Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đóa Hồng Bên Hoa Trắng

28 Tháng Tám 201516:09(Xem: 10496)
Đóa Hồng Bên Hoa Trắng
ĐÓA HỒNG BÊN HOA TRẮNG 

Huyền Lam

Doa Hong ben hoa trang

 
Trong phòng cách ly dành cho người sắp từ giã cõi đời, người phụ nữ tuổi gần 60 nằm bất động.  Điều duy nhất cho biết bà còn sống là màn hình máy y khoa biểu hiện nhịp tim đập rất chậm.  Bà nằm đó, biết đứa con trai duy nhất từ tiểu bang xa đang bay về, bà muốn dồn hết nguồn sinh lực còn lại mỉm cười với nó lần cuối trước khi vĩnh viễn rời xa thế giới này.

***

Ba mươi năm trước,  buổi sáng sớm chị Du trên chiếc thuyền định mệnh đi vào vịnh Thái Lan bị lốc xoáy lật ngang giữa biển.  Cũng may chị biết bơi, trong lúc vẫy vùng dưới nước chị, vơ được chiếc can nhựa lớn dùng để chứa dầu.  Ngụp lặn sặc sụa  giữa từng đợt sóng đánh qua đầu, trong cơn khủng hoảng tột cùng, chị cảm được đôi tay nhỏ ôm cứng cổ mình.  Tấm thân bé bỏng đang nằm trên lưng chị run từng cơn.  Nó cũng giống chị trong giây phút kinh hãi, bấu víu vào mọi vật để sống còn.    Bỗng nhiên đứa bé kêu khóc:

- Mẹ..mẹ!

- Là trai!   Chi Du nhủ thầm.

Sợ bé mỏi tay buông chìm dưới biển, chị vuốt nhẹ cánh tay nó ra chiều vỗ về.  Một tay ôm cứng thùng dầu, một tay chị khó khăn gỡ đứa bé, kéo mạnh nó tuột khỏi cổ, chuyển ra phía trước, để đầu  nằm trên bờ vai mình, ôm quanh ấp ủ.

 - Bé nhỏ quá, chắc chỉ hơn một tuổi!

Gió rít mạnh từng cơn, bắn những hạt mưa vào mặt vào thân, rát cả thịt da.  Sóng đưa lên, nhồi xuống, xô đẩy thùng dầu tứ phía.  Cả hai sinh linh ngộp nước ho sặc sụa, nhắm nghiền mắt, mặc thiên nhiên chơi trò vận mệnh.  Ở nơi đây trí tuệ, địa vị, quyền lực, tiền tài đều không còn giá trịNiềm tin vào đấng thiêng liêng là bảo bối duy nhất còn lại cho chị Du toàn tâm gởi đến, chị niệm thầm:

-     Nam mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát.

Ba mươi  phút sau, cơn giông trôi qua, sóng dịu đi, chị Du phần nào bình tâm trở lại.  Giữa trời nước bao la sóng đã  đẩy xa nhấn chìm tất cả, mất dấu vết con người.   Không biết đã trôi bao lâu, khi ánh nắng xế chiều, chị thấy xa xa dưới đường chân trời dáng con tàu mỗi lúc một lớn lên.   Chẳng mấy chốc con tàu chở hàng khổng lồ sừng sững trước mặt.  Chị muốn đưa tay vẫy gọi cầu cứu, nhưng sợ tuột mất thằng bé giữa sóng nước chập chùng.  Con tàu lững thững lướt qua, chị ngoái nhìn ánh mắt tha thiết van lơn, mong sao có người thấy chị trong lòng đại dương mênh mông.  Bỗng nhiên nó dừng lại ở khoảng cách khá xa, ít phút sau thủy thủ tàu hàng thả chiếc xuồng nhỏ chạy về hướng chị.  
Người thủy thủ mặc áo phao nhảy xuống nước, móc giây an toàn để đem đứa bé lên trước. Nó hoảng hốt nhìn chị khóc gào lên: 

- Mẹ, Mẹ..!

Đến phiên chị được kéo lên, người thủy thủ giao bé trai đang khóc gào cho chị ẩm.  Chị ôm vào lòng.  Nó ôm chặt lấy chị mừng rỡ, ép đầu vào ngực, gọi ngọt ngào: 

- Mẹ!

Chị Du ràn rụa nước mắt giữa ngổn ngang xúc cảm.  Phần mừng được cứu sống, phần rung cảm mối tình thiêng liêng ấm áp chợt đến mà chị đang ôm ấp vào lòng.  Chị biết định mệnh đã gắn mình với đứa bé.

Khi làm thủ tục định cư tại nước ngoài, chị đặt tên Minh lấy họ Nguyễn của chị cho đứa bé.  Chị khai thật hoàn cảnh với cơ quan di trú và các cơ quan tìm kiếm thân nhân, ngoài ra không cho ai biết vì sợ ảnh hưởng đến tâm sinh lý đứa nhỏ. Khi ở trại tạm trú Mã Lai chờ ngày định cư tại Hoa Kỳ, người đồng hương đều nghĩ họ là hai mẹ con ruột vì thấy chị và bé Minh gắn bó hết sức thắm thiết.  Nhận bé Minh làm con, chị Du biết cuộc đời thanh xuân độc thân sẽ khó vẹn toàn.  Tuy nhiên, kể từ giây phút đứa bé ôm cứng chị giữa làn ranh sống chết, chị đã xem nó như phần máu mủ thiêng liêng không thể cắt rời.

Giống như hầu hết người Việt đến Hoa Kỳ vào đầu thập niên 1980, cuộc sống chị Du khá vất vả trong những năm đầu dù Bộ Xã Hội có trợ giúp phần nào cho gia đình mẹ "góa" con côi.   Chị làm đủ việc từ hái dâu, rửa chén nhà hàng nuôi bé Minh lớn theo năm tháng.  Khi bé Minh đến tuổi vào mẫu giáo, ngày đầu dẫn con đi học, bé ôm chị hôn lấy hôn để vào hai gò má, xin được ở nhà cho mẹ khỏi buồn.  Chi Du nghe vừa buồn cười vừa cảm động.  
Năm bé Minh lên 6 tuổi, chị Du cho bé gia nhập Gia Đình Phật Tử tại ngôi chùa vừa được thành lập nơi thành phố chị cư ngụ.  Tại đây vào mỗi chủ nhật, bên cạnh học làm người tốt theo lời dạy của Đức Phật, bé Minh được học tiếng Việt, học văn hóa Việt.  

Bé Minh là niềm hạnh phúc lớn cho chị Du trên đất khách quê người.  Dù không sinh ra bé Minh nhưng tình thương chị dành cho bé không khác tình mẹ dành cho đứa con ruột thịt.  Niềm hy vọng tìm được ba mẹ ruột cho bé Minh cũng chìm theo năm tháng.  Dù đăng ký khắp nơi nhưng không cơ quan nào tìm được tin tức người sống sót trên con thuyền định mệnh.  Minh do quá bé nên không còn ký ức chuyến đi khắc nghiệt.  Nó chỉ biết chi Du là người mẹ cho nó tình thương vô bờ, chăm lo từng bữa ăn, giấc ngủ, thức trắng đêm khi sốt bệnh. 

Năm Minh lên 10 tuổi, sau buổi tiệc sinh nhật chị tổ chức hằng năm cho con được vài hôm, một chiều tối chị kêu con ra ngồi bênh cạnh, ôm con dựa sát vào người như những khi chuyện trò cùng con. Chị Du xoa nhẹ, mân mê bàn tay Minh một lúc lâu, trìu mến tâm sự:

-     Minh ơi! con cũng đủ lớn, vì rất thương con nên mẹ cho biết chuyện này.  Chuyện sẽ làm con sốc, nhưng con phải can đảm, bình tĩnh lắng nghe.  Bây giờ con tập thở nhẹ và sâu như mỗi Chủ nhật ngồi thiền ở chùa. 

Sau vài phút tĩnh lặng, chị Du chậm rãi:

-     Mẹ không phải là người sinh ra con…. Mẹ không biết trước đây con tên gì, sinh ngày nào...Mẹ...

Ngồi nghe chị Du kể, Minh bàng hoàng chấn động, lặng im không lời,  nước mắt ướt đẵm, choàng tay ôm bờ vai gầy,  áp má vào mẹ.  Chị Du cảm được những giọt nước nóng hổi từ gò má thằng bé lăn nhẹ... 

Đêm ấy Minh lăn qua trở lại, trằn trọc không ngủ.  Đã từ lâu Minh biết gia cảnh khác thường vì vắng bóng người cha.   Mỗi lần hỏi, chi Du luôn trả lời Minh có cha nhưng mai mốt lớn sẽ cho biết thêm.  Điều Minh không ngờ chị Du không phải mẹ ruột nhưng sao thương nó quá đỗi.  Gần sáng, Minh chạy qua phòng mẹ, chui vào chăn ôm lưng mẹ như bao lần. 

Minh sụt sùi:   -Tội nghiệp ba mẹ ruột.  Con thương mẹ rất nhiều, con chỉ biết có mẹ. 

-      Chị Du trở mình, cả đêm chị  lo cho thằng bé cũng không ngủ, xoay người lại, mân mê gò má ướt của con:

-  Mẹ cũng chỉ biết có con, nhưng muốn con biết rõ hoàn cảnh, biết gốc gác của mình vì đó là nền tảng chân thật cho đời sống con sau này.  Mẹ không muốn dấu bất cứ điều gì. 

Ngập ngừng một lúc lâu, chị nói tiếp: 

- Trên bàn thờ có hai bát nhang mẹ thường kêu con thắp. Đó là hai bát nhang để con kính lễ ba mẹ ruột.  Mỗi năm mẹ luôn làm giỗ vào ngày mẹ con mình gặp nhau… Bây giờ con biết rồi thì mỗi lần thắp nhangthành kính cầu nguyện ba mẹ đã sinh ra mình, đồng thời cám ơn ba mẹ đã cho mẹ có con trong đời.   Mỗi mùa Vu Lan, con cài thêm hoa trắng nhé.

***

Cộng đồng người Việt thị trấn Roy đều biết đến gia cảnh neo đơn chị Du và rất ngưỡng mộ tình mẫu tử sâu đậm.  Ngoại trừ giờ học giờ làm, họ luôn thấy hai mẹ con như bóng với hình, đi chợ, đi thể thao, xem phim...  Thỉnh thoảng có người hỏi chị về chồng về cha, chị mỉm cười nói khéo: 

- có những chuyện riêng tư chưa tiện chia sẻ được. 

Nhiều người đón mò rằng: Chị bị chồng bỏ hoặc lỡ dại với tên sở khanh nào đó.

Mùa Vu Lan năm ấy tại chùa Hoa Nghiêm, người Việt thị trấn Roy rất ngạc nhiên khi thấy 2 đoá hồng trắng, hồng đỏ trên chiếc áo Lam của Minh khi cậu bé đi theo anh chị trưởng cài hoa hồng cho Phật tử trong khuôn viên chùa.  Đêm trước, chị Du có lên chùa gặp thầy trụ trì, anh chị trưởng để chia sẻ quá khứ với ước mong mọi người đón nhận Minh bình thường, tránh những câu hỏi làm em tủi thân.  Chị muốn công khai từ đây để bé Minh được sống và lớn lên trên nền tảng chân thật vững chắc không một chút hoài nghi.

Cũng như mọi ngôi chùa Việt Nam trong nước hay ngoài nước, ngày Vu Lan bao giờ cũng là ngày hạnh phúc dâng tràn, đầy ấp tình thương yêu.  Thầy trụ trì sau thời kinh có bài thuyết pháp đề cao đạo hiếu, tình mẹ như mọi năm.  Giữa thời pháp, thầy dừng lại kêu Minh đến ngồi bên cạnh mẹ.  Phật tử đang ngồi nghe, lấy làm lạ,  dõi mắt nhìn theo. 

Thầy trụ trì trìu mến nhìn hai mẹ con một lúc lâu, không gian chánh điện lặng im, nhẹ nhàng thầy nói cùng đại chúng:

- Tình mẹ tình cha bao la, cao quý như chúng ta điều biết vì tình ấy là máu mủ huyết thống thiêng liêng.  Thầy có cơ may biết được một chất liệu tình, xin gọi tạm là tình Mẹ Quan Âm, tình này cũng giống như Phật tánh mỗi chúng sanh đều có.  Hơn mười năm nay mẹ con chị Du gắn bó cùng ngôi chùa Hoa Nghiêm này.  Thầy cũng như mọi người đều mến mộ tình cảm mẹ con khắn khít, luôn biểu hiện tình thương sâu đậm cho nhau mà đôi khi cũng hiếm thấy ở đời thường.  Hôm qua, thầy hết sức ngạc nhiênhết sức cảm động khi biết được lòng người mẹ nuôi dành cho đứa con không máu mủ của  mình mà mấy lâu này thầy tưởng rằng ruột thịt….

Minh ngồi nghe thầy nói, dựa vào người ôm mẹ, dụi môi vào gò má mẹ, thì thầm

- con thương yêu mẹ nhất trên trên đời này...

***

Hai mươi năm sau, trong buổi trưa công tác tại tiểu bang xa nhà.  Minh được bệnh viện báo tin mẹ bị tai nạn xe, chấn thương nhiều cơ phận khó qua khỏi đêm nay.  Anh tức tốc bỏ tất cả ra phi trường.  Ngồi trên máy bay, dẫu cố gắng theo dõi hơi thở giữ tâm thanh tịnh, anh cũng không thể kềm được cảm xúc như núi lửa dâng tràn.  Mẹ là suối nguồn yêu thương vô tận, hướng dẫn anh từng bước trong đời.  Mẹ là thế giới, là sự sống của anh, đã cho anh tất cả, hy sinh trọn vẹn tuổi thanh xuân để anh hạnh phúc trong tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt.  

Minh bước vào phòng cách ly, thầy và các bác chùa Hoa Nghiêm đang thành tâm niệm Phật A Di Đà.   Bác sĩ trực cho anh biết:   mẹ coi như đã chết, có thể ra đi bất cứ lúc nào.   Biểu đồ trên màn hình theo dõi bệnh nhận, thỉnh thoảng nháy lên yếu ớt.

Minh ngồi xuống bên cạnh bà Du, mọi người đều ra khỏi phòng để anh được tiếp xúc trọn vẹn.  Nhìn thiết tha khuôn mặt mẹ bất động, Hai tay Minh nâng niu, mân miu bàn tay mẹ.  Đưa bàn tay lên môi, anh hôn nhè nhẹ trên những ngón tay nhăn cằn cõi, thì thầm:  

- Mẹ thương yêu ơi! con đã về bên mẹ.

Anh dặn lòng không khóc, mẹ sẽ buồn lắm khi biết anh khóc anh buồn.   Vẫn thiết tha nhìn mẹ, hai bàn tay sưởi ấm bàn tay mẹ, Minh chậm rãi, gởi lòng vào bài hát anh thường hát tại chùa trong mùa Vu Lan báo hiếu:

"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền.  Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"

Trên khuôn mặt bà Du, đôi mắt bỗng nhấp nháy, mỉm cười an lạc.  Màn hình biểu đồ ngưng hẳn.

Huyền Lam

Thương gởi những người mẹ con nuôi - Mùa Vu Lan 2015
Nguồn:  Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam - số 18 - Thu Đông 2015

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22893)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13949)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12898)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54947)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9056)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14337)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14078)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14117)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13806)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36146)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19774)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18093)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19098)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19038)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20187)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17544)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31379)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15846)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14892)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14607)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46041)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35793)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20947)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21470)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23246)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34162)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19402)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18817)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22821)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20080)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18264)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19735)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19452)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33301)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34300)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54353)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37542)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21042)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17792)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63446)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17273)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49475)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27252)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20167)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22895)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18808)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16247)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17787)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20846)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17269)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14386)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16782)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16279)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15920)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17379)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21855)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15003)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13404)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14300)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15294)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14906)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12586)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13272)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27306)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12421)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13111)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14401)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16127)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12324)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15310)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12804)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12129)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13112)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21500)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11203)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22573)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14937)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14858)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46039)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22319)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14369)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12517)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18795)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14629)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43694)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56800)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13758)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47342)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13564)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14459)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28873)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33164)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38245)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15322)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31096)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40203)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43241)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46466)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14314)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant