Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bố Tôi Là Một Vị Bồ Tát (song ngữ)

03 Tháng Chín 201515:23(Xem: 11442)
Bố Tôi Là Một Vị Bồ Tát (song ngữ)

BỐ TÔI LÀ MỘT VỊ BỒ TÁT 

Jon Turner

Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến
(My Father, The Bodhisattva - Jon Turner)

Bố Tôi Là Một Vị Bồ Tát (song ngữ)

Bố Tôi Là Một Vị Bồ Tát

Bố tôi vừa mới mất. Cuối cùng, rồi chứng nghiện rượu của bố cũng phải đi đến hồi kết thúc. Bố là người đã nghiện rượu hơn 20 năm, nhưng tôi không nghĩ rằng, tôi đã hiểu được điều nầy nghiêm trọng như thế nào, khi bố còn sống. Tôi luôn tin rằng, một ngày nào đó bố sẽ ngừng uống rượu, rồi mọi chuyện sẽ trở lại "bình thường", giống như cũ. Giờ đây, đã đến lúc cái ảo tưởng đó, cùng theo bố xuống mồ.

Tôi đã không bao giờ có thể hình dung ra được, thân thể bố đã xuống dốc nhanh như thế. Bố đã già đi 40 tuổi, chỉ trong vòng 20 năm. Bố đã gầy đi bởi vì thiếu dinh dưỡng, nhưng cũng vì gương mặt say xỉn của bố, nên da mặt bố trông tệ hại vì do máu khó vận chuyển. Bố đã không đi dự đám cưới của tôi. Bố chưa bao giờ nhìn thấy các cháu nội, và từ giờ trở đi bố chẳng còn có cơ hội nào nữa. Bây giờ dù tôi muốn, hay tôi không muốn, tôi vẫn phải đối mặt với một sự thật. Cái chết, chính là vị thầy giáo vĩ đại.

Bố chưa bao giờ làm hại gì tôi về thể xác, tuy nhiên, theo tôi nghĩ phải sống chung với một người nghiện rượu là một sự khó khăn, về mặt tình cảm và cả về mặt tâm lý. Chuyện bố nghiện rượu luôn luôn không phải là xấu. Khi tôi còn trẻ, chuyện nầy là chuyện rất tốt, nhưng khi tôi đã lớn tuổi, và khi cơn nghiện rượu của bố trở nên tồi tệ, thì thời gian tốt đẹp ít xảy ra hơn. Vì tôi hãy còn nhớ chuyện tốt đã xảy ra trước đó, điều nầy đã làm cho tôi đối phó khó khăn, với những chuyện không tốt xảy ra sau nầy.

Tôi đã cố gắng cạnh tranh với bố, giống như hầu hết các cậu bé thường làm, nhưng lối sống của bố không thuận lợi gì cho bố, và bây giờ, lối sống nầy cũng không thuận lợi gì cho tôi. Bố là người chống lại Phật Giáo. Bố tin rằng tính người thì cố định, nên không ai có thể thay đổi tính tình, và bố chỉ tin vào những gì bố có thể nhìn thấy được, và chỉ có những người yếu đuối mới tham gia vào nhóm để giúp đỡ lẫn nhau.

Bố luôn nghĩ mình là "con sói cô độc." Tôi nghĩ rằng những niềm tin nầy đã ngăn cản bố, làm cho bố chẳng bao giờ nhìn nhận chứng nghiện rượu của mình.

Tôi đã tức giận với bố rất nhiều lần, nhiều đến nỗi tôi đã nằm mơ đấu tranh với bố, ngay cả lúc bố đã mất rồi. Nhiều lần trong một tháng, tôi đã choàng tỉnh từ những cơn ác mộng nói trên, và tôi đã cảm thấy vừa xấu hổ, và vừa thất vọng. Tôi cảm thấy xấu hổ, vì tôi đã có những cảm xúc tiêu cực, và tôi thất vọng vì tôi đã không thể giúp cho bố ngừng uống rượu.

Cái nhìn của tôi về cuộc đời ngày càng trở nên thu nhỏ lại, và tăm tối hơn. Tôi đang rút mình ra khỏi thế giới bên ngoài. Linda, vợ tôi, hết sức lo lắng cho tôi, vì cô ấy không biết làm gì để giúp đỡ cho tôi được. Sau năm năm đau khổ, Phật Giáo đã tìm thấy tôi. Lúc ấy, tôi chỉ biết Phật Giáotôn giáo giúp cho con người được thăng bằng, và tôi cũng hiểu biết rằng đời sống của tôi đã hoàn toàn mất thăng bằng. Vì thế, khi tôi mua cuốn sách "Đánh Thức Đức Phật Bên Trong" viết bởi Lạt Ma Surya Das, và sau khi đọc xong một chương, tôi nhận biết ngay rằng, đây chính là điều tôi đã đi tìm kiếm suốt cuộc đời tôi. Quyển sách mà tôi đang đọc nầy, giống y hệt như là quyển sách mà do chính tôi viết ra. Quyển sách miêu tả tất cả những nguyên nhân làm tôi thất vọng.

Tất cả những sự đau khổ của tôi, là những vết thương do chính tôi tạo ra. Vì quá đau khổ, thời gian lúc nầy, với tôi, như dừng lại. Tôi biết con đường tôi phải đi, chính là Đạo Phật. Vì, tôi chẳng còn con đường nào khác nữa. Cuộc đời tôi phụ thuộc vào con đường nầy.

Sau khi tôi thực hành Phât Giáo và thiền định được hơn một năm, mọi chuyện bắt đầu cải thiện, nhưng những cơn ác mộng vẫn bền chí theo tôi. Và, tôi vẫn còn thù ghét bố tôi. Khi tôi bắt đầu đọc một quyển sách về thiền, và quyển sách nầy nói rằng nếu tôi chưa khóc trong lúc thiền định, thì tôi đã không thực hành thiền đúng đắn. Điều nầy làm tôi nhớ ra rằng, tôi đã không khóc trong vòng hơn 15 năm nay. Thậm chí, tôi đã không khóc khi bố tôi mất. Lúc đó, tôi chỉ cảm thấy tê cóng, như thể tôi không còn có cảm giác. Tôi đã tự thuyết phục chính tôi rằng, tôi đã không quan tâm về việc bố tôi mất, và nhìn theo bất cứ cách nào, điều nầy cũng không quan trọng, với tôi. Tôi không khóc chỉ là một triệu chứng, cho biết tôi đã bị cuộc đời đóng cửa.

Vì vậy, khi tôi bắt đầu tập thiền định về bố tôi, tôi bắt đầu khóc như một em bé. Thế rồi, tôi không những có thể tha thứ cho bố tôi, mà điều quan trọng hơn nhiều, là tôi có thể tha thứ cho chính tôi, vì tôi đã không giúp cho bố tôi ngừng uống rượu. Cái-tôi của-tôi đã tưởng-tượng rằng, một lời nói của tôi có thể làm cho bố tôi bỏ chứng nghiện rượu. Nay tôi đã hiểu được điều nói trên, và tôi tha thứ cho tôi.

Tôi cũng bắt đầu hiểu được rằng, cuộc đời bố tôi đã hoàn toàn bị chi phối bởi nhân duyên (nguyên nhânđiều kiện) và hậu quả, giống như tất cả mọi người. Bố tôi đã chưa bao giờ quyết định làm người nghiện rượu. Tôi biết bố tôi muốn làm một ông bố "tốt", và làm một người chồng "tốt". Bố chưa bao giờ uống rượu với mục đích làm tổn thương tôi, hoặc tự làm tổn thương chính mình. Tôi bắt đầu cảm thấy tội nghiệp, và thương cảm cho bố tôi. Bố đã lãng phí rất nhiều thời giờ vì nghiện rượu.

Sau đó, tôi bắt đầu nghiên cứu về Tánh-không. Tánh-không cho rằng không-có-sự-vật-nào có tự tánh riêng biệt. Không những sự vật là tánh-không, mà nhân-duyên cũng là tánh-không (nguyên nhânđiều kiện). Môt nhà văn nào đó đã can đảm nói rằng, nghiệp chỉ dành riêng cho những ai không-hiểu-biết-gì về tánh-không. Thế rồi, giống như một ngọn đèn bừng sáng lên trong tâm trí tôi. Tôi chẳng còn bị xác định là người con trai của một ông nghiện rượu, bởi vì dưới cái-nhìn-tánh-không tôi không-tốt, và tôi cũng không-xấu. Dưới cái-nhìn-tánh-không, tôi không-là-gì-cả. Tôi không phải là chủ-từ. Mà tôi chính là động-từ.

Tuy nhiên, một ngày kia khi tôi đi ra ngoài, chạy bộ, tôi cứ suy nghĩ về một câu nói trong đầu "Bố thì xấu, Phật Giáo thì tốt"; liên tục cùng với mỗi bước chân đi. Tại làm sao một chuyện thật xấu xa, lại có thể dẫn đến một chuyện thật tốt đẹp. Đây là lúc tôi hiểu rõ ràng rằng, bố tôi chính là người dẫn đường, cho tôi đến với Đạo Phật. Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.

Bây giờ, tôi có thể hiểu rõ ràng về con người thật của bố tôi, bố là người đàn ông tranh đấu để sống còn trên cuộc đời nầy. Tôi đã chẳng còn giận dữ bố tôi. Tất cả mọi cơn giận dữ trong tôi, cùng với tất cả mọi cơn ác mộng, bây giờ, đã đi qua hết rồi.

Nam Mô A Di Đà Phật.

My Father, The Bodhisattva

My father had just died. His drinking had finally come to an end. He had been an alcoholic for over 20 years but I don’t think I ever realized just how serious it was while he was alive. I always believed that he would one day stop drinking and everything would return to "normal" again. Now it was time for that delusion to die as well.

I never really saw how quickly he was going down hill. He had aged 40 years in 20. He was very skinny due to malnutrition but he was also pie faced due to bad circulation. He did not come to my wedding. He had never seen his grandchildren and now he never would. Now whether I wanted to or not I had to face it. Death is the great teacher.

My father never harmed me physically but living with an alcoholic is hard both emotionally and psychologically. It wasn’t always bad. When I was young it was very good but as I got older and the alcoholism got worse the good times were less frequent. Knowing how it used to be and how it could have been seemed to make it even harder to deal with.

I tried to emulate my father like most boys do but his way of life hadn’t worked for him and now it wasn’t working for me either. He was the antithesis of Buddhism. He believed that no one ever changes, that you only believe in what you can see and only weak people join groups. He thought of himself as the "lone wolf." I think these beliefs prevented him from ever seeing his alcoholism.

I was so angry at my father that I even dreamed about fighting with him after he was already dead. I would wake up several times a month from these nightmares feeling both ashamed and frustrated. I was ashamed that I had these negative feelings and frustrated that I was unable to stop my father from drinking.

My life was becoming smaller and darker every day. I was retreating from the world. My wife Linda was very, very worried about me and didn’t know how to help me. After five years of suffering, Buddhism found me. All I knew about Buddhism was that it had something to do with balance and I knew that my life was completely out of balance. So I bought the book "Awakening the Buddha Within" by Lama Surya Das and within one chapter I realized that this is what I had been looking for my entire life. It was as if I had written the book I was reading. It described all the causes of my frustrations.

The suffering was all due to self inflicted wounds. Time stood still. I knew I had to follow Buddhism. There was no other path to follow. My life depended on it.

After practicing Buddhism and meditating for over a year things began to improve but the nightmares persisted. I still hated my father. I began reading a book on meditation and it said if you haven’t cried while meditating then you aren’t doing it right. It was then that I realized that I hadn’t cried in over 15 years. I couldn’t even cry when my father had died. I was merely numb. I had convinced myself that I didn’t care that he was dead and that it didn’t matter anyway. Not crying was just another symptom of being closed off to life.

So I began to meditate on my father and I started crying like a baby. Not only was I able to forgive him but more importantly I was able to forgive myself for not being able to stop him from drinking. I realized that it was my ego that thought one sentence from me could stop his drinking.

I also began to see that my father was overwhelmed by causes and conditions just as we all are. He never decided to be an alcoholic. I know he wanted to be a "good" father and husband. He never drank to hurt me or to hurt himself for that matter. I began to feel sorry for my father. He wasted much of his life.

I then began to study Emptiness. The notion that nothing has an independent self-nature. Not only are objects empty but so are their causes and conditions. One writer boldly stated that karma is for those who are ignorant of emptiness. Then in a flash it hit me. I was no longer defined as the son of an alcoholic, just as I am not inherently good or inherently bad. I am not inherently anything. I am not a noun. I am a verb.

However, one day while I was out running I kept thinking "Dad bad, Buddhism good"; back and forth with every step. How can something so bad lead to something so good. That is when it became clear that my father had led me to Buddhism. He had given me the most important thing one can receive: spirituality. I will be forever grateful to him. He is my bodhisattva.

Now I can see my father as he truly was, a man struggling to make it in the world. I am no longer angry with my father. It is all gone now, both the anger and the nightmares.

Namu Amida Butsu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22893)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13949)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12898)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54947)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9057)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14337)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14078)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14118)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13806)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36146)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19774)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18095)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19098)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19038)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20187)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17546)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31379)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15846)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14892)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14608)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46042)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35793)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20949)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21470)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23247)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34163)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19402)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18817)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22821)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20080)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18264)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19735)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19452)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33301)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34300)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54353)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37542)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21042)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17792)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63447)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17274)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49475)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27252)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20167)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22895)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18808)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16247)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17787)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20846)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17269)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14386)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16782)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16279)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15920)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17379)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21855)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15003)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13404)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14300)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15294)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14906)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12586)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13272)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27306)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12421)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13111)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14401)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16127)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12324)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15310)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12804)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12129)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13112)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21500)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11203)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22573)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14937)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14858)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46039)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22319)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14370)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12517)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18796)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14629)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43695)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56803)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13758)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47342)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13564)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14459)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28873)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33164)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38246)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15324)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31097)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40203)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43242)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46467)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14314)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant