Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lễ Hội Vu Lan Bồn Và Việc Thờ Cúng Tổ Tiên Của Người Trung Quốc

24 Tháng Tám 201515:15(Xem: 9928)
Lễ Hội Vu Lan Bồn Và Việc Thờ Cúng Tổ Tiên Của Người Trung Quốc
LỄ HỘI VU LAN BỒN VÀ VIỆC
THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC 

GS. Quảng Hưng (Guang Xing) 
Nguyên Hiệp dịch


1. Giới thiệu


Lễ hội Vu Lan Bồn & việc thờ cúng Tổ Tiên của người Trung QuốcLễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên. Lễ hội này được tổ chức hằng năm vào ngày 15 tháng Bảy âm lịch. Thuật ngữ Vu lan bồn bắt nguồn từ bản kinhVu lan bồn (Ullambana, 盂蘭盆經) và từ ullambana có nghĩa là “treo ngược”. Nó mô tả số phận đáng thương của những chúng sanh đang bị treo ngược ở trong những địa ngục
 
Vì vậy nghi lễ được gọi là “Thí thực ngạ quỷ miệng bóc lửa” được thực hiện trong lễ hội để cứu người chết ra khỏi những khổ đau với việc dâng cúng thực phẩm và tài vật (thường là những vật thể bằng giấy hay những thứ tượng trưng) để cứu giúp họ. Như vậy, lễ hội nối kết mật thiết với việc thờ cúng tổ tiên mà nó đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của người Trung Quốc, đặc biệt trong xã hội Trung Quốc cổ đại. 
 
Bởi vì hiếu nghĩa là nền tảng của đạo đức Trung Quốc, nên việc dâng cúng người thân quá vãng là phận việc hiếu thảo đối với tất cả người Trung Quốc. Vì lễ Vu lan bồn kết hợp với việc thờ cúng tổ tiên của người Trung Quốc, cho nên nó lan truyền rộng rãiTrung Quốc sau khi hình thành và trở thành một trong những lễ hội quần chúng được tổ chức khắp đất nước này.

Ngày nay, lễ hội này vẫn được tổ chức hằng năm ở Đài Loan, Hồng Kông và Đông Nam Á. Tuy nhiên nó đã chấm dứt ở Trung Hoa lục địa do vì Cách mạng Văn hóa nhưng có một sự phục hưng dần dần. Lễ hội này không chỉ được tổ chức trong những chùa chiền Phật giáođạo quán của Đạo giáo mà cũng ở trong những cộng đồng địa phương với việc dâng cúng của người dân địa phương và những nhóm thương nhân
 
Ở Hồng Kông, lễ hội được tổ chức vào cuối tháng Tám và kéo dài vài ngày. Có những hoạt động khác nhau trong lễ hội này chẳng hạn như cúng thí thực cho quỷ thần, đốt giấy tiền cho người thân quá vãng, bố thí gạo cho người nghèo.v.v.. Đỉnh điểm của lễ hội là diễn kịch Mục Liên, đệ tử của Đức Phật, người đã cứu mẹ ra khỏi địa ngục.

2. Nguồn gốc của lễ Vu lan bồn
Lễ hội Vu lan bồn bắt nguồn từ kinh Ullambana do Dharmaraksa dịch sang tiếng Hán vào thế kỷ thứ III TL. Kinh Ullambana kể câu chuyện rằng ngài Mục Liên (目連, Maudgalyāyana), một đệ tử của Phật, biết rằng mẹ của mình sanh vào trong địa ngục làm ngạ quỷ vì vậy ông đi vào địa ngục để cứu mẹ. 
 
Nhưng khi Mục Liên dâng thức ăn cho mẹ, thức ăn hóa thành lửa khi đến miệng bà nên bà không thể ăn được. Mục Liên đến gặp Phật xin giúp đỡ và Đức Phật nói với ông rằng ác nghiệp quá khứ của mẹ ông quá lớn đến độ không chỉ mình ông có thể cứu bà. Đức Phật nói với Mục Liên rằng những người cúng dường cho chư Tăng vào ngày 15 tháng Bảy vào cuối mùa an cư thì họ tích lũy phước đức lớn cho cha mẹ của họ trong bảy đời quá khứ cũng như cha mẹ đời hiện tại
 
Nếu cha mẹ của họ ở trong địa ngục thì họ sẽ được sanh về thiên giới và nếu họ vẫn còn sống thì sẽ được hạnh phúcsống thọ với phước đức cúng dường ấy. Vì vậy Mục Liên đã làm theo sự chỉ dạy của Phật và với phước đức lớn ấy mà mẹ của ông được cứu khỏi địa ngục.

Bản kinh khác có tên là Bàn-nê-hoàn hậu quán lạp kinh  (般泥洹後灌臘經: Kinh về tắm tượng Phật sau khi Niết-bàn) cũng do Dharmaraksa dịch vào năm 270 đề cập rằng vào ngày 15 tháng Bảy, người ta nên cúng dường Đức Phật để cho cha mẹ bảy đời quá khứ và năm loại người thân của họ đã bị sanh vào những cõi ác và chịu khổ đau cùng cực được giải thoát khổ đau. “Quán lạp” ở đây có nghĩa là tắm tượng Phật vào cuối năm đạo (tức cuối kỳ an cư). Điều này cũng ủng hộ quan điểm của kinh Ullambana.

Phật giáo đối mặt với những thách thức và phê bình từ những nhà Nho mà đạo của họ đề cao hiếu nghĩa, vì vậy khi kinh Ullambana được chuyển dịch nó đã nhanh chóng phổ biến rộng rãiTrung Quốc vì nó được xem như là một bản kinh dạy về thực hành hiếu nối kết với việc thờ cúng tổ tiên
 
Theo truyền thống, lễ Vu lan bồn được bắt đầu bởi Hoàng đế Vũ Đế vào triều nhà Lương (502-557) bởi vì nó được tường thuật ở trong Phật tổ thống kỉ (佛祖統紀) do Chí Khánh (志磬) viết vào năm 1269 rằng, hoàng đế Vũ Đế của triều Lương cúng dường chư Tăng ở chùa Đồng Thái (同泰) vào năm 538. Nhưng theo Vu lan bồn kinh sớ hiếu hành sao (盂蘭盆經疏孝衡鈔) được Ngộ Vinh (遇榮), một người đương thời với Chí Khanh, viết vào đời Tống (960-1279), thì vị hoàng đế đầu tiên của Nam Tề (479-502) thường cúng dường chư Tăng ở những ngôi chùa khác nhau vào tháng Bảy âm lịch
 
Ngay cả Nhan Thị gia huấn (顏氏家訓, Những giáo huấn gia đình của Nhan Thị) được biên soạn ở Bắc Tề (550-577) cũng có lời khuyên đối với những thế hệ tương lai của họ là nên cúng dường chư Tăng vào ngày 15 tháng Bảy âm lịch như là một cách thức đáp trả món nợ của họ đối với tổ tiên. Đề cập của Lễ hội Vu lan bồn ở trong Nhan Thị gia huấn cũng được đề cập trong Vu lan bồn kinh sớ hiếu hành sao của Ngộ Vinh.

Tông Lẫm (宗懍, 498-561) trong Kinh sở tuế thời ký (荊楚歲時記, Một ghi chép về những lễ hội và tập tục ở Kinh Sở/ nước Sở) của mình đã ghi lại, “Vào ngày 15 tháng Bảy, Tăng Ni, tín đồ và người tại gia dâng đồ cúng dường tại những chùa chiền khác nhau. Kinh Ullambana nói rằng phước đức bao phủ bảy đời [với việc cúng dường ấy] và việc thực hành gửi đến họ cờ phướn và hoa, ca hát và đánh trống, và thực phẩm hầu như chắc chắn bắt nguồn từ điều này”.  Tông Lẫm cũng nói rằng dân chúng đã tổ chức lễ hội theo truyền thống Phật giáo với việc trang trí hoa được làm bằng sáp và lụa được gắn trên gỗ và tre.

Những chứng cứ này cho thấy rằng lễ hội Vu lan bồn (盂蘭盆會) hay lễ Cô hồn đã trở nên phổ biến trước nhà Lương vì vậy ngay cả sách Nhan Thị gia huấn (顏氏家訓) không phải của Phật giáo cũng có riêng một mục ở trong sánh và Tông Lẫm cũng đã ghi chép điều này trong cuốn sách của mình. Điều này là bởi tầm quan trọng của lễ hội Vu lan bồnthờ cúng tổ tiên mà nó cũng quá quan trọng ở Trung Quốc, tập tục được bắt đầu từ thời kỳ Đồ đá mới và nó phát triền sâu sắc hơn từ thế kỷ VI đến thế kỷ IV trước TL.

Một vài học giả nghi ngờ về tính chân thực của kinh Vu lan bồn (盂蘭盆經,Ullambana Sūtra) trong khi số khác nghĩ rằng nó là một bản kinh chân thực. Khi chúng ta xem xét nội dung của bản kinh, chúng ta thấy rằng những điểm quan trọng của bản kinh về bản chấtPhật giáo và cũng có sự hỗ trợ từ những ghi chép thuộc Phật giáo.

Thứ nhất, lễ hội Vu lan bồn nối kết mật thiết với lễ dâng y kaṭhina (phước điền y) của Phật giáo mà nó được tổ chức vào cuối kỳ an cư mùa mưa (vassa) mỗi năm và những Phật tử tại gia cúng dường thực phẩm và y áo đến Tăng chúng. Lễ kaṭhina bắt đầu từ thời Đức Phật vào thế kỷ VI trước TL và tiếp tục đến ngày nay ở những quốc gia mà ở đó Phật giáo Theravāda có mặt chẳng hạn như Sri Lanka, Thái Lan, Miến Điện và Campuchia .v.v… 
 
Ngày nay lễ kaṭhina là một lễ quan trọng ở trong những quốc gia này và được tổ chức như một lễ hội quốc gia. Dân chúng của những quốc gia này tin rằng người ta có thể có thêm phước đức khi họ cúng dường chư Tăng thực phẩm và y áo vào ngày lễ kaṭhina được tổ chức. Ngày tổ chức lễ kaṭhina có khác nhau ở mỗi nơi, bởi vì ở một số nơi kỳ an cư mùa mưa bắt đầu sớm trong khi những nơi khác thì muộn hơn. Đôi khi chênh lệch nhau một tháng. Theo truyền thống Phật giáo, lễ kaṭhina tượng trưng sự bắt đầu một năm mới ở trong lịch Phật giáo khi chư Tăng bắt đầu lại việc du hóa sau ba tháng an cư.

Thứ hai, Tăng sĩ Trung quốc đã tổ chức lễ kaṭhina vào ngày 15 tháng Bảy âm lịch theo Luật tạng (Vinaya). Điều này được ghi chép ở trong những Vinaya của những tông phái khác nhau nơi những bản dịch tiếng Hán, chẳng hạn như kinh Vinaya Matṛika (毘尼母經, Tỳ-ni-mẫu kinh), Sarvāstivādavinayavibhāṣā (薩婆多毘尼毘婆沙, Tát-bà-đa-tỳ-ni-tỳ-bà-sa), Sarvāstivāda Vinaya (十誦律, Thập tụng luật), Mahāsamghika Vinaya (摩訶僧祇律, Ma-ha-tăng-kì luật), và Mahīśāsaka Vinaya (彌沙塞部和醯五分律, Di-sa-tắc-bộ-hòa-ê ngũ phần luật), rằng ngày 15 tháng Bảy âm lịch là ngày lễ kaṭhina.

Bản dịch Hán ngữ sớm nhất của kinh mà nó ghi ngày 15 tháng Bảy âm lịch là ngày lễ kathina là kinh Pravāraṇa (受新歲經, Thọ tân tuế kinh) do Dharmarakṣa dịch (sống ở Trung Quốc từ 266-317). Bản kinh viết: “Đức Phât bảo Ananda: ông nên đánh trống ở nơi bãi đất trống này. Tại sao? Bởi vì ngày hôm nay, ngày 15 tháng Bảy, là năm mới”. Như vậy, ngày 15 tháng Bảy âm lịch đã trở thành năm mới trong lịch Phật giáoTrung Quốc. Ngày này cũng được tìm thấy trong những kinh khác, chẳng hạn như kinh Ekottarāgama (增壹阿含經, Tăng nhất A-hàm) ghi rằng ngày 15 tháng Bảy là ngày chuẩn bị cho năm mới với việc sám hối những lỗi lầm nếu có phạm phải. Như vậy, rõ ràng rằng ngày 15 tháng Bảy là ngày dành cho lễ kaṭhina mà nó được truyền vào Trung Quốc từ rất sớm.

Thứ ba, có một thực hành phổ biếnẤn Độ và những quốc gia ảnh hưởng Ấn Độ khác là người Phật tử tại gia dâng cúng cho người quá vãngngạ quỷ sau khi chư Tăng thọ thực xong. Huệ Lâm (慧琳, sống vào cuối thế kỷ VIII và đầu thế kỷ IX) trong Nhất thiết kinh âm nghĩa  (一切經音義: Thanh âm và ý nghĩa của những chữ Hán khó ở trong tất cả những kinh Phật) cho chúng ta biết rằng Vu lan bồn là tập tục của những quốc gia phía Tây (Trung Á và Ấn Độ), ở đó dân chúng cúng dường cho chư Tăng vào ngày sám hối để giúp cho người quá vãng mà họ đã tạo những nghiệp xấu và không có con cái nhưng bị sanh vào địa ngục chịu khổ đau treo ngược.

Dâng cúng cho ngạ quỷ được thực hành ngay cả vào thế kỷ VIII ở Ấn Độ như Nghĩa Tịnh, người đã viếng Ấn Độ vào thế kỷ VIII ghi chép trong ký sự Nam hải ký quy nội pháp truyện (南海寄歸內法傳) của mình, rằng sau khi chư Tăng thọ thực xong, một mâm đầy thực phẩm được dâng cúng người quá vãng và chư thần linh khác mà họ xứng đáng nhận đồ dâng cúng. Người tại gia nên mang mâm thức ăn đó đến trước vị Trưởng lão (tức Thanh văn, Sthavira) và quỳ xuống, vị Trưởng lão nên rảy một vài giọt nước và tụng đọc những bài kệ (gāthā) để chúc phúc.

Chứng cứ khác cho câu chuyện Mục Kiền Liên không có nguồn gốc ở Trung Quốc là việc phát hiện bản kịch Di Lặc hội kiến ký (彌勒會見記) ở Tân Cương vào năm 1959. Bản kịch này được viết bằng ngôn ngữ Hồi Cốt (Uighurs) và theo nghiên cứu của Quý Tiện Lâm nó có thể được dịch từ tiếng Thổ Hòa Lỗ (Tokharian). Trong vở kịch này có đề cập đến Mục Kiền Liên cứu mẹ thoát khỏi địa ngục. Vì vậy lễ hội Vu lan bồn được giới thiệu cùng với những thực hành Phật giáo khác từ chính giai đoạn đầu. Thực hành cúng dường cho chư Tăng ngày nay có thể đã bắt đầu rất sớm.

3. Tính đại chúng của lễ Vu lan bồn
Theo Pháp uyển châu lâm (法苑珠林) của Đạo Thế (?-683), những chùa chiền được nhà nước bảo trợ chẳng hạn như Tây Minh tự (西明寺) và Từ Ân tự (慈恩寺) ở kinh đô Trường An đã tổ chức lễ Vu lan bồn mỗi năm vào thời nhà Đường. Quan lại mang những đồ vật khác nhau đi cùng với những nhạc sĩ đến cúng dường cho các chùa.

Theo Tống Cao tăng truyện (宋高僧傳) của Tán Ninh (贊寧), Đạo Thế (道世) được triều đình tuyển chọn là một trong 50 vị Tăng xuất sắc để giúp Huyền Trang trong việc dịch thuật vào giữa những năm Hiển khánh (顯慶 656-661). Vì ban phiên dịch của Huyền Trang ở tại chùa Từ Ân (慈恩) nên Đạo Thế cũng dời đến ở ngôi chùa đó và về sau đến chùa Tây Minh vào năm 658 cùng với ban dịch thuật. Sau khi hoàn tất, ông tiếp tục sống ở đó cho đến khi qua đời. 
 
Vì vậy miêu tả của Đạo Thế về Vu lan bồn ở trong hai ngôi chùa được nhà nước bảo trợ này là kinh nghiệm của chính ông. Và từ miêu tả của ông, chúng ta có thông tin rằng các quan lại không chỉ dâng những phẩm vật khác nhau như thực phẩm và đồ dùng hàng ngày cho các chùa viện mà cũng đưa những nhạc sĩ đến biễu diễn. Trong suốt thời Võ Tắc Thiên, lễ Vu lan bồn tiếp tục với việc cúng dường của hoàng đế như Cựu Đường thư (舊唐書) miêu tả:

Vào ngày trăng tròn tháng Bảy năm thứ nhất Như Ý (如意, 692), những chiếc bát Vu lan được mang ra khỏi hoàng cung và gửi đến các chùa. [Hoàng đế Võ] Tắc Thiên đi cùng với những vị quan khác để cử hành lễ tại Nam môn. Dương Quýnh [楊炯] trình cho bà bài phú Vu lan bồn (盂蘭盆賦) của mình. Nó được viết rất hay và ngôn từ của nó thì ấn tượng.

Võ Tắc Thiên có lẽ là nữ hoàng đầu tiên tham dự lễ cúng dường Vu lan bồn cùng với nhiều quần thần khác. Không có ghi chép nào về những vị hoàng đế nhà Đường khác trước bà tham dự lễ này. Dương Quýnh (楊炯 650-692) là một trong bốn văn nhân sáng chói vào đầu triều Đường và những văn phú của ông tồn tại đến ngày nay; nó mô tả rõ ràng rằng Lễ Vu lan bồn liên quan mật thiết đến việc thực hành báo hiếu.

Việc cúng dường đến các chùa chiền trong lễ Vu lan bồn hẳn đã trở thành một trong những nhiệm vụ chính thức được thực hành mỗi năm trong suốt thời Hoàng đế Đường Huyền Tông như Đường lục điển (唐六典: Những luật lệ hành chính của sáu bộ dười triều Đường), một tác phẩm được trình cho hoàng đế vào năm 739, mô tả bổn phận của nó đối với lễ Vu lan bồn là “vào tháng Bảy… vào ngày 15, bộ hoàn tất bát Vu lan”. Do đó, có thể kết luận rằng Công bộ của vương triều hẳn chịu trách nhiệm trong việc cung cấp đồ vật được sử dụng trong lễ cúng thí cô hồn của hoàng gia vào giữa triều Đường. 
 
Về sau những hoàng đế như Đại Tông (代宗 = Lý Dự 李豫) và Đức Tông (德宗 = Lý Thích 李適) tham dự lễ Vu lan bồn với tư cách cá nhân. Miêu tả sớm nhất và chính thức đầy đủ về việc tổ chức Vu lan bồn vào năm 768 ở Trường An thì được tìm thấy nơi hồi ký của Vương Tấn (王縉, niên đại 781) trong Cựu Đường thư (舊唐書). Vương Tấn, em của thi nhân nổi tiếng Vương Duy (王維 701-756), là đại thần luôn chỉ trích sự ủng hộ Phật giáo mạnh mẽ của Đại Tông. Theo hồi ký của Vương:

Vào ngày trăng tròn tháng Bảy, Đại Tông cho làm những chiếc bát Vu lan ở cung điện. Chúng được trang trí bằng lông chim bói cá vàng và hao phí đến một triệu tiền. Ông cũng bày biện bàn tiên tổ bảy đời từ hoàng đế Cao Tổ trở xuống. Chúng được che phủ bằng cờ và lộng rồng, với tôn danh của họ được viết trên cờ để dânchúng biết [bàn nào tượng trưng cho vị tổ tiên nào]. Những chiếc bàn này được mang ra khỏi phạm vi hoàng gia để trưng bày ở những ngôi chùa Phật và đạoquán. Vào ngày này, tất cả quần thần với tùy tùng của họ sắp thần đội ngũ tại Hòa minh môn để chờ đoàn diễu hành. Cờ hoa, ca vũ, và tiếng hò reo chào đón ngập tràn các đường phố.

Điều này cũng được ghi chép trong Phật tổ thống kỷ (佛祖統紀) được viết vào năm 1269, rằng vào năm 768, hoàng đế Đại Tông đã tổ chức lễ hội Vu lan bồn ở trong cung điện của mình. Ông ra lệnh đặt các bàn thờ của bảy vị tiên đế ở đó và các đại thần cùng quan lại đến bày tỏ niềm tôn kính của họ và tham dự buổi lễ. Như vậy lễ này trở thành một sự kiện thường lệ. Ở đây lại có bằng chứng cho thấy rằng lễ hội Vu lan bồn nối kết mật thiết với việc thờ cúng tổ tiênthực hành hiếu nghĩa.

Cũng theo Phật tổ thống kỷ, vị hoàng đế khác là Đức Tông đã ra lệnh xây một ngôi chùa đặt tên là An Quốc (安國) vào năm 779 để tổ chức lễ hội Vu lan bồn. Chính hoàng đế cùng với những đại thần và quan lại đến ngôi chùa này để tham dự buổi lễ.

Trước Đại Tông và Đức Tông, các vị hoàng đế thường phái quan lại mang đồ cúng dường đến các chùa vào lễ Vu lan bồn như chúng ta đã thấy ở trên, nhưng Đại Tông và Đức Tông đã thay đổi luật lệ và họ đã cho chuyển bàn thờ đến hoàng cung và đích thân tham gia buổi lễ bằng việc dâng cúng. Như vậy, việc tham gia của hoàng đế vào lễ hội Vu lan đã khuyến khích tình cảm và lòng mộ đạo của quần chúng vì nó đặc biệt nối kết với báo hiếuthờ cúng tổ tiên
 
Như vậy, lễ Vu lan đã trở thành một sự kiện quốc gia vào triều Đường và được tổ chức mỗi năm với sự tham gia của hoàng gia, và nó được tổ chức ở khắp vương quốc bởi tất cả mọi người cho dù họ là Phật tử hay không bởi vì sự nhấn mạnh là vào việc kính trọng cha mẹ. Vương triều thậm chí cung cấp bát Vu lan dùng cho việc dâng đồ cúng đến các chùa Phật và đạo quán.

Vị Tăng Nhật Bản Ennin (Viên Nhân/ 圓仁), người hành hương đến Trung Quốc thời Đường vào thế kỷ IX, đã mô tả cảnh tượng tại những ngôi chùa địa phương ở Tràng An vào năm 844 trong cuốn du ký của mình:

Việc cúng bái được thực hiện tại những ngôi chùa khác nhau ở kinh thành [Trường An] vào ngày 15 tháng Bảy. Tại mỗi ngôi chùa [người ta] bày những ngọn nến sặc sở, bánh màu, hoa giả, cây trái và những thứ khác, tranh đua nhau trong sự khan hiếm. Thông thường đồ dâng cúng được bày ở trước Phật đường, và người dân khắp kinh thành viếng dạo các ngôi chùa với sự vui thích. Nó thật sự là một lễ hội hoành tráng. Năm nay đồ cúng đặt bày tại những ngôi chùa khác nhau đã vượt trội đồ cúng thường niên.

Không chỉ người thế tụcchư Tăng cũng cúng dường Phật và Tăng-già trong việc tưởng niệm người thân quá vãng của họ. Tông Mật (宗密 780-841), một Tăng nhân xuất chúng rất được kinh trọng, đã viết một luận giải về kinh Ullambana, là một chứng cớ hùng hồn về vai trò thiết yếu của lễ Cô hôn vào đầu thế kỷ IX trong xã hội Trung Quốc. Tông Mật nói nơi lời tựa của cuốn luận, “Mỗi năm vào ngày bố-tát của Tăng-già, bốn vật dụng cần thiết (thực phẩm, y áo, sàng tọa và thuốc thang) được dâng cúng lên Tam bảo. Vì vậy Tông Mật thực hiện điều này trong nhiều năm”. Đối với Tông Mật, lễ Vu lan bồn là thể hiện tối cao của tâm hiếu, một khái niệm mà ông giải thích trong luận giải của mình, cuốn sách đề cập đến kinh cùng những ví dụ của Phật giáo và những cổ thư thuộc truyền thống Nho giáo.

Sau khi Phật giáo Mật tông được truyền vào, một loại nghi lễ được gọi là Diệm khẩu (焰口, miệng lửa) được sáp nhập vào trong lễ Cô hồn đã được thiết lập. Kinh Cứu bạt diễm khẩu ngạ quỷ đà-la-ni (救拔焰口餓鬼陀羅尼經) được Amoghavajra (705-774) dịch vào triều Đường Đại Tông là nguồn kinh chính dành cho nghi lễ
 
Những phương pháp mới có mặt trong Cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ đà-la-ni là nằm trong cuốn nghi lễ Thí chư ngạ quỷ ẩm thực cập thủy pháp (施諸餓鬼飲食及水法)và ở trong một loạt những cuốn sách khác liên quan đến việc cứu khổ chúng sanh được hoàng gia chọn lựa và nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn. Chính nghi thức thuộc thế kỷ thứ VIII này đã được Kukai (空海/ Không Hải) đưa vào Nhật vào thế kỷ thứ IX, hình thành nên hạt nhân của lễ Obon ở đó.

Teiser đã mô tả rất hay cách quần chúng đã tổ chức lễ Vu lan bồn vào đời Đường và ở đây tôi chỉ tóm tắt miêu tả của ông được tìm thấy ở trong cuốn Lễ Vu lan vào thời Trung cổ Trung Quốc (中國中古時期的盂蘭節/ Trung Quốc trung cổ thời kỳ đích Vu lan tiết). Những đám người đông đúc từ mọi tầng lớp xã hội đã đến những ngôi chùa để cúng dường vì lợi ích của tổ tiên họ vào ngày rằm tháng Bảy. 
 
Quần chúng mang đồ cúng của họ, quan lại mang đồ cúng do nhà nước cung cấp. Nhạc sĩ và những người làm trò tiêu khiển nổi tiếng cũng là một phần của sự nhộn nhịp ởnhững lễ hội thời trung cổ, mà chúng kết hợp một dạng lễ hộitiêu khiển với những đề tài mang tính tôn giáonghiêm trang hơn. Đồ cúng mà quần chúng cung cấp bao gồm nhiều thứ: hoa giấy, đồ khắc chạm từ gỗ tre, và đồ ăn thức uống ngon. Nhà nước thường sử dụng dịp này để gửi quà biếu đến những ngôi chùa được bảo hộ chính thức khắp vương quốc. Những món quà như vậy được cơ quan công khố (Công bộ) của triều đình cung cấp, trong khi phước đức có được từ bố thí dành cho tổ tiên của mọi người
 
Số tiền lớn do những thí chủ giàu có bố thí được sử dụng để sửa sang chánh điện và đãi tiệc chay cho tất cả khách viếng thăm. Hầu hết những đồ hiến tặng này được chuyển trực tiếp đến Tăng-già hay chuyển nhượng cho đại diện Tăng-già ở gần các lễ hội. Nghi lễ cúng dườngđơn giản những là phần rất quan trọng của một buổi lễ lớn hơn. Việc cúng dường thực tế được kết hợp với kệ tụng tán Phật, Pháp và Tăng.

Xem xét từ một bản nghi thức cúng kiếng thời đầu nhà Tống, cho thấy ở trong chùa dân chúng cầu Mục Liên và những thành viên Tăng-già khác giúp tổ tiên họ thoát khỏi khổ đau nơi ác thú. Những người cầu nguyện mà họ dâng đồ cúng thường chọn ra những người quá vãnghồi hướng phước đức cho người ấy. Ví dụ, mộttán ca có niên đại cuối nhà Đường đã đề cập đến hai “hoàng tử” đã hy sinh mạng sống ở biên giới phía Tây, có thể trong việc phục vụ nhà nước:

Vào lễ Trung nguyên, một buổi sáng yên lành vào đầu mùa thu, một điện thờ dành cho việc thực hành Vu lan được thiết lập. Trong việc bày biện một bữa tiệc cho sựđộ thoát họ. Vị Đại bảo vệ, vị thống lĩnh quận trưởng, chính mong muốn chân thành nhất của tôi là tạo phước đức vì lợi ích của hai vị hoàng tử.

Phần quan trọng khác của lễ Vu lan bồn là những bài giảng mang tính đại chúng (俗講/tục giảng) về đạo làm con và bố thí. Câu chuyện về Mục Kiền Liên cứu mẹ được giảng trong các chùa lập đi lập lại suốt lễ hội. Để cho quần chúng hiểu nó dễ dàng, kinh Ullambana được viết lại như bài giảng phổ thông với việc bổ sung các chi tiết vào câu chuyện mà nó được tìm thầy ở những hang động Đôn Hoàng.

ít nhất bảy bản biến văn (變文) liên quan đến câu chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ được tìm thấy ở những hang động Đôn Hoàng: một bản biến văn về Mục Kiền Liên cứu mẹ ra khỏi địa ngục, với các hình ảnh, gồm một cuộn, với lời tựa Đại Mục Kiền Liên minh gian cứu mẫu biến văn tịnh đồ nhất quyển tịnh tự (大目乾連冥間救母變文并圖一卷并序) được viết vào năm 921; ba bản biến văn Mục Kiền Liên cứu mẹ ra khỏi địa ngục (大目乾連冥間救母變文); ba bản biến văn về Mục Kiền Liên (大目乾連變文) và một trong số chúng được viết vào năm 977.

Theo nghiên cứu của các học giả, những bản văn này được gọi là biến văn (變文) để nhấn mạnh chức năng hóa độ quần chúng của nó. Biến văn bao gồm hai phần: văn xuôi và thơ. Văn xuôi là bản tường thuật câu chuyện trong khi thơ được hát đểlàm tăng sự thích thú. Những bức tranh được vẽ để mô tả câu chuyện trong bản văn mà chúng được gọi là biến tướng (變相) cũng được trình bày.

Nói chung, biến văn được thực hiện trong việc kết hợp với những tranh vẽ biến tướng (biến tướng đồ); hay nói một cách đại khái, nó dẫn dắt sự theo dõi các bức hình của người xem thông qua việc tụng đọc và hát. Những phần được nói kể lại câu chuyện trong khi phần thơ được hát làm tăng thêm ấn tượng. Biến văn là những bản văn gồm văn xuôi và thơ dành cho việc biểu diễn trước khán thính giả. Như vậy câu chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ trở nên vô cùng phổ biếnxã hội Trung Quốc vào đời Đường thông qua những thuyết giảng phổ thông.

4. Ảnh hưởng Phật giáo vào Lễ hội Trung nguyên của Đạo giáo

Đạo giáo cũng tổ chức lễ cúng ma quỷ nhưng họ đặt tên là lễ Trung nguyên (中元節 Trung nguyên tiết). Tuy nhiên, lễ Trung nguyên bắt đầu ở Trung Quốc không biết từ khi nào vì không có ghi chép trước thời Nam Bắc triều. Một số học giả cho rằng lễ Trung nguyên của Đạo giáo được tổ chức do ảnh hưởng của Phật giáo vào thời Nam triều khi lễ Vu lan của Phật giáo bắt đầu vào thời Nam Bắc Triều
 
Tuy nhiên, việc thờ cúng tổ tiên cùng với việc cúng ma quỷ vào ngày rằm tháng 7 âm lịch có thể được người Trung Quốc thực hành trước khi Phật giáo được truyền vào Trung QuốcĐạo giáo dần trở thành một tôn giáo bằng việc đồng hóamô phỏng theo những triết thuyếtthực hành Phật giáo vào thời Nam Bắc triều nên họ cũng đồng hóa lễ cúng cô hồn bằng việc kết hợp nó với ngày tháng truyền thống được nối kết mật thiết với niềm tin vào ma quỷ.

Kinh Ullambana và nghi lễ cúng thí ngạ quỷ vào ngày rằm tháng Bảy đã ảnh hướng vào Đạo giáo rất lớn đến độ họ cũng phát triển tư tưởngnghi lễ riêng của mình đối với việc cúng thí và cứu độ ma quỷ. Vào triều Đường, do vì sự ủng hộ Đạo giáo của hoàng đế, lễ Trung nguyên của Đạo giáo trở nên phổ biến đặc biệt vào thời Đường Chánh Tông. Như được nhà chiêm bái người Nhật Ennin miêu tả, rằng tất cả phẩm vật ở trong chùa chiền Phật giáo được đưa đến những đạo quán để cúng cho Thiên Tôn.

Một chỉ dụ (từ hoàng đế) ban rằng tất cả hoa quả, thuốc men và những thứ khác được cúng dường tại những Phật đường của những ngôi chùa khác nhau được đưa đến các đạo quán để dâng cho Thiên Tôn. Vào ngày 15, thiên tử viếng thăm đạo quán. Ông triệu gọi dân chúng đến xem, nhưng họ trách mắng, “Tịch thu phẩm vậtcủa Phật để cúng cho thiên thần - ai dám đến xem?” Thiên tử ngạc nhiên khi dân chúng không đến. Nhiều chùa chiền buồn phiền vì phẩm vật của họ bị tịch thu.

5. Sự phát triển lễ Vu lan bồn sau đời Đường
Từ thế kỷ X trở về sau, triều Tống và sau đó, lễ Vu lan bồn tiếp tục tính đại chúng của nó trong quần chúng. Có ít yếu tố tôn giáo hơn và thêm việc thực hành hiếu nghĩa đặc biệt liên quan đến thờ cúng tổ tiên. Ngay cả thuật ngữ Đạo giáoTrung nguyên được sử dụng thường xuyên hơn thuật ngữ Phật giáoVu lan bồn. Một đặc tính quan trọng của lễ hội là việc kết hợp cả những tư tưởngnghi lễ của Phật giáoĐạo giáo. Điều này được ghi chép ở trong Đông kinh mộng hoa lục (東京夢華錄) do Mạnh Nguyên Lão (孟元老) viết vào triều Bắc Tống (960-1127). Dưới phần về lễ Trung nguyên, ông nói,

Một vài ngày trước rằm tháng Bảy, nhiều loại đồ vật khác nhau dành cho người chết được bán ở chợ chẳng hạn như giày, mũ nón, giây đai giả vàng bạc, áo quần năm màu, tất cả được làm bằng giấy để bán…  Kinh Trung nguyên Mục Liên (Ullambana sutra) cũng được in bán. Bát Vu lan giống như những ngọn đèn được làm và được gắn trên đầu một cây tre với ba chân. Áo quần và tiền giấy được treo trên đó và được đốt.

Mạnh Nguyên Lão còn nói thêm rằng dân chúng dâng cúng những phẩm vật chay cùng những thứ khác cho tổ tiên của họ và viếng thăm nghĩa địa, chùa Phật và đạo quán. Hoàng đế cũng đưa xe đến nghĩa địa, quan lại sắp xếp những cuộc hội họp lớn với những bàn thờ dành cho những cô hồn tử vong trong chiến trận với việc đốt những đống lớn tiền giấy. Mạnh Nguyên Lão cho chúng ta biết rằng vào triều Tống, câu chuyện Mục Liên cứu mẹ đã được đặt vào giai đoạn chuyển thành kịch nghệ thay cho những thuyết giảng đại chúng về câu chuyện.

Lục Du (陸遊 1125-1210), một người cùng thời với Mạnh Nguyên Lão, cũng mô tả tình huống tương tự về lễ Vu lan bồn. Lục Du nói Vào giữa tháng Bảy, quần chúng dâng thực phẩm chay đến tổ tiên của họ. Họ làm những chiếc bát bằng tre bỏ đầy tiền giấy trong đó và sau đó gắn trên đỉnh cây tre rồi đốt nó. [Dân chúng] dự đoán thời tiết theo cách chiếc bát rơi. Nếu chiếc bát rơi về hướng Bắc, có nghĩa là sẽ có mùa đông lạnh, nếu nó rơi về hướng Nam sẽ có mùa đông ấm, nếu nó rơi về hướng Đông hoặc hướng Tây sẽ có một mùa đông ôn hòa. Nó được gọi là bát Vu lan. Đây là cách nói của quần chúng

Bản viết của Lục Du cho thấy rằng lễ Vu lan bồn đã trở thành một lễ hội đại chúng đối với tất cả mọi người. Nó nối kết mật thiết với lễ thờ cúng tổ tiên và thậm chí đã phát triển những yếu tố mê tín.

Vì vậy Ngô Tự Mục (吳自牧) của  triều Nam Tống (1127-1279) nói ở trong Mộng lương lục (夢梁錄) rằng vào ngày Rằm tháng Bảy, những Đạo gia thực hành nghi lễ dành cho tổ tiên và những người chết khác ở trong Đạo quán của họ, những Tăng sĩ Phật giáo bắt đầu lễ Vu lan bằng việc thực hiện dành cho những người mà họ cúnggạo và tiền cho tổ tiên của họ. 
 
Hoàng gia cũng đánh xe ngựa đến nghĩa địa của hoàng gia để tỏ lòng tôn kính đối với tiên tổ và những hầu thiếp của mình. Bản văn cũng ghi chép đặc điểm mới quan trọng khác của lễ Vu lan: thả đèn trên sông để soi sáng thần sông. Hoàng gia cũng tham gia vào lễ hội bằng việc cúng tiền và gửi người hầu của họ đến thả 10 ngàn ngọn đèn trên sông. Điều này trở thành một đặc điểm mới của lễ hội.

Truyền thống thả đèn trên sông này tiếp tục đến thời nhà Minh và nhà Thanh. Lưu Đồng (劉侗) và Vu Dịch Chánh (于奕正) trong cuốn Đế kinh cảnh vật lược (帝京景物略) miêu tả cảnh tượng của kinh đô ở triều Minh, “Vào ngày rằm tháng Bảy tất cả chùa chiền tổ chức lễ Vu lan và vào buổi tối đèn được thả trên sông và được gọi là thả đèn sông”. Lưu Đồng nói rằng giống như lễ Thanh minh, dân chúng cũng viếng nghĩa địa và dâng cúng tổ tiên của họ.

Vào triều Minh, lễ Vu lan bồn đã trở thành một lễ hội đại chúng và người dân từ mọi giai tầng xã hội tham gia vào việc cúng tổ tiên. Châu Hoằng (袾宏 1535-1615) nói ở trong Chánh ngoa tập (正訛集) của mình rằng dân chúng vào thời của ông nghĩ rằng lễ Vu lan bồn là chỉ để cúng thí cho ma quỷthần linh. Điều này cho thấy rằng dân chúng chỉ thực hiện những hoạt động liên quan đến thờ cúng tổ tiênyếu tố tôn giáo dần rút ra khỏi lễ hội.

6. Kịch Mục Liên
Một trong những mục quan trọng trong lễ Vu lan bồn là việc thực hiện kịch Mục Liên mà nó bắt đầu vào đời nhà Đường như là một buổi nói chuyện nhưng trở thành một trong những hoạt động chính vào triều Tống khi biến văn bị ngăn cấm. Tính đại chúng của kịch Mục Liên được ghi chép trong những cuốn sách văn học triều Tống như Đông kinh mộng hoa lục (東京夢華錄) do Mạnh Nguyên Lão (孟元老) viết. Ông nói rằng trong lễ Vu lan bồn, “Kịch có tên Mục Liên cứu mẹ được các nghệ sĩ thực hiện trong bảy đêm cho đến ngày 15, và khán giả đã tăng gấp đôi”. Sự ghi chép này là hoàn toàn quan trọng vì nó cho thấy rằng kịch Mục Liên cứu mẹ đã được thực hiện vào triều Bắc Tống. Đây là lần đầu tiên việc miêu tả đầy đủ về vở kịch.

Sau đó vào đời Minh, Trịnh Chi Trân (鄭之珍) đã biên soạn Mục Liên cứu mẫu hành hiếu hí văn (目連救母行孝戲文). Trịnh Chi Trân đã mở rộng vở kịch vớinhiều thêm thắt được rút từ những nguồn khác nhau, chẳng hạn như những câu chuyện dân gian, Tây du ký (西遊記) và những chuyện khác. Như vậy nó trở thành một bản kịch gồm 104 mục. Theo Đổng Hàm (董含1624-?) trong Thuần hương chuế bút (蓴鄉贅筆), vào năm 1684, hoàng đế Khang Hi (康熙) ra lệnh dùng một ngàn đồng tiền vàng để kiến thiết những sân khấu ở cổng sau hoàng cung để trình diễn kịnh Mục Liên truyền kỳ (目連傳奇).

Trương Đại (張岱 1597-1679) triều nhà Minh ở trong Đào am mộng ức (陶庵夢憶)của mình, ở phần kịch Mục Liên (目連戲) ở trong tập thứ sáu đã mô tả cảnh tượng đầy đủ của vở kịch được thực hiện trong xã hội.

Vở kịch được thực hiện dành cho việc giải trí và giảng dạy đạo đức hơn là báo hiếuthờ cúng tổ tiên. Những người thực hiện được huấn luyện tốt đến độ họ thực hiện cảnh địa ngục rất sống động theo họa sĩ triều Đường Ngô Đạo Tử (吳道子), người đã vẻ những tranh minh họa về địa ngục. Nó lôi cuốn rất đông quần chúng đến xem.

Vào triều Thanh, Trương Chiếu (張照1691-1745) biên soạn Khuyến thiện kim khoa (勸善金科) theo lệnh của hoàng đế và nó được trình diễn trên sân khấu ở trong hoàng cung mỗi năm. Vở kịch bao gồm 240 tiết đoạn và nó là vở kịch dài nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ở phần giới thiệu, vở kịch nói rằng nó được đặt cơ sở trên Mục Liên ký (目連記) mà nó phát xuất từ kinh Ullambana ở trong kinh điển Phật giáo
 
Nhiều câu chuyện và nhân vật quan trọng Trung Quốc được sáp nhập vào trong vở kịch và mục đích là để quảng bá lòng hiếu thảo và sự trung nghĩa. Chính từ câu chuyện Mục Liên này mà nhiều tiểu thuyết nổi tiếng, kịch, truyện cổ tích và những sách vở quý giá khác được hình thành ở trong xã hội, cả cho việc giải tríquảng bá lời dạy đạo đức.

7. Nghi lễ Phật giáo
Lễ Vu lan trở thành một yếu tố quan trọng trong những ngôi chùa Phật giáo và được tổ chức mỗi năm. Chúng ta có thể thấy điều này từ một thanh quy quan trọng của Phật giáo được gọi là Bách Trượng thanh quy (百丈清規).

Ấn bản Bách Trượng thanh quy đời Nguyên của Đức Huy (德輝) ở chương thứ bảy mô tả về Vu lan bồn như sau: “Trong suốt mười ngày đầu của tháng Bảy, vị Tăng tri sự liệt những bản kinh dành cho lễ Vu lan bồn cho Tăng chúng tụng đọc và cũng chuẩn bị đồ vật bố thí. Vào ngày 13, việc tụng đọc kinh Lăng-già kết thúc. Vào ngày 15, kỳ an cư kết thúclễ Vu lan bồn sẽ bắt đầu vào buổi tối với việc tụng kinh và cúng thí cô hồn”.

Nhưng ở trong bản Huyễn trụ yêm thanh quy (幻住閹清規 ) đời Nguyên và Minh nói rằng “Vào ngày 15 tháng Bảy, người giải tán và vào buổi tối lễ Vu lan bắt đầu với việc dâng cúng người chết. Đồng thời cũng sẽ có một danh sách những bản kinh để chư Tăng tụng theo ý muốn của họ”. Như vậy, phần chính của Vu lan bồn là dâng cúng người quá vãng và điều này tiếp tục cho đến triều Minh.

Vào triều Thanh, Nghi Nhuận (儀潤) đã viết Bách Trượng thanh quy chứng nghĩa ký (百丈清規證義記), lại nhấn mạnh việc cúng dường chư Tăng và mong muốn thực hiện hai điều cùng nhau: tôn kính Phật giáo và dâng cúng người quá vãng. Vì vậy ông miêu tả chi tiết cách thực hiện lễ Vu lan bồn trong cuốn luận của mình, nhưng không nhiều chùa theo những chỉ dẫn của ông.

8. Lễ Vu lan bồn ở phần còn lại của châu Á
Lễ Vu lan bồn cũng được truyền vào Hàn Quốc và Nhật Bản cùng với Phật giáo, mà nó trở thành một trong những lễ hội quan trọng ở Nhật giống như như lễ Tết và dân chúng tổ chức nó mỗi năm vào ba ngày 13, 14, và 15 tháng Tám và đó là những ngày nghỉ ở Nhật. Chùa chiền bắt đầu chuẩn bị một tháng trước và dân chúng sẽ viếng thăm gia đình của họ và dành ba ngày tại nhà để thực hiện bổn phận hiếu nghĩa chẳng hạn như dâng cúng tổ tiên của mình. Những việc tổ chức khác chẳng hạn như ca múa, thả đèn sông là nhưng phần của lễ hội. Nhưng phần quan trọng nhất là cúng bái tổ tiên
 
Mỗi gia đình sẽ đốt một đống lửa nhỏ trước nhà để nghinh đón tổ tiên của mình vào ngày 13, sau đó dâng cúng những loại thực phẩm khác nhau lên tổ tiên của họ. Vào ngày 16, người ta lại đốt một đống lửa nhỏ trước nhà để cung tiễn ông bà của mình.

Ở Đông Nam Á, nơi có cộng đồng người Trung Quốc đông đảo như ở Malaysia và Thái Lan, lễ Vu lan bồn cũng được tổ chức mỗi năm để cúng tổ tiên.

Tóm lại, lễ Vu lan bồn bắt đầu từ truyền thống Phật giáodần dần trở thành một trong những lễ hội quan trọng ở Trung Quốc và Đông Á với việc thờ cúng tổ tiên như là trọng tâm của tất cả mọi hoạt động chẳng hạn như dâng cúng cho người quá vãngthực hiện kịch Mục Liên. Như vậy, lễ hội Vu lan bồn là một trong những dịp quan trọng cho việc thực hành hiếu nghĩa đối với người Trung Quốc và như một kết quả nó thúc đẩy sự hòa nhập của Phật giáo vào văn hóa Trung Quốc.

Nguyên Hiệp dịch

Source: Journal of the Centre for Buddhist Studies, Sri Lanka, VOL. IX, pp.123-143.
* Giáo sư Quảng Hưng hiện đang giảng dạy tại Trung tâm Nghiên cứu Phật học, Đại học Hongkong.
*Vì bài viết khá dài, người dịch đã lược bỏ phần chú thích của tác giả. Bạn đọc có thể tham khảo phần chú thích đầy đủ ở nguyên tác theo nguồn được dẫn ở trên.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22893)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13949)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12898)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54946)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9056)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14337)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14078)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14117)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13806)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36145)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19774)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18093)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19098)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19038)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20186)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17544)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31379)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15846)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14892)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14606)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46041)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35792)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20947)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21468)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23246)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34162)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19402)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18817)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22821)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20080)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18264)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19734)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19452)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33301)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34299)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54353)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37542)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21037)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17792)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63446)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17273)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49475)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27232)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20166)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22895)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18808)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16247)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17786)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20846)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17269)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14386)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16782)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16279)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15920)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17379)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21855)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15003)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13404)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14300)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15294)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14906)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12586)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13272)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27306)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12421)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13111)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14401)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16127)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12324)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15310)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12804)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12125)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13112)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21500)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11202)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22573)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14937)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14858)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46039)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22319)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14369)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12517)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18795)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14629)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43694)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56800)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13758)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47342)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13563)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14459)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28873)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33164)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38244)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15322)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31096)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40203)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43241)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46466)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14314)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant