một câu triết lý cà rởn rằng: trên đời này cái gì cũng có đầu có đuôi, có thủy có chung, duy chỉ cây xúc-xích là có hai đầu. Có ông nhạc sĩ người Đức Stephan Remmler còn viết ra một bài tình ca nổi tiếng theo tựa đề ấy là: Alles hat ein Ende nur die Wurst hat zwei. Câu nói vui, nói ra để cười với nhau. Xúc-xích là món ăn rất phổ biến của người Đức, to nhỏ đủ cỡ, có mặt mọi nơi, từ tiệm ăn tay cầm cho đến các món ăn nấu trong nhà hàng với nhiều gia vị khác nhau, với rau xanh, cải đỏ hay kèm bột cà ri, mù tạt v.v… Người Việt mình khi ăn thì thấy lạ nhưng hơi chán, ăm cho qua bữa. Nhưng thôi, hãy bỏ qua chuyện ăn uống, tôi chỉ xin mượn câu nói đùa ấy để nói rằng, một trái bom rơi xuống đất cũng có hai đầu giống hệt nhau (tôi dốt đặc chuyện vũ khí, chỉ nhìn thấy hình vỏ bom như thế). Mà đã gọi là có hai đầu quay ra hai hướng thì làm sao ai sao biết được hướng nào đi tới, hướng nào chạy lui, hướng nào công phá, hướng nào bình an!

Nếu được phép chọn lựa, tôi sẽ chọn hướng „thiện“ như quả chuông trong ngôi Chùa nghèo này đây.

Chuyện quả chuông lạ đời ở ngôi Chùa làng.

Một buổi sáng đẹp trời nọ, nhân duyên đưa chúng tôi bước vào sân Chùa Phước Ấm ở Bình Triều, Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Một ngôi chùa nghèo, khiêm tốn trong một làng quê cũng rất nghèo và khiêm tốn. Vì thế hôm ấy chúng tôiphối hợp cùng các bác sĩ của Tuệ Tĩnh Đường Chùa Pháp Lâm thành phố Đà Nẵng đến khám bệnh và tài trợ cấp phát thuốc miễn phí cho đồng bào nghèo ở đây. Phái đoàn thiện nguyện có khoảng 30 người, gồm 7 bác sĩ (1 vị từ Đức), 1 bác sĩ siêu âm, 2 đông y sĩ và những y tá, chuyên viên y dược cũng như quý Sư Cô Chùa Hương Sơn. Trong ngày hôm đó đoàn từ thiện đã khám bệnh và phát thuốc cho 497 con bệnh. Bạn nói rằng, chuyện cũng không có gì là đặc biệt, là lạ đời, vì hằng năm có bao nhiêu đoàn từ thiện làm công việc ấy. Bạn có lý, đúng là như thế! Hơn nữa ở đất nước Việt Nam chúng ta có hàng vạn những ngôi Chùa nghèo trong những làng quê nghèo như thế. Kể sao cho hết!

Bom_chuong_klCái lạ và gây ấn tượng mạnh trong chúng tôi khi bước vào sân Chùa Phước Ấm hôm ấy chính là quả chuông này đây: quả chuông Chùa làm bằng vỏ một trái bom.

Ta thử tưởng tượng, trái bom này có thể đã từng rơi xuống giữa vùng quê cằn cổi này, đã nổ tung dữ dội và khiếp đảm, rồi cũng đã từng có bao mạng người ngã xuống vì sức công phá của nó. Bây giờ thì nhiều nơi trên đất nước này người ta đang trưng bày những vỏ bom như vậy để nói về tội ác bên này bên kia, hay kể lể về chiến tranh, ấp ủ lòng thù hận. Nhưng ở đây, ở dưới mái chùa Phước Ấm chiếc vỏ bom này không tầm thường như thế. Nó đã biến thành một quả chuông ngự trị tại mái hiên Chùa, mỗi đêm gióng lên giữa tiếng ngân nga của chú tiểu độ khoảng mười tuổi, vọng theo lời kinh trầm bỗng của sư phụ chú là Thầy Trụ Trì Thích Bảo Ân. Mà Thầy Trụ Trì cũng còn rất trẻ, ước chừng chưa đến bốn mươi.

Thật thú vị biết chừng nào, giữa những tiếng chuông phát ra từ cái vỏ bom này được chen lẫn với giọng ngân nga ngây thơ của chú tiểu mười tuổi ấy (mà tôi chưa kịp hỏi tên) với những câu kệ chuông như:

Nghe chuông ngân, lòng nhẹ lâng / Trí huệ phát, Bồ Đề sanh
Lìa địa ngục, thoát hầm lửa / Nguyện thành Phật, độ chúng sanh

Tôi thật sự xúc động vì hai hình ảnh tuy trái ngược nhưng lại hỗ tương giữa hai đầu mối ý nghĩa của một sự vật kia – một quả bom cho chiến tranh và một cái vỏ bom cho những lời cầu nguyện hòa bình. Tôi thực sự thấm thía lời kinh: Khổ hải mang mang, hồi đầu thị ngạn – biển khổ mênh mông, nhưng nếu biết quay đầu lại thì sẽ thấy được bờ bến. Trái bom đã quay đầu biến thành quả chuông Chùa. Vậy sao con người chúng ta vẫn mãi đảo điên tạo ra chiến tranh sát hại lẫn nhau? Sao không biết quay đầu lại? Khi nào thì quay lại? Bến bờ ấy vẫn chờ ta.

Lúc này người ta đang nói nhiều về chiến tranh và hòa bình. Chiến tranh đang xảy ra liên miên tại khắp nơi trên trái đất. Chiến tranh đang bùng nổ dữ dội ở Jemen, ở Ukraine, ở Irak, ở Israel… Đó là chiến tranh có súng đạn vũ khí hẳn hòi. Chiến tranh cũng đang xảy ra ở mọi nơi, ở đường phố, ở công sở, ở trường học v.v… Đó là một loại chiến tranh mà ta không thấy vũ khí cầm tay, chỉ có bom đạn chôn kín trong lòng, cũng là một loại chiến tranh vô cùng nguy hiểm. Người ta hô hào trên báo chí, trên đường phố, trên truyền thông truyền hình chống chiến tranh. Người ta lên án chiến tranh nhưng trong lòng vẫn đầy rẫy nghi kỵhận thù. Xin hãy đừng như thế! Chiếc chuông ở ngôi Chùa quê và nghèo này chở theo một thông điệp lớn, nó muốn nói với chúng ta rằng: xin hãy thôi đừng chống chiến tranh, xin hãy gạt qua một bên chuyện hận thù và hãy xin hết lòng cổ vũ cho hòa bình. Đừng phí sức đi đả đảo chiến tranh mà hãy hết lòng hoan hô hòa bình. Hòa bình trong từng mỗi con người của chúng ta trong mọi khi mọi lúc. Hòa bình tự trong tâm của mỗi người. Nghe chuông ngân, lòng nhẹ lâng, dù đó là tiếng chuông phát ra từ vỏ một quả bom. Cũng thế, đức Phật đã từng nói: Tâm bình thế giới bình. Hãy bắt đầu từ mình trước, hãy bắt đầu đóng góp cho hòa bình bằng sức nhỏ nhoi của mình, đừng mất công theo nhóm này, chống chuyện nọ việc kia, chỉ vì chiêu bài chống chiến tranh. Có khi cuộc chiến này chưa tàn thì tự trong nó đã nẩy mầm nhiều cuộc chiến khác, biết chống đến bao giờ mới xong! Giáo lý đức Phật từng khuyên ta rằng: đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối, hãy đứng dậy thắp ngọn đèn lên. Ánh sáng đến thì tức khắc bóng tối sẽ tự tiêu tan. Xin hãy bắt đầu bằng những việc trước mắt ta, ví dụ như bằng một buổi thiền tọa, bằng một thời kinh, bằng một câu niệm Phật… hay chỉ một nụ cười, một hành vi thân thiện.

Trong một cuộc phỏng vấn của báo chí về giải trừ vũ khí (theo Thư Viện Hoa Sen), Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 có phát biểu rằng: Không thể thực hiện được sự giải trừ vũ khí bên ngoài, nếu không có sự giải trừ vũ khí từ trong nội tâm mình. Bạo lực làm phát sinh ra bạo lực. Chỉ có sự an bình trong tâm thức mới có thể mang lại một cuộc sống thanh thản và phi-đối-nghịch. Sự giải trừ vũ khí toàn cầu là một trong những giấc mơ tha thiết nhất của tôi. Thế nhưng đấy cũng chỉ là một giấc mơ mà thôi…

* * *
Khi quay về lại Đức, tôi tò mò vào đọc trang web của Chùa Phước Ấm (www.chuaphuocam.com), tôi thấy Đại Đức Bảo Ân đã âm thầm làm việc ấy nhiều năm qua. Đến đầu năm 2015, ngoài những thời khóa thường nhật và định kỳ, Chùa đã tổ chức được 30 khóa tu niệm Phật, mỗi khóa có gần cả trăm người tham dự, dù một nửa Phật Tử phải ngồi ngoài sân Chùa trong những ngày nóng nực vì chánh điện Chùa còn quá chật. Thầy cũng đang sửa sang miếng đất sau Chùa để xây dựng một khu nhà gọi là Trung Tâm Niệm Phật. Trung Tâm chưa xây nhưng đã thấy những hạt giống Tín, Hạnh, Nguyện trong giáo lý Tịnh Độ phảng phất quanh đây. Cuối tháng 3/2015 Chùa Phước Ấm đã bắt đầu phát quang dọn dẹp khu đất sau Chùa để khởi công xây dựng. Thiện hữu nào muốn phát tâm đóng góp công đức xin vào trang web này để có thể đọc chi tiết thư kêu gọi:

http://chuaphuocam.com/tin-noi-bat/tam-thu-thong-bao-ve-viec-trien-khai-xay-dung-trung-tam-niem-phat-2015.html

Chuyện „hồi đầu thị ngạn“ nổi tiếng nhất trong lịch sử Phật Giáo là chuyện chàng Vô Não trong thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế. Những đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ khi đến viếng thăm Tịnh Xá Kỳ Viên (Jetavana) của đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở thành Xá Vệ (Savatthi) đều thấy tháp kỷ niệm của Đại Đức Bất Hại (Ahimsaka) nằm chếch phía bên phải gần khu Tịnh Xá.
Xin gom vài nguồn tài liệu và ghi lại câu chuyện ấy để chúng ta cùng thưởng lãm và ngẫm suy.

Chuyện tên sát nhân Angulimala (Vô Não) và Đại Đức Ahimsaka (Bất Hại)

Một ngày kia đức Phật cùng đệ tử đi khất thực đến thành Xá Vệ nước Ma Kiệt Đà. Ngài ngạc nhiên vì cảnh hoang vắng lạ thường, một không khí sợ hãi bao trùm cả khu phố. Đức Phật bèn hỏi thì được biết rằng, trong những ngày qua dân chúng đang kinh hoàng vì sự xuất hiện của tên cướp Vô Não trong khu rừng gần đấy.

Vô Não (Angulimala) xuất thân từ gia đình dòng dõi Bà La Môn, thân phụ từng làm quan đại thần trong triều đình. Khi sinh ra cha mẹ đặt tên chàng là Bất Hại (Ahimsaka). Sau theo thầy học đạo và chính thầy bảo anh ta phải giết được 100 người, cắt 100 đốt ngón tay út đeo thành một xâu thì sẽ có những quyền phép kinh hoàng. Từ đó Vô Não trở thành một tên cướp điên cuồng và nhờ có sức mạnh vô song nên quân lính thành Xá Vệ không thể trừ khử được. Vô Não có thể chạy nhanh như ngựa, mạnh khỏe như voi và hung ác như cọp beo. Vòng đeo cổ của Vô Não đã xâu được 99 đốt tay, chàng đang đi tìm người thứ 100 nhưng ai nấy đều khiếp sợ lảng tránh không dám bén mảng đến khu rừng. Có lần Vô Não định giết mẹ mình để cho đủ số 100. Biết được tin này đức Phật bèn quyết định phải tìm đến gặp Vô Não ngay để ngăn chận một tội ác tày trời là giết cha giết mẹ. Hôm ấy Ngài thong thả một mình đi vào khu rừng của hung thần kia, dù có rất nhiều lời can ngăn.

Từ bìa rừng đi chẳng được bao lâu thì đức Phật nghe rõ tiếng chân chạy thình thịch sau lưng Ngài. Đức Phật biết ngay là Vô Não đang rượt theo nhưng Ngài vẫn lặng yên chậm rãi bước đi. Vô Não vui mừng hét toáng lên và rượt theo bén gót. Nhưng kỳ lạ thay, con người đi trước mặt Vô Não không hề hoảng sợ mà vẫn cất bước khoan thai nhẹ nhàng, không hề đếm xỉa đến sự hiện diện của chàng ta. Như một con hổ tinh khôn trước phản ứng khác thường của con mồi, tên cướp Vô Não hơi có phần nao núng. Chàng ta dè dặt vì cho đến bây giờ ai gặp y cũng đều hoảng sợ kinh hoàng trong khi vị Sa Môn ốm yếu này lại bình thản, thậm chí không thèm quay lại nhìn chàng ta, chắc có thể có bẫy gì gài đặt để hại chàng chăng? Nếu để sụp bẫy thì chàng sẽ mất công toi bao nhiêu năm nay. Nghĩ thế nên Vô Não hét lớn lên:

- Người kia, hãy dừng lại ngay!

Đức Phật vẫn lặng yên bước đi tiếp. Vô Não thét càng lớn hơn:

- Ông Sa Môn kia, ta bảo ông dừng lại, dừng ngay lập tức!

Đức Phật vẫn khoan thai tiếp tục bước đều và từ tốn trả lời:

- Hởi chàng Vô Não, ta đã dừng lại từ lâu lắm rồi. Chỉ có nhà ngươi mới chưa chịu dừng đó thôi.

Tên cướp Vô Não ngạc nhiên và không hiểu gì cả nên lại đâm ra bối rối. Chàng ta tự hỏi, tại sao ông Sa Môn kia vẫn bước mà dám nói rằng đã dừng lại.

VoNao-AngulimlaLòng đầy rẫy thắc mắc, tên cướp Vô Não nắm chặt thanh đao trong tay và phóng nhanh tới trước mặt chận đường Phật lại.

- Này ông Sa Môn, sao ông lại nói năng hồ đồ như thế. Ông nói ông đã dừng lại mà chân ông vẫn cứ bước, ông muốn gạt ta ư? Ông lại còn bảo ta không chịu dừng trong khi ta vẫn đứng đây đối chất với ông. Vậy thế nghĩa là sao, ông phải giải thích ta nghe thông suốt? Hay ông đang bày mưu mô quỷ quyệt gì đây?

Đức Phật nhìn thẳng vào mắt Vô Não trả lời:

- Được rồi, ta sẽ giải thích cho ngươi. Nhưng trước tiên nhà ngươi phải vứt bỏ thanh đao hại người kia đi đã.

Vô Não có hơi nao núng trước thái độ điềm tĩnh của Phật. Nhưng khi nhìn kỹ lại thân hình ốm yếu của vị Sa Môn trước mặt, chàng ta lượng sức mình chỉ cần dùng đôi tay khỏe mạnh này là chàng ta có thể bóp nát con người kia chứ đâu cần gì đến gươm đao.

Nghĩ thế, chàng ném thanh đao về một góc bụi cây, và nói:

- Bây giờ ta đã vứt bỏ thanh đao rồi, ông Sa Môn phải trả lời ngay cho ta rõ. Chớ có chần chừ kéo dài đến trời tối, mong tìm kế hoản binh chăng?

- Này Vô Não, ta không bảo nhà ngươi vứt bỏ thanh đao ấy. Thanh đao ấy không tội tình gì cả, ngươi cứ nhặt nó lại đi. Ta muốn nhà ngươi vứt bỏ thanh đao hại người trong tâm của nhà ngươi kia!

Quá đỗi nhạc nhiên trước câu nói từ tốn của Phật, chàng Vô Não há hốc mồm đứng lặng thinh bất động. Đức Phật biết đã đến lúc, nên nói tiếp ngay:

- Hởi chàng Vô Não! Ta đã dừng chân và sẽ dừng chân mãi mãi. Ta đã khước từ, vứt bỏ không gây thương tổn cho một sinh vật nào. Còn nhà ngươi, bàn tay ngươi đang đẫm máu của đồng loại. Sao ngươi lại đem sự đau khổ hãi hùng cho người khác để mưu cầu hạnh phúc viễn vông? Vì thế mà ta bảo rằng Như Lai đã dừng còn Vô Não thì đang tiếp tục.

Vô Não càng nghe càng thêm bối rối. Chàng im lặng, lặng lẽ nhìn đấng Đạo sư hồi lâu. Thái độ từ ái cùng dung mạo phi phàm của Ngài khiến chàng cảm thấy an tâmlấy lại được sự bình tĩnh khi xưa. Chàng thầm nghĩ: „Trước đây hồi còn thơ ấu, ta có nghe thiên hạ đồn rằng Sa Môn Cồ Đàm là một bậc giác ngộ. Ngài có một dung nhan sáng rỡ và một giọng nói rất là từ hòa thân ái, có lẽ đây là Ngài chăng?“. Nghĩ vậy nên Vô Não hỏi ngay:

- Thưa … ngài có phải là Sa Môn Cồ Đàm không? Là con của đức vua Tịnh Phạn?

- Đúng ta đây, này Vô Não! Con đã biết tự vứt bỏ thanh gươm đẫm máu kia trong con, có nghĩa là con đã vứt bỏ con đường lầm lạc cũ. Bây giờ con có cần Như Lai giúp đỡ điều gì không?

Vô Não xúc động tột độ, tự nhiên không biết có sức mạnh nào khiến chàng quỳ xuống và thưa:

- Bạch Sa Môn Cồ Đàm. Đã từ lâu, con không hề quỳ lạy một ai, mà ngược lại ai thấy con cũng run rẩy quỳ mọp van xin được tha mạng. Con đường này không ai dám lai vãng một mình, mà thiên hạ thường rủ nhau đi từng đoàn hàng trăm người. Bạch Sa Môn! Con đã từng nghe rằng có những sinh vật bị khắc phục bằng võ lực hay roi vọt. Nhưng con, một con thú hoang đàng cuồng dại, lại được chế ngự bởi một người không gươm dao hay roi vọt. Bạch Sa Môn! Hình bóng từ ái của Người đã khiến con muốn trở về với con đường thuần lương sống yêu thương và giúp đỡ đồng loại như những ngày xa xưa, lúc con chưa điên loạn… Nhưng ai, ai có thể cho phép chở che và giúp đỡ một con người như con – người đã hại cả trăm nhân mạng?

- Này Vô Não! trên thế gian này có hai hạng người được xem là thanh tịnh: hạng thứ nhất là người không hề gây tội lỗi, hạng thứ hai là kẻ gây tội nhưng biết ăn năn và không bao giờ tái phạm. Nếu lòng con tha thiết muốn hoàn lương thì Như Lai sẽ giúp con toại nguyện.

- Bạch Sa Môn, con không dám nghi ngờ gì về lòng từ bi bao la của Ngài đối với con. Nhưng con đã gây tạo một ác nghiệp mà có lẽ không một ai trên thế gian này dám làm. Làm sao con có thể ước mơ làm đệ tử của Sa Môn Cồ Đàm, một người mà suốt đời chưa hề làm xúc não bất cứ ai?

- Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?

- Bạch Sa Môn, bóng tối dù đã ngự trị căn phòng suốt nghìn năm nhưng chỉ cần mỗi một ngọn đèn được thắp lên thì bóng tối sẽ tan ngay, và thời gian để dọn dẹp căn phòng thì tùy thuộc vào việc siêng năng hay biếng nhác của người ấy.

- Cũng vậy, này thanh niên, dù con đã sát hại bao nhiêu đồng loại, nhưng nếu con thành tâm cải hối, thắp lên ngọn đèn bằng ánh sáng trí huệ của con thì bóng tối ác nghiệp u mê sẽ tan biến ngay. Con vẫn có cơ hội ngộ đạo như bao nhiêu người khác. Đó là điều mà Như Lai xác quyết với con.

- Bạch Như Lai, vậy từ đây con xin nguyện hối cải bỏ ác làm lành, theo Như Lai học đạo giải thoát. Kính mong Như Lai từ bi thu nhận con làm đệ tử.

Đức Phật hứa khả nhận Vô Não làm đệ tử. Vô Não liền theo Phật về tịnh xá Kỳ Viên, cạo bỏ râu tóc, và từ đấy rất mực tinh cần, ngày đêm siêng năng tu tập.

Nhắc lại việc dân chúng thành Xá Vệ lúc ấy chưa hay tin đức Phật đã thu phục được tên cướp khát máu. Họ dâng biểu lên Vua Ba Tư Nặc yêu cầu trừng trị tên cướp. Nhà Vua thân chinh điều khiển binh tướng đi diệt họa cứu dân. Trên đường ngang qua Tịnh xá, tiện thể nhà Vua ghé vào chào đức Phật.

Đã biết rõ câu chuyện, đức Phật hỏi Vua Ba Tư Nặc:

- Này đại vương, nếu bây giờ dân chúng thông báo rằng tên cướp ấy đang ở gần đây thì đại vương tính sao?

- Bạch Thế Tôn! Con sẽ cho quan quân giết hắn ngay để trừ mối nguy cho muôn dân.

- Nhưng nếu Vô Não cạo bỏ râu tóc xuất gia làm Tỳ kheo, thì đại vương sẽ đối xử với y như thế nào?

- Bạch Thế Tôn! Nếu đó là một chuyện có thật thì con sẽ đầu thành đảnh lễ Như Lai. Ngài đã thắng được tên cướp không ai địch nổi mà chẳng cần dùng đến gươm đao. Nhưng con không tin rằng tên cướp kia lại có thể thay tâm đổi tánh cho được.

Đức Phật mỉm cười, đưa tay chỉ một Sa Môn trẻ tuổi, hình dung tuấn tú, uy nghiêm đang ngồi trầm tư trên một tảng đá gần hương thất bảo:

- Này đại vương! Vị Tỳ kheodáng điệu từ hòa kia trước đây mấy ngày được dân chúng gọi là hung thần rừng Jalini có tên là Vô Não.

Vua Ba Tư Nặc giật mình kinh ngạc hồi lâu mới nói:

- Bạch Thế Tôn! Nếu những lời nói trên không được thốt ra từ kim khẩu của Thế Tôn thì con không thể nào tin được. Bạch Thế Tôn! Xin cho con được diện kiến cùng tôn giả ấy.

- Đại vương cứ tự nhiên.

Vua Ba Tư Nặc bèn rời chỗ ngồi, e dè đến chỗ tôn giả Vô Não đang ngồi rồi vái chào và hỏi:

- Thưa tôn giả, ngài tên là gì?

- Tâu đại vương, tên của tôi là Bất Hại (Ahimsaka), nhưng vì một ác nghiệp trước ngày xuất gia nên mọi người đều gọi tôi là Angulimala, nghĩa là “Chuỗi ngón tay.”

- Thưa tôn giả, cha mẹ của ngài tên là gì?

- Tâu đại vương tôi là con trai của học sĩ Bhaggava và mẹ tôi tên là Mantali.

- Thưa tôn giả Bhaggava-Mantali, thời gian khoảng mười ngày trước đây, ngài ở đâu và làm gì?

- Tâu đại vương, tôi trú ngụ tại rừng Jalini và là tên hung thần ở vùng ấy.

- Bạch đại đức, thật là hy hữu! Thật là kỳ diệu! Xin đại đức cho phép trẫm được cúng dường y bát, thực phẩm và thuốc men cho ngài.

- Tâu đại vương! Tôi đã có đủ ba y áo, thực phẩm thì mỗi ngày các thí chủ cúng dường trong thời khất thực, còn thuốc men thì hiện giờ chưa cần đến.

Vua Ba Tư Nặc đảnh lễ tán thán đức Phậtcáo từ ra về, lòng nhẹ nhõm.

Và cũng kể từ ngày hôm ấy, tôn giả Angulimala càng thêm vững niềm tin, tinh cần tu tập, chẳng bao lâu thầy đắc quả A La Hán. Người ta muốn biết rằng tại sao một con người hung bạo, đầy dẫy nghiệp chướng như thế mà lại có thể đạt đến quả A La Hán, một quả vị mà các bậc hiền nhân đầy phước báu như tôn giả A Nan vẫn chưa chứng đắc.

Để giải đáp điều này, đức Phật đã dạy:

- Trên thế gian này, mọi người đều bình đẳng với nhau ở khổ đau cũng như giác ngộ. Thầy Angulimala trước kia là người hung bạo, đầy dẫy nghiệp chướng như thế, nhưng về sau thầy đã tinh cần miên mật phát huy trí huệ sẵn có của thầy, đánh bạt hết ác nghiệp, giống như vầng trăng ló dạng ra khỏi mây mù, chiếu sáng khắp thế gian.

Nhận diện yêu thương

Vậy cốt lõi đích thực của cuộc sống là yêu thương chứ không phải hận thù. Nhờ tình thương rộng lớn mà Đức Phật đã độ chàng Vô Não và giúp dân chúng tránh thảm họa. Khi ta vừa cất tiếng chào đời ta đã nhận bao nhiêu tình yêu thương của cuộc đời. Suốt cuộc sống ta cũng được ấp ủ với bao nhiêu thương yêu. Núi rừng mở rộng thêm khung trời xanh, mặt đất cho cây trái, dòng sông cho nước mát, vân vânvân vân. Nếu không có những thứ đó làm sao ta sống được? Nhưng nhiều khi do quá bận rộn cho những cuộc đấu tranh với đời ta quên nó mất. Đức Đạt Lai Lạt Ma lại khuyên ta: Trang sức đẹp nhất mà quý vị đang có chính là tình thương yêu và lòng từ bi. Nếu quý vị tìm hiểu những gì có thể giúp mình đạt được hạnh phúc và mang lại an vui, thì quý vị tất sẽ phải nhận thấy trước hết là chúng liên quan chặt chẽ với các phẩm tính con người mà quý vị đang cố gắng trau dồi trong tâm hồn quý vị, và sau đó là cách suy nghĩ của tâm thức quý vị.

Lòng từ kia, tình thương ấy đã có sẵn trong ta, chỉ cần làm hiển lộ ra thôi. Để kết luận, xin mượn lời thi sĩ qua bài thơ Yêu Đi. Bài thơ này thi sĩ Hàn Long Ẩn mới sáng tác, còn thơm mùi mực và mới được đăng trên trang nhà Hoa Vô Ưu:

Yêu đi – Hàn Long Ẩn

Yêu đi nhé, nếu không là sẽ muộn
Thời gian trôi chẳng đợi một ai đâu
Như mây bay, gió thoảng, nước qua cầu
Ngày sẽ hết khi mặt trời giã biệt

Hãy yêu mình và yêu đời tha thiết
Yêu cỏ cây hoa lá, chim muông
Yêu con sâu, cánh bướm, chuồn chuồn
Yêu giọt nắng ban mai, yêu cơn mưa chiều cuối phố

Yêu tiếng khóc, yêu nỗi buồn nhăn nhó
Yêu nụ cười, yêu hạnh phúc đam mê
Yêu phồn hoa phố thị, miền quê
Yêu trẻ nhỏ, yêu cụ già tóc bạc

Yêu giọng nói, yêu lời ca tiếng hát
Yêu câu thơ, trang sách tuổi học đường
Yêu tóc dài, tóc ngắn cũng yêu luôn
Yêu chiếc nón ngày hè, yêu chiếc khăn mùa lạnh

Yêu kẻ giàu sang, yêu những mảnh đời bất hạnh
Yêu bậc tri thức, yêu người ít học dại khờ
Yêu sum vầy, yêu chia cách bơ vơ…
Yêu tất cả vì kiếp người ngắn lắm!

Đừng gieo rắc chi thêm hận thù, rối rắm
Hãy bao dung, yêu hết thảy muôn loài
Yêu hôm nay và yêu cả ngày mai
Yêu, yêu nữa, đến ngàn sau, yêu mãi!

(theo http://www.hoavouu.com/a40113/yeu-di)
Xin cám ơn những vầng thơ đáng yêu và tuyệt vời ấy của thi sĩ. Xin hãy yêu nhau đi, kẻo muộn!


Mùa Phật Đản
Nguyên Đạo – Văn Công Tuấn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 37865)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19580)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18662)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14254)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20092)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9497)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14366)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35561)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10652)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19698)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23196)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13357)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10743)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20212)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10597)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9959)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14872)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17650)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17593)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13185)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31157)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25746)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13978)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17501)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10971)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12288)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10464)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12265)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11756)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9611)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12351)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9195)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8491)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9952)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9755)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12028)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14413)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9898)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11203)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8294)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10967)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14082)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9905)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15202)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13035)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23074)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23983)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12565)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15422)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17773)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15047)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16547)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16088)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17634)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11584)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11616)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17822)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10777)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10518)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11320)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12075)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11036)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36402)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8957)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9673)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34707)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17260)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10239)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10467)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12197)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13629)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14650)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9144)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24801)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11631)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10311)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15935)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15564)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14514)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12998)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12441)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14573)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18351)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9565)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18512)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18582)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19012)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18832)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11827)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13337)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47982)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11063)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13546)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13033)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11059)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12550)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11049)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31767)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11661)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
(Xem: 10119)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant