Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Ngài Long Thọ

06 Tháng Mười 201512:53(Xem: 16292)
Tiểu Sử Ngài Long Thọ
Tiểu Sử Ngài Long Thọ


Alexander Berzin

Tháng Hai, 2006   
  Lozang Ngodrub dịch; Chân Thông Tri hiệu đính

www.berzinarchives.com

 
Tiểu Sử Ngài Long Thọ


Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa. Ngài Long Thọ đã trao truyền giáo huấn thậm thâm về tri kiến tánh Không của dòng truyền thừa từ Đức Văn Thù Sư Lợi, trong khi ngài Vô Trước thì trao truyền giáo huấn về pháp hành bồ tát sâu xa của dòng truyền thừa từ Đức Di Lặc.

Long Thọ sanh ra trong một gia đình Bà la môn, có lẽ vào khoảng giữa thế kỷ thứ Nhất hay đầu thế kỷ thứ Nhì sau Công Nguyên, ở miền Nam Ấn Độ, tại Vidarbha, một vương quốc hiện nay nằm trong hai tiểu bang Maharashtra và Andhra Pradesh. Một số Kinh điển đã có lời tiên tri về ngài, chẳng hạn như Kinh Lăng Già (Lan-kar gshegs-pa’i mdo, Phạn ngữ Lankavatara Sutra). Lúc chào đời, một thầy bói tiên đoán rằng ngài chỉ sống được bảy ngày thôi, nhưng nếu cha mẹ ngài cúng dường một trăm vị tăng thì ngài sẽ sống đến bảy tuổi. Vì lo cho mạng sống của con trai, vào năm ngài bảy tuổi, cha mẹ ngài đã gởi ngài đến Đại Học Phật Giáo Na-lan-đà (Nalanda Monastic University) ở miền Bắc Ấn Độ, nơi ngài đã gặp đại sư Saraha. Ngài Saraha nói rằng nếu Long Thọ từ bỏ thế tục và trì tụng mật chú Phật A Di Đà thì ngài sẽ sống lâu. Long Thọ làm theo lời khuyên, rồi gia nhập vào Tu Viện, nhận pháp danh “Shrimanta”.

Tại Na-lan-đà, Long Thọ tu học Mật điểnKinh điển với Ratnamati, một vị hóa thân của Đức Văn Thù Sư Lợi, và với đại sư Saraha, đặc biệt là pháp tu Mật điển Guhyasamaja (dPal gsang-ba ‘dus-pa’i rgyud). Ngoài ra, ngài còn học thuật giả kim (alchemy) với một vị Bà la môn và biết cách biến sắt thành vàng. Nhờ có khả năng này, ngài có thể nuôi chư Tăng Na-lan-đà trong nạn đói. Cuối cùng, ngài trở thành vị trụ trì của Na-lan-đà. Ở đó, ngài đã đuổi tám ngàn vị tăng không giữ gìn giới luật đúng đắn. Ngài cũng đánh bại năm trăm người ngoại đạo trong các cuộc tranh luận.

Hai vị thanh niên là hóa thân của các con trai của vua Thiên Long (naga king), đã đến Na-lan-đà. Thân họ phát ra mùi gỗ đàn hương tự nhiên. Long Thọ hỏi thăm sự tình và họ thú thật về thân thế của mình. Ngài bèn hỏi xin mùi gỗ đàn hương cho một pho tượng Tara và nhờ các Thiên Long giúp ngài xây dựng các ngôi chùa. Họ trở về cõi Thiên Long và hỏi ý kiến vua cha. Vua Thiên Long nói rằng ông có thể giúp ngài Long Thọ, với điều kiện ngài chịu đến long cung dưới biển để dạy cho họ. Long Thọ đồng ý, mang theo nhiều phẩm vật cúng dường và giảng dạy các Thiên Long.

Long Thọ biết các Thiên LongKinh Thiên Bách Tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa (Shes-rab-kyi pha-rol-tu phyin-pa stong-pa brgya-pa, Phạn ngữ Shatasahasrika-prajnaparamita Sutra) và đã xin thỉnh một bổn. Khi Đức Phật giảng về Bát nhã Ba la mật (Trí tuệ Ba la mật), các Thiên Long đã mang một bổn Kinh này về long cung để bảo quản, chư Thiên mang một bổn khác và các Dạ Xoa thần Tài Lộc giữ một bổn khác. Long Thọ thỉnh bổn một trăm ngàn câu kệ, mặc dù các Thiên Long giữ lại hai chương cuối làm tin, để ngài Long Thọ phải trở lại long cung giảng dạy thêm cho họ. Sau đó, hai chương cuối đã được bổ sung thêm, cùng với hai chương cuối của Kinh Bát Thiên Tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa (Shes-rab-kyi pha-rol-tu phyin-pa brgyad stong-pa, Phạn ngữ Ashtasahasrika-prajnaparamita Sutra). Đây là lý do hai chương cuối của hai bổn duyệt lại giống nhau. Long Thọ còn đem đất sét của cõi Thiên Long về để xây dựng nhiều ngôi chùa và bảo tháp.

Một lần nọ, khi ngài đang thuyết giảng Bát nhã Ba la mật thì sáu vị Thiên Long đã đến và xếp thành hình chiếc dù để che nắng cho ngài. Vì điều này mà hình tượng tiêu biểu của Long Thọ có sáu Thiên Long trên đầu của ngài. Từ sự kiện này, ngài có tên Naga (Thiên Long). Vì khả năng thuyết Pháp của ngài đi thẳng vào trọng điểm, như mũi tên của cung thủ nổi tiếng Arjuna (tên một anh hùng trong Kinh điển Ấn Độ giáo, Bhagavad Gita), nên ngài có tên Arjuna. Do đó, ngài được gọi là “Nagarjuna”.

Sau này, Long Thọ du hành đến Bắc Đảo (Bắc Lục địa) để thuyết pháp. Trên đường đi, ngài gặp mấy đứa trẻ đang nô đùa trên đường phố. Ngài tiên đoán rằng một trong những đứa trẻ này, tên Jetaka, sẽ trở thành một vị vua. Khi ngài từ Bắc Đảo trở lại khu vực này, thằng bé đã lớn lên và trở thành Vua của một vương quốc lớn ở miền Nam Ấn Độ. Long Thọ đã ở lại với nhà vua trong ba năm, giảng dạy cho ông và sống những năm cuối đời ở một nơi khác trong vương quốc của ông, tại Shri Parvata, ngọn núi thiêng nhìn xuống thành phố Nagarjunakonda ngày nay. Long Thọ đã viết Bảo Hành Vương Chính Luận (Rin-chen ‘phreng-ba, Phạn ngữ Ratnavali) cho nhà vua. Đây cũng là nhà vua mà Long Thọ đã viết Bằng Hữu Thư để gởi tặng (bShes-pa’i spring-yig, Phạn ngữ Suhrllekha), đó là Vua Udayibhadra (bDe-spyod bzang-po).

Một số nhà học giả Tây phương xác nhận Vua Udayibhadra là Vua Gautamiputra Shatakarni (trị vì từ 106 – 130 sau Công Nguyên) của triều đại Shatavahana (230 trước Công Nguyên – 199 sau Công Nguyên), ở tiểu bang Andhra Pradesh ngày nay. Một vài học giả thì xác nhận ông là vị vua kế tiếp, Vua Vashishtiputra Pulumayi (130 – 158 sau Công Nguyên). Khó mà nhận diện ra ông một cách chính xác. Những người của triều đại Shatavahana là các nhà bảo trợ cho bảo tháp ở Amaravati, nơi Đức Phật đã giảng dạy Mật điển Thời Luân (The Kalachakra Tantra) lần đầu tiên, và là nơi gần Shri Parvata.

Vua Udayibhadra có một đứa con trai, Kumara Shaktiman, người muốn trở thành vua. Mẹ ông nói rằng ông không thể làm vua cho đến khi nào Long Thọ qua đời, vì Long Thọ và nhà Vua có cùng thọ mạng. Mẹ ông bảo ông đi xin thủ cấp của Long Thọ, và vì là người rất từ bi, chắc chắn ngài sẽ đồng ý. Long Thọ thật sự đã đồng ý, nhưng Kumara không thể chặt đầu của ngài bằng gươm. Long Thọ nói trong một tiền kiếp, ngài đã giết một con kiến trong khi cắt cỏ. Vì nghiệp quả này, chỉ có lá cỏ Kusha mới cắt đứt đầu của ngài. Kumara làm theo lời ngài và Long Thọ qua đời. Máu từ thủ cấp đã lìa khỏi thân ngài trở thành sữa và cái đầu của ngài nói, “Bây giờ, ta sẽ đến Tây Phương Cực Lạc (Sukhavati Pure Land), nhưng ta sẽ nhập vào thân này lần nữa.” Kumara đem chiếc đầu đi thật xa thân thể, nhưng người ta nói mỗi năm, chiếc đầu và thân ngài càng đến gần nhau hơn. Khi chúng sát nhập lại với nhau, ngài Long Thọ sẽ quay trở lại và giảng dạy lần nữa. Tổng cộng, ngài đã sống sáu trăm năm.

Một trong số nhiều bản Kinh luận mà Long Thọ đã viết là Bộ Sưu Tập Lý Luận (Rigs-pa’i tshogs), Bộ Sưu Tập Xưng Tán (bsTod-pa’i tshogs), và Bộ Sưu Tập Giải Thích Mô Phạm (gTam-pa’i tshogs).

Sáu Bộ Sưu Tập Lý Luận (Rigs-tshogs drug) là:

l Trung Quán Luận, (dBu-ma rtsa-ba shes-rab, Phạn ngữ Prajna-nama-mulamadhyamaka-karika)

 

l Bảo Hành Vương Chính Luận (Rin-chen ‘phreng-ba, Phạn ngữ Ratnavali)

 

l Hồi Tranh  Luận (rTsod-pa zlog-pa, Phạn ngữ Vigrahavyavarti)

 

l Thất Thập Tánh Không Luận (sTong-nyid bdun-bcu-pa, Phạn ngữ Shunyatasaptati)

l Kinh Quảng Phá Luận (Zhib-mo rnam-‘thag zhes-bya-ba’i mdo, Phạn ngữ Vaidalya-sutra-nama)

l Lục Thập Tụng Như Ý Luận (Rigs-pa drug-cu-pa, Phạn ngữ Yuktishashtika)

 

Một số tác phẩm trong Bộ Sưu Tập Xưng Tán của Long Thọ là:

l Tán Pháp Giới Tụng (Chos-dbyings bstod-pa, Phạn ngữ Dharmadhatu-stava)

l Tán Chân Đế Tụng (Don-dam-par bstod-pa, Phạn ngữ Paramartha-stava)

l Tán Xuất Thế Gian Tụng (‘ Jig-rten-las ‘das-par bstod-pa, Phạn ngữ Lokatita-stava)

 

Một số tác phẩm trong Bộ Sưu Tập Giải Thích Mô Phạm của Long Thọ là:

l Bồ Đề Tâm Luận (Byang-chub sems-kyi ‘grel-ba, Phạn ngữ Bodhicittavivarana)

l Kinh Tập Yếu (mDo kun-las btus-pa, Phạn ngữ Sutrasamuccaya)

l Bằng Hữu Thư (bShes-pa’i spring-yig, Phạn ngữ Suhrllekha)

 

Một vài luận giải về Mật điển Guhyasamaja cũng do ngài Long Thọ sáng tác gồm có:

l Nghi Quỹ Pindikrta (sGrub-thabs mdor-byas, Phạn ngữ Pindikrta-sadhana)

l Phương Pháp Thiền Quán Giai Đoạn Phát Khởi của Mật Điển Đại Du Già Guhyasamaja, Phối Hợp với Nguyên Văn (rNal-‘byor chen-po’i rgyud dpal gsang-ba ‘dus-pa’i bskyed-pa’i rim-pa’i bsgom-pa’I thabs mdo-dang bsres-pa, Mdo-bsres, Phạn ngữ Shri-guhyasamaja-mahayogatantra-utpattikrama-sadhana-sutra- melapaka

l Pancakrama (Năm Giai Đoạn (Giai Đoạn Viên Mãn)) (Rim-pa lnga-pa, Phạn ngữ Pancakrama)

Vị đệ tử lừng danh nhất của ngài Long ThọThánh Thiên (Aryadeva, ‘ Phags-pa lha), tác giả của Tứ Bách Kệ Tụng Bồ Tát Hạnh Du Già (Byang-chub sems-dpa’i rnal-‘byor spyod-pa bzhi-brgya-pa’i bstan-bcos kyi tshig-le’ur byas-pa, Phạn ngữ Bodhisattvayogacarya-catu:shatakashastra-karika), và một vài luận giải về Mật điển Guhyasamaja.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11648)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11152)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11869)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10211)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29183)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11896)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11894)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10895)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19572)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7289)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11323)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35204)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12799)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12160)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17293)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11433)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22043)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11784)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15852)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12085)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14070)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12554)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13183)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13605)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19940)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14368)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13471)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12302)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11856)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34658)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13366)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13654)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31877)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13164)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13040)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13378)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13265)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18001)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14865)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15679)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14808)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15796)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20691)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21239)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35043)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27382)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43846)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37821)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15107)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15011)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12934)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12590)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15570)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27647)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14905)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11373)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53105)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16469)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13118)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20650)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12579)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15561)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15459)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14736)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15583)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13002)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11721)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12256)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12532)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13428)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12407)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24902)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11927)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12701)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11578)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13697)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14033)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12867)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12705)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 12953)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13863)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12948)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13574)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12407)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14398)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13260)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13719)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14581)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11815)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12681)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28194)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11742)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12613)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15000)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 11944)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11719)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12803)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11934)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11488)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10242)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant