Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vu Lan Và Triết Lý Nhân Quả

24 Tháng Tám 201515:17(Xem: 11084)
Vu Lan Và Triết Lý Nhân Quả
VU LAN VÀ TRIẾT LÝ NHÂN QUẢ

Thích Thông Huệ


Vu lan và triết lý nhân quảS
au khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất. Thấy mẹ đang chịu đói khát khổ sở trong kiếp ngạ quỷ, Ngài đau lòng vô cùng, vội dâng lên mẹ bát cơm. Lòng bỏn xẻn tham lam chưa dứt, bà sợ chúng ma cướp giật nên đưa tay che bát cơm. Nhưng cơm đã hóa thành lửa đỏ!.

Vị đại đệ tử thần thông đệ nhất của Đức Phật không thể cứu mẹ thoát kiếp ngạ quỷ, cũng không giúp mẹ được một bữa no lòng. Ngài vừa khóc vừa quay về cầu cứu Bổn Sư. Pháp cứu tế nhân đây được Phật thuyết giảng, trở thành một phương pháp cầu siêu cho những người đã khuất; và ngày rằm tháng bảy trở thành ngày hội cho những người con hiếu thảo.

Nhưng ở đây, chúng ta có thể đặt nghi vấn: Nếu nhờ chư Tăng chú nguyện mà bà mẹ Ngài Mục Kiền Liên thoát khỏi cảnh đọa lạc, thì hóa ra lý Nhân quả cũng có trường hợp ngoại lệ? Và Phật tử chúng ta chỉ cần nương nhờ thần lực của chư Phật cùng Thánh chúng, dù có tạo nghiệp ác cũng không sợ sa vào khổ xứ? Quả thật như thế, thì tinh thần “ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng” còn có ý nghĩa gì? Thật ra, tuy lý Nhân quả có tính phổ thông, nhưng muốn quán triệt đạo lý này, chúng ta phải nghiền ngẫm tư duy thật sâu sắc; và sau đó, nhờ công phu chuyển hóa tự thân, tịnh tu ba nghiệp, ta mới có thể thẩm thấu ý nghĩa uyên áo của nó.

Nhânnguyên nhân, nguồn gốc, mầm mống; Quả là kết quả, thành tựu, báo ứng. Tất cả mọi sự vật hiện tượng trên đời, không vật gì do ngẫu nhiên tạo ra, mà phải có nguyên nhân từ trước. Ngược lại, một nguyên nhân muốn có kết quả, cũng phải có sự hỗ trợ của nhiều yếu tố gọi là Duyên. Lý Nhân quả, hay nói đầy đủ là Nhân - Duyên - Quả, chi phối toàn thể vũ trụ vạn loại, là nguyên lý tuyệt đối. Đức Phật không phải là người khai sinh ra đạo lý nầy, nhưng Ngài đã thấu hiểu nó đến tột cùng và trao truyền cho các môn đệ.

Đối với khoa học, Nhân quả là sự chuyển biến tự nhiên của nhân sinhvũ trụ. Các nhà nghiên cứu đã áp dụng Nhân quả, phối hợp những Duyên thích ứng để có nhiều thành tựu đáng kể phục vụ đời sống con người. Ngay cả phát minh được xem như “đoạt quyền tạo hóa” là tạo ra một động vật hay một phôi người bằng phương pháp sinh sản vô tính, cũng phải theo tiến trình Nhân - Duyên - Quả. “Nhân” ở đây là nhiễm sắc thể của tế bào một sinh vật giống cái kết hợp với noãn bào của một sinh vật cái khác; “Duyên” là môi trường cấy, nhiệt độ thích hợp, trí tuệ của nhà bác học… Nhân và Duyên đầy đủ mới có kết quả là những con cừu, bê, heo và thai nhi, đã được báo cáo và cả tranh cãi gay gắt trong giới khoa học và đạo đức học trong những năm gần đây.

Chủ trương của đạo Phật có khác, không chỉ chú trọng đến sự hòa hợp giữa con người và môi trưòng sống, giữa cá nhân và tập thể, giữa nhân sinhvũ trụ, mà còn áp dụngNhân quả để nâng cao đời sống tinh thần, để suy tiến đạo đức. Nhà Phật thường đề cập đến nguyên nhân hơn là kết quả, đến bản chất hơn là hiện tượng. Giáo dục của đạo Phậtgiáo dục ngay từ nguồn cội, từ trước lúc tội lỗi xảy ra, nên có tính cách phòng ngừa hơn là chữa trị. Những người con Phật có chánh kiến Nhân quả không làm điều gì tổn hại đến mình và người; và mỗi ngôi chùa là trường học dạy đạo lý làm người, dạy cách đối nhân xử thế trước khi dạy cách tu làm Phật.

Tổ Bá Trượng một hôm thuyết pháp xong, đại chúng giải tán hết, chỉ còn một ông già ở lại. Tổ hỏi thì ông thưa:

- Thời Đức Phật Ca Diếp, con là Tăng sĩ ở núi nầy. Do học trò hỏi “Người đại tu hành có rơi vào nhân quả không? Con đáp “Bất đọa nhân quả” (không rơi vào nhân quả). Vì câu đáp ấy, con bị đọa làm thân chồn đến nay đã năm trăm kiếp. Cúi xin Hòa thượng từ bi dạy cho con một câu để con được hóa kiếp.

Tổ bảo:

- Ông cứ hỏi đi.

Ông già hỏi:

- Người tu hành có rơi vào nhân quả không?

Tổ đáp:

- Bất muội nhân quả (không lầm nhân quả).

Ngay đây ông già đại ngộ, làm lễ và thưa:

- Con đã thoát thân chồn, hiện con ở sau núi, dám xin Hòa thượng lấy theo lễ Tăng tống táng giúp con.

Tổ cùng đại chúng ra hang núi phía sau, quả nhiên thấy xác một con chồn, bèn làm lễ thiêu như một vị Tăng.

Ông già chỉ sai một chữ mà bị đọa làm chồn 500 kiếp. Người đại tu hành mở sáng mắt trí tuệ, thấy tột cùng và không lầm lẫn nhân quả chứ không thể tránh nhân quả. Do nghiệp nhân từ trước, các Ngài dù đã đạt đạo nhưng vẫn thọ quả báo. Có điều, tuy thọ quả nhưng các Ngài vẫn an nhiên tự tại, vì biết tự tánh của nghiệp chướng vốn là không. Thiền sư Huyền Giác viết:

Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không

Vị liễu ưng tu hoàn túc trái.

Khi đã liễu ngộ, rõ ràng nghiệp chướng xưa nay vốn không; nhưng nếu chưa liễu, thì mọi oan trái đã gây đều phải đền trả. Chúng ta không thể dùng tài biện luận để cãi chối, không thể dùng phương tiện khéo léo nào để trốn tránh nhân quả, như vẫn thường làm ở thế gian. Ngoài đời có luật pháp, có tòa án, nhưng nhiều khi xử lầm hoặc kết oan người vô tội; còn tòa án lương tâm và luật Nhân  quả - Nghiệp báo thì không hề bỏ sót một ai.

Nhà Phật có bài kệ nổi tiếng về nhân quả ba đời:

Dục tri tiền thế nhân

Kim sanh thọ giả thị.

Dục tri lai thế quả

Kim sanh tác giả thị.

Muốn biết nhân đời trước, phải nhìn sự lãnh thọ ở đời này. Hoàn cảnh chánh báoy báo đời này tốt đẹp là do đời trước tạo nghiệp nhân thiện lành; nếu đời này ta gặp nhiều chuyện không như ý, đó là vì đời trước đã gây nhân xấu ác. Lại nữa, muốn biết đời sau cuộc sống mình thế nào, cứ nhìn sự tạo tác đời này sẽ rõ. Khổng tử nói “Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định”, một miếng nước uống hay một miếng cơm ăn đều đã được định trước. Sự định đọat nầy không phải do Thượng Đế hay một đấng quyền năng nào, mà do nghiệp tạo ra từ thân - miệng - ý của chính mỗi người.

Trong thực tế, có nhiều người xấu ác nhưng vẫn sống hạnh phúc giàu sang, lại có người chuyên làm việc thiện mà vẫn khó khăn bất hạnh mọi bề. Đó là quả của việc làm kiếp này chưa trổ ra, còn đời sống hiện tại là do nhân duyên kiếp trước. Đức Phật dạy, quả báo có ba loại: Hiện báo là khi nhân gây ra, quả đến ngay trong hiện kiếp; Sanh báo là nhân gây trong kiếp này, quả đến kiếp sau mới trổ; Hậu báo là quả đến rất muộn sau nhiều kiếp. Hiểu tường tận điều này, chúng ta không chút nghi ngờ về tính bình đẳngtuyệt đối của lý Nhân Quả. Chính mình là Thượng Đế tự vẽ ra chánh báoy báo cho mình, chính mình phải chịu trách nhiệm về mọi tạo tác do mình gây ra, dù vô tình hay cố ý .

Một điều cần nhấn mạnh, sự tương tác giữa nhân và quả không phải đơn giản theo tinh thần “Nhân nào quả nấy”. Một nhân muốn trổ thành quả phải có sự tác động của nhiều yếu tố trung gian gọi là Duyên. Một hạt xoài (nhân) cần có nhiều duyên như đất, nước, ánh sáng mặt trời, công người trồng…, sau một thời gian mới thành cây xoài, kết quả. Trường hợp của con người lại càng phức tạp, không những tiến trình Nhân - Duyên - Quả chịu sự ảnh hưởng của Duyên, mà còn có thể thay đổi Nghiệp nhân để cho một kết quả hoàn toàn khác. Nhà Phật gọi đó là Sự chuyển nghiệp, cũng chính là ý nghĩa của sự tu hành.

Chúng ta đã biết, Nghiệp phát sinh từ thân, miệng và ý, trong đó tâm ý dẫn đầu. Ý suy nghĩ mới phát ra lời nói và hành động, nên ý là chủ tạo nghiệp. Vì tâm ý là chủ tạo nghiệp nhân, nên muốn chuyển đổi nghiệp ác thành hiền thiện, con người phải tu ngay tâm, sám hối ngay tại tâm mình. Trường hợp của mẹ Ngài Mục Kiền Liên được lý giải theo tinh thần này. Do tâm bỏn xẻn trong tiền kiếp, bà phải chịu quả báo làm thân ngạ quỷ, khổ sở đói khát, đến nổi bát cơm của con dâng lên cũng không có cơ hội được ăn. Nhờ chư Hiền Thánh Tăng chú nguyện, kết hợp lòng thành của Ngài Mục Kiền Liên cũng là một vị A-La-Hán, nên chuyển đổi được tâm bà từ xấu ác thành thiện lành. Tâm chuyển nên nghiệp nhân chuyển, đưa đến quả tốt, bà vãng sanh lên cõi Trời. Như thế, lý Nhân quả luôn luôn đúng trong mọi trường hợp, nhưng nhờ tu hành chuyển hóa tâm ý trở nên tốt đẹp, có thể thay đổi được kết quả xấu vốn phải thọ lãnh trong tương lai.

Tuy nhiên, vì sao ở đây nói Nhân sanh diệt đưa đến quả sanh diệt? Bởi vì thông thường, làm bất cứ việc gì chúng ta đều có ngã tướng. Khi làm là thấy có ta làm, có việc làm và có đối tượng của việc làm ấy. Chúng ta tu năm giới hay thập thiện là mong hưởng phước báo nhân thiên, hoặc làm người đầy đủ phước đức, hoặc sanh lên cõi Trời với mọi điều sung sướng. Do ý thức chấp ngã nên còn lẩn quẩn trong luân hồi, vì thế gọi là nhân và quả sanh diệt. Ngày xưa, các vị tu tiên cầu thần thông và sống lâu, vẫn có tâm bám chặt vào ngã tướng. Nhiều khi thần thông càng cao, cái ngã càng lớn nên không dứt được phiền não. Kinh Kim Cang nói: Dù bố thí bảy báu nhiều vô lượng trong suốt bao nhiêu kiếp, cũng không bằng trì bốn câu kệ trong kinh Kim Cang. Bố thí càng nhiều thì càng phải qua nhiều lần sanh tử để hưởng phước, còn trì 4 câu kệ là sống với bản tâm chân thật, đoạn dứt sanh tử. Lại nữa, trong dòng luân hồi, nhiều khi có quyền thế lại dễ hại người, tạo thêm điều ác, cứ thế mà lên xuống mãi trong ba cõi sáu đường.

Trong kinh Viên Giác, Ngài Văn Thù thưa hỏi Đức Phật dùng nhân ban đầu là gì để tu mà ngày nay thành Phật. Đức Phật trả lời, phải y nơi Tánh Viên Giác thanh tịnh, nghĩa là thể tánh chân thật bất sanh bất diệt làm nhân tu hành, mới đắc quả Phật thường trụ.

Vì sao thể tánh chân thậtbất sanh bất diệt? - Mọi sự vật trên thế gian hễ có hình ắt có hoại, có sanh ắt có diệt. Thông thường khi ta nhìn phải có đối tượng cho cái nhìn của ta (sắc); lúc nghe phải có đối tượng của sự nghe (tiếng). Tương tự cho các căn khác, khi hoạt động đều cần đối tượng là các trần cảnh bên ngoài, từ đó khởi lên ý thức phân biệt hay dở đẹp xấu… Những niệm phân biệt ấy nương theo hình tướng của trần cảnh, lúc sinh lúc diệt, lúc đến lúc đi, vì thế Đức Phật bảo, đó là cái biết theo duyên, cái biết lệ thuộc vào đối tượng. Ngược lại, khi tiếp xúc với trần cảnh nhưng không dính mắc chạy đuổi theo chúng, cũng không khởi niệm phân tích chia chẻ - kể cả niệm “ta đang biết”, thì lúc ấy, ta vẫn thấy nghe hay biết rõ ràng, Cái biết ấy không lệ thuộc vào đối tượng, cái biết không duyên nên không có hình tướng, không có sanh diệt, chẳng đến chẳng đi, không bao giờ vắng thiếu. Đó là cái biết chân thật hay bản tánh bất sanh, nhà Thiền gọi tên “Bản lai diện mục” - bộ mặt thật xưa nay. Nhận ra bản tánh ấy làm chánh nhân tu hành, chắc chắn nên quả Phật thường trụ.

Nhưng làm thế nào tìm được bản tánh?

Nhiều người nghe nói, nhà Thiền chủ trương “Kiến tánh thành Phật”, hoặc “chưa nhận ra bản tâm chân thật thì chưa bước vào cửa nhà Thiền”, nên rất mong muốn tìm thấy tánh. Tuy nhiên, ngay từ ý niệm “tìm kiếm”, chúng ta đã xa tánh nghìn trùng. Lại nữa, có người đọc lịch sử Đức Phật và Chư Tổ tu hànhthành đạo trong rừng núi, nên tưởng phải ở ẩn một mình nơi thâm sơn cùng cốc mới có thể ngộ đạo. Thật ra, bản tánh thanh tịnh hằng tri ấy chính là mình. Không phải tìm cầu bên ngoài, cũng không cần xa lánh thế gian. Lục Tổ Huệ Năng dạy:

Phật pháp tại thế gian

Bất ly thế gian giác.

Lý thế mích Bồ - đề

Kháp như tầm thố giác.

Phật pháp ở ngay tại thế gian, không phải xa lánh thế giangiác ngộ. Nếu lìa bỏ thế gian tìm cầu Bồ - đề, thì chẳng khác nào đi tìm sừng thỏ. Ngay sóng đã là nước, ngay thân sinh diệt đã có bản tánh bất sanh, ngay dòng sông vô thường động chuyển đã có cái chân thường bất biến. Khi tâm ta hoàn toàn thanh tịnh, rỗng rang, bặt mọi vọng tưởng điên đảo phân biệt mà vẫn rõ ràng thường biết, ta mới hay Đạo tại nhãn tiền, hoa sen nở trong lò lửa mà sắc vẫn thường tươi nhuận.

Nhận ra bản tâm thanh tịnh hằng hữu, ta đã có chánh nhân tu hành. Đây mới là bước đầu khởi tu, cần phải mất bao nhiêu công phu bào mòn tập khí, phải miên mật từng phút giây hằng sống với bản tâmthể nhập trọn vẹn vào đó. Đường tu rất dài và rất gian nan chứ không dễ dàng như một số người lầm tưởng. Hiểu là một chuyện, thực hànhthể nhập tự tánh lại là chuyện khác, xa nhau như trời vực. Nhưng khi đã nhận ra tự tánh tức gieo nhân vô sanh, ắt có ngày ta sẽ viên thành Phật quả.

Đức Phật dạy, con người có bốn hạng:

1- Từ tối đến tối: Người sanh trong gia đình nghèo khổ, không có văn hóa đạo đức, kiếp này lại không biết tu hành, mãi tạo nghiệp bất thiện. Kiếp sau chắc chắn bị đọa lạc.

2- Từ tối đến sáng: Người có hoàn cảnh xấu về nhân thângia đình, nhưng kiếp này có duyên gặp chánh pháp, tinh tấn tu hành, tịnh tu ba nghiệp. Kiếp sau tái sanh vào các cõi lành, tiếp tục đi trên con đường đạo, chuyển được nghiệp xấu ác thành hiền thiện.

3- Từ sáng đến tối: Do nghiệp lành đời trước, kiếp này được sanh vào gia đình giàu sang, có văn hóa đạo đức. Nhưng người nầy không biết tu hành, vô tình tạo nhiều nghiệp bất thiện, kiếp sau sẽ bị đọa vào các đường dữ.

4- Từ sáng đến sáng: Đây là trường hợp tối ưu. Người có duyên nhiều đời với chánh pháp, kiếp trước gieo nhân lành nên trong kiếp này, hoàn cảnh chánh báoy báo đều tốt đẹp. Người ấy lại tinh tấn tu hành, vun bồi phước đức. Đời sau chắc chắn sanh vào các cõi lành, tiếp tục đi theo chánh pháp, ngày càng thăng tiến đời sống tâm linh.

Như vậy, hoàn cảnh sống của ta là do ta tạo ra, không ai làm thay cho mình, và mình cũng không thể tu thay cho người khác. Vì tâm chuyển biến từ trạng thái này sang trạng thái khác, và nghiệp cũng theo tâm mà thay đổi nên chúng ta cần y cứ nơi tâm mà sám hốitu hành. Nghèo không bi quan oán trời trách người, giàu không cống cao ngã mạn. Chúng ta luôn tránh nghĩ điều xằng bậy xấu ác mà suy tiến những ý tưỏng thiện lành. Từ suy nghĩ lành dẫn đến lời nóiviệc làm tốt đẹp, chúng ta dần dần chuyển hóa nhân cách mình theo chiều hướng thượng. Cá nhânđạo đức ảnh hưởng tốt đến gia đìnhxã hội được êm ấm an vui. Đây là bước đầu tiên áp dụngNhân quả vào đời sống.

Tiến thêm bước nữa, người hiểu kỹ lý Nhân quả để công phu đoạn trừ phiền não. Vì vô minh chấp thân tâm này là mình nên sinh lòng tham, muốn gom góp mọi thứ vật chấttinh thần cho bản thân. Ta thương yêu người khác cũng vì mình, nên tình thương luôn có tính chiếm hữu, đây là một biến chất của lòng tham. Chiếm được, lòng tham càng tăng trưởng; chiếm không được, sanh tâm sân hận. Chính ba độc Tham-Sân-Si là ngục tù giam hãm con người, không có ngày thoát khỏi. Người hiểu lý Nhân quả biết tránh những điều bất lợi cho người, không khởi lòng tham cầu ngũ dụctranh đoạt của người khác, biết tỉnh giác nhận diện những ý niệm sân hận mới manh nha để hóa giải kịp thời. Khi gặp nghịch cảnh chướng duyên, chúng ta không buồn khổ vì biết là hậu quả của nhân bất thiện đời trước, vững bước vượt qua trở ngại và càng tinh tấn tu hành để chuyển nghiệp. Lúc được hoàn cảnh thuận lợi, mọi người quý kính, chúng ta biết mình đã tạo nhân tốt, càng cố gắng vun bồi phước đức, gây nhiều nghiệp lành. Nhờ vậy, cuộc đời ta ngày càng đẹp đẽ hạnh phúc, không mong cầu mà phước báo vẫn đến. Nhưng hiểu lý Nhân quả cho thấu đáo, chúng ta thấy nhân quả ngay trong một niệm. Vừa động niệm là đã tạo nghiệp, từ đó mầm mống của quả có cơ hội phát sinh. Dù nghiệp thiện hay ác, con người vẫn còn chịu trầm luân trong sanh tử.

Toàn thể vũ trụ luôn vận hành không dừng nghỉ theo tiến trình nhân quả. Bản thân mỗi người cũng biến đổi trong từng sát-na. Không một hoạt động vật lý, sinh lý hay tâm lý nào không chịu sự chi phối âm thầm mà chặt chẽ của lý Nhân quả. Bằng trí tuệ siêu xuất, Đức Phật đã triển khaiNhân quả thật tường tận từ cạn đến sâu để dạy chúng ta hướng về đời sống đạo đức, thăng tiến tâm linh, bỏ ác về thiện và cuối cùng siêu vượt cả thiện ác.

Nền văn minh thế giới ngày càng tiến triển, con người càng được thụ hưởng những thành tựu kỳ diệu của khoa học. Tuy vậy, giá trị tinh thần không nâng cao theo tỷ lệ thuận với sự sung mãn về vật chất. Con người đang phải đối mặt với những vấn nạn đạo đức, lối sốngcách cư xử với nhau; vì càng quay cuồng theo vật chất, phiền não tham sân si càng lẫy lừng. “Khoa học không có lương tâm chỉ là sự hũy hoại linh hồn”, nhân loại đang cần - và phải cần có nền văn minh tâm linh, từ đó mới có thể tạo dựng hạnh phúc đích thực trên trái đất này.

Nhân quả thật sự không phải đơn giản và chỉ cần cho người sơ cơ, mà tất cả chúng ta đều phải hiểu tường tận để có chánh kiếnlòng tin sâu sắc về đạo lý nầy. Có Chánh kiến nhân quả, chúng ta luôn thận trọng trong từng ý nghĩ, lời nóiviệc làm để không tổn hại cho mình và cho người; chúng tađời sống xả kỷ, hòa điệu với vũ trụ vạn loại. Có thể nói, điều kiện đầu tiên của người tu là phải tin sâu nhân quả; nếu không, buông lung phóng dật mà cho là sự tự tại phóng khoáng của người đạt đạo, thì không những công phu không kết quả mà khó tránh đọa tam đồ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23023)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14049)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12976)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55103)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9164)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14440)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14161)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14201)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13881)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36315)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19874)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18164)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19208)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19141)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20280)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17635)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31525)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15934)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15017)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14679)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46171)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35935)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21048)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21595)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23396)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34377)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19484)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18945)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22940)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20182)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18363)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19839)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19527)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33411)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34476)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54517)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37719)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21130)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17875)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63641)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17379)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49655)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27436)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20276)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23027)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18891)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16324)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17912)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20934)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17361)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14467)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16864)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16370)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15995)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17465)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21978)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15100)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13504)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14363)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15385)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14983)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12696)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13348)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27396)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12514)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13188)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14484)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16233)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12403)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15416)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12866)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12200)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13197)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21644)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11277)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22723)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15082)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14945)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46180)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22448)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14572)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12618)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18900)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14730)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43856)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56969)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13834)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47482)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13651)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14572)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29007)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33309)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38376)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15397)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31229)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12525)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40388)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43414)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46660)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14412)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant