Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bố Tôi Là Một Vị Bồ Tát (song ngữ)

03 Tháng Chín 201515:23(Xem: 11450)
Bố Tôi Là Một Vị Bồ Tát (song ngữ)

BỐ TÔI LÀ MỘT VỊ BỒ TÁT 

Jon Turner

Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến
(My Father, The Bodhisattva - Jon Turner)

Bố Tôi Là Một Vị Bồ Tát (song ngữ)

Bố Tôi Là Một Vị Bồ Tát

Bố tôi vừa mới mất. Cuối cùng, rồi chứng nghiện rượu của bố cũng phải đi đến hồi kết thúc. Bố là người đã nghiện rượu hơn 20 năm, nhưng tôi không nghĩ rằng, tôi đã hiểu được điều nầy nghiêm trọng như thế nào, khi bố còn sống. Tôi luôn tin rằng, một ngày nào đó bố sẽ ngừng uống rượu, rồi mọi chuyện sẽ trở lại "bình thường", giống như cũ. Giờ đây, đã đến lúc cái ảo tưởng đó, cùng theo bố xuống mồ.

Tôi đã không bao giờ có thể hình dung ra được, thân thể bố đã xuống dốc nhanh như thế. Bố đã già đi 40 tuổi, chỉ trong vòng 20 năm. Bố đã gầy đi bởi vì thiếu dinh dưỡng, nhưng cũng vì gương mặt say xỉn của bố, nên da mặt bố trông tệ hại vì do máu khó vận chuyển. Bố đã không đi dự đám cưới của tôi. Bố chưa bao giờ nhìn thấy các cháu nội, và từ giờ trở đi bố chẳng còn có cơ hội nào nữa. Bây giờ dù tôi muốn, hay tôi không muốn, tôi vẫn phải đối mặt với một sự thật. Cái chết, chính là vị thầy giáo vĩ đại.

Bố chưa bao giờ làm hại gì tôi về thể xác, tuy nhiên, theo tôi nghĩ phải sống chung với một người nghiện rượu là một sự khó khăn, về mặt tình cảm và cả về mặt tâm lý. Chuyện bố nghiện rượu luôn luôn không phải là xấu. Khi tôi còn trẻ, chuyện nầy là chuyện rất tốt, nhưng khi tôi đã lớn tuổi, và khi cơn nghiện rượu của bố trở nên tồi tệ, thì thời gian tốt đẹp ít xảy ra hơn. Vì tôi hãy còn nhớ chuyện tốt đã xảy ra trước đó, điều nầy đã làm cho tôi đối phó khó khăn, với những chuyện không tốt xảy ra sau nầy.

Tôi đã cố gắng cạnh tranh với bố, giống như hầu hết các cậu bé thường làm, nhưng lối sống của bố không thuận lợi gì cho bố, và bây giờ, lối sống nầy cũng không thuận lợi gì cho tôi. Bố là người chống lại Phật Giáo. Bố tin rằng tính người thì cố định, nên không ai có thể thay đổi tính tình, và bố chỉ tin vào những gì bố có thể nhìn thấy được, và chỉ có những người yếu đuối mới tham gia vào nhóm để giúp đỡ lẫn nhau.

Bố luôn nghĩ mình là "con sói cô độc." Tôi nghĩ rằng những niềm tin nầy đã ngăn cản bố, làm cho bố chẳng bao giờ nhìn nhận chứng nghiện rượu của mình.

Tôi đã tức giận với bố rất nhiều lần, nhiều đến nỗi tôi đã nằm mơ đấu tranh với bố, ngay cả lúc bố đã mất rồi. Nhiều lần trong một tháng, tôi đã choàng tỉnh từ những cơn ác mộng nói trên, và tôi đã cảm thấy vừa xấu hổ, và vừa thất vọng. Tôi cảm thấy xấu hổ, vì tôi đã có những cảm xúc tiêu cực, và tôi thất vọng vì tôi đã không thể giúp cho bố ngừng uống rượu.

Cái nhìn của tôi về cuộc đời ngày càng trở nên thu nhỏ lại, và tăm tối hơn. Tôi đang rút mình ra khỏi thế giới bên ngoài. Linda, vợ tôi, hết sức lo lắng cho tôi, vì cô ấy không biết làm gì để giúp đỡ cho tôi được. Sau năm năm đau khổ, Phật Giáo đã tìm thấy tôi. Lúc ấy, tôi chỉ biết Phật Giáotôn giáo giúp cho con người được thăng bằng, và tôi cũng hiểu biết rằng đời sống của tôi đã hoàn toàn mất thăng bằng. Vì thế, khi tôi mua cuốn sách "Đánh Thức Đức Phật Bên Trong" viết bởi Lạt Ma Surya Das, và sau khi đọc xong một chương, tôi nhận biết ngay rằng, đây chính là điều tôi đã đi tìm kiếm suốt cuộc đời tôi. Quyển sách mà tôi đang đọc nầy, giống y hệt như là quyển sách mà do chính tôi viết ra. Quyển sách miêu tả tất cả những nguyên nhân làm tôi thất vọng.

Tất cả những sự đau khổ của tôi, là những vết thương do chính tôi tạo ra. Vì quá đau khổ, thời gian lúc nầy, với tôi, như dừng lại. Tôi biết con đường tôi phải đi, chính là Đạo Phật. Vì, tôi chẳng còn con đường nào khác nữa. Cuộc đời tôi phụ thuộc vào con đường nầy.

Sau khi tôi thực hành Phât Giáo và thiền định được hơn một năm, mọi chuyện bắt đầu cải thiện, nhưng những cơn ác mộng vẫn bền chí theo tôi. Và, tôi vẫn còn thù ghét bố tôi. Khi tôi bắt đầu đọc một quyển sách về thiền, và quyển sách nầy nói rằng nếu tôi chưa khóc trong lúc thiền định, thì tôi đã không thực hành thiền đúng đắn. Điều nầy làm tôi nhớ ra rằng, tôi đã không khóc trong vòng hơn 15 năm nay. Thậm chí, tôi đã không khóc khi bố tôi mất. Lúc đó, tôi chỉ cảm thấy tê cóng, như thể tôi không còn có cảm giác. Tôi đã tự thuyết phục chính tôi rằng, tôi đã không quan tâm về việc bố tôi mất, và nhìn theo bất cứ cách nào, điều nầy cũng không quan trọng, với tôi. Tôi không khóc chỉ là một triệu chứng, cho biết tôi đã bị cuộc đời đóng cửa.

Vì vậy, khi tôi bắt đầu tập thiền định về bố tôi, tôi bắt đầu khóc như một em bé. Thế rồi, tôi không những có thể tha thứ cho bố tôi, mà điều quan trọng hơn nhiều, là tôi có thể tha thứ cho chính tôi, vì tôi đã không giúp cho bố tôi ngừng uống rượu. Cái-tôi của-tôi đã tưởng-tượng rằng, một lời nói của tôi có thể làm cho bố tôi bỏ chứng nghiện rượu. Nay tôi đã hiểu được điều nói trên, và tôi tha thứ cho tôi.

Tôi cũng bắt đầu hiểu được rằng, cuộc đời bố tôi đã hoàn toàn bị chi phối bởi nhân duyên (nguyên nhânđiều kiện) và hậu quả, giống như tất cả mọi người. Bố tôi đã chưa bao giờ quyết định làm người nghiện rượu. Tôi biết bố tôi muốn làm một ông bố "tốt", và làm một người chồng "tốt". Bố chưa bao giờ uống rượu với mục đích làm tổn thương tôi, hoặc tự làm tổn thương chính mình. Tôi bắt đầu cảm thấy tội nghiệp, và thương cảm cho bố tôi. Bố đã lãng phí rất nhiều thời giờ vì nghiện rượu.

Sau đó, tôi bắt đầu nghiên cứu về Tánh-không. Tánh-không cho rằng không-có-sự-vật-nào có tự tánh riêng biệt. Không những sự vật là tánh-không, mà nhân-duyên cũng là tánh-không (nguyên nhânđiều kiện). Môt nhà văn nào đó đã can đảm nói rằng, nghiệp chỉ dành riêng cho những ai không-hiểu-biết-gì về tánh-không. Thế rồi, giống như một ngọn đèn bừng sáng lên trong tâm trí tôi. Tôi chẳng còn bị xác định là người con trai của một ông nghiện rượu, bởi vì dưới cái-nhìn-tánh-không tôi không-tốt, và tôi cũng không-xấu. Dưới cái-nhìn-tánh-không, tôi không-là-gì-cả. Tôi không phải là chủ-từ. Mà tôi chính là động-từ.

Tuy nhiên, một ngày kia khi tôi đi ra ngoài, chạy bộ, tôi cứ suy nghĩ về một câu nói trong đầu "Bố thì xấu, Phật Giáo thì tốt"; liên tục cùng với mỗi bước chân đi. Tại làm sao một chuyện thật xấu xa, lại có thể dẫn đến một chuyện thật tốt đẹp. Đây là lúc tôi hiểu rõ ràng rằng, bố tôi chính là người dẫn đường, cho tôi đến với Đạo Phật. Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.

Bây giờ, tôi có thể hiểu rõ ràng về con người thật của bố tôi, bố là người đàn ông tranh đấu để sống còn trên cuộc đời nầy. Tôi đã chẳng còn giận dữ bố tôi. Tất cả mọi cơn giận dữ trong tôi, cùng với tất cả mọi cơn ác mộng, bây giờ, đã đi qua hết rồi.

Nam Mô A Di Đà Phật.

My Father, The Bodhisattva

My father had just died. His drinking had finally come to an end. He had been an alcoholic for over 20 years but I don’t think I ever realized just how serious it was while he was alive. I always believed that he would one day stop drinking and everything would return to "normal" again. Now it was time for that delusion to die as well.

I never really saw how quickly he was going down hill. He had aged 40 years in 20. He was very skinny due to malnutrition but he was also pie faced due to bad circulation. He did not come to my wedding. He had never seen his grandchildren and now he never would. Now whether I wanted to or not I had to face it. Death is the great teacher.

My father never harmed me physically but living with an alcoholic is hard both emotionally and psychologically. It wasn’t always bad. When I was young it was very good but as I got older and the alcoholism got worse the good times were less frequent. Knowing how it used to be and how it could have been seemed to make it even harder to deal with.

I tried to emulate my father like most boys do but his way of life hadn’t worked for him and now it wasn’t working for me either. He was the antithesis of Buddhism. He believed that no one ever changes, that you only believe in what you can see and only weak people join groups. He thought of himself as the "lone wolf." I think these beliefs prevented him from ever seeing his alcoholism.

I was so angry at my father that I even dreamed about fighting with him after he was already dead. I would wake up several times a month from these nightmares feeling both ashamed and frustrated. I was ashamed that I had these negative feelings and frustrated that I was unable to stop my father from drinking.

My life was becoming smaller and darker every day. I was retreating from the world. My wife Linda was very, very worried about me and didn’t know how to help me. After five years of suffering, Buddhism found me. All I knew about Buddhism was that it had something to do with balance and I knew that my life was completely out of balance. So I bought the book "Awakening the Buddha Within" by Lama Surya Das and within one chapter I realized that this is what I had been looking for my entire life. It was as if I had written the book I was reading. It described all the causes of my frustrations.

The suffering was all due to self inflicted wounds. Time stood still. I knew I had to follow Buddhism. There was no other path to follow. My life depended on it.

After practicing Buddhism and meditating for over a year things began to improve but the nightmares persisted. I still hated my father. I began reading a book on meditation and it said if you haven’t cried while meditating then you aren’t doing it right. It was then that I realized that I hadn’t cried in over 15 years. I couldn’t even cry when my father had died. I was merely numb. I had convinced myself that I didn’t care that he was dead and that it didn’t matter anyway. Not crying was just another symptom of being closed off to life.

So I began to meditate on my father and I started crying like a baby. Not only was I able to forgive him but more importantly I was able to forgive myself for not being able to stop him from drinking. I realized that it was my ego that thought one sentence from me could stop his drinking.

I also began to see that my father was overwhelmed by causes and conditions just as we all are. He never decided to be an alcoholic. I know he wanted to be a "good" father and husband. He never drank to hurt me or to hurt himself for that matter. I began to feel sorry for my father. He wasted much of his life.

I then began to study Emptiness. The notion that nothing has an independent self-nature. Not only are objects empty but so are their causes and conditions. One writer boldly stated that karma is for those who are ignorant of emptiness. Then in a flash it hit me. I was no longer defined as the son of an alcoholic, just as I am not inherently good or inherently bad. I am not inherently anything. I am not a noun. I am a verb.

However, one day while I was out running I kept thinking "Dad bad, Buddhism good"; back and forth with every step. How can something so bad lead to something so good. That is when it became clear that my father had led me to Buddhism. He had given me the most important thing one can receive: spirituality. I will be forever grateful to him. He is my bodhisattva.

Now I can see my father as he truly was, a man struggling to make it in the world. I am no longer angry with my father. It is all gone now, both the anger and the nightmares.

Namu Amida Butsu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10452)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11140)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12623)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10735)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16471)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10739)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22766)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11910)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11413)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10585)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12251)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11097)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9937)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10239)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11793)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10612)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12254)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9706)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11178)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13749)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9507)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12524)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9608)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10340)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10434)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10208)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9801)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10982)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11934)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10076)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10696)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9461)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9816)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8694)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9418)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14436)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8703)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12450)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10329)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8981)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10473)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9237)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8710)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10419)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9069)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8287)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11923)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9629)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10145)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10166)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18968)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9335)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8912)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9493)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8931)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14657)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10021)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8271)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8820)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8883)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8662)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9257)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14451)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8957)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8673)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8963)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10438)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8546)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9912)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24143)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10081)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10947)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8911)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9382)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7938)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9176)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15238)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10248)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9476)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17279)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21216)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12065)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10155)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19098)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7903)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14664)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10554)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11267)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9437)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18484)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12260)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11794)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10610)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13244)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9898)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9193)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9299)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15722)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25461)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant