Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Ngắn Của Đại Sư Tông Khách Ba

06 Tháng Mười 201513:06(Xem: 13511)
Tiểu Sử Ngắn Của Đại Sư Tông Khách Ba
Tiểu Sử Ngắn Của Đại Sư Tông Khách Ba


Alexander Berzin, tháng Tám, 2003

một phần dựa vào bài giảng của Geshe Ngawang Dhargyey                    
Dharamasala, Ấn Độ
 Lozang Ngodrub dịch; Chân Thông Tri hiệu đính
www.berzinarchives.com

 
Tiểu Sử Ngắn Của Đại Sư Tông Khách Ba

Tiểu sử của một lama vĩ đại được gọi là “namtar” (rnam-thar), một tiểu sử mang tính cách giải thoát, vì nó tạo nguồn cảm hứng cho người nghe noi theo gương của ngài để đạt được giải thoátgiác ngộ. Tiểu sử của ngài Tông Khách Ba (Tsongkhapa) (rJe Tsong-kha-pa Blo-bzang grags-pa) (1357-1419) thật sự gây nhiều cảm hứng.

Lời Tiên TriTuổi Thơ

Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba. Vào thời Đức Phật, một cậu bé thuộc về tiền kiếp của Tông Khách Ba đã cúng dường Đức Phật một chuỗi tràng hạt bằng pha lê và đã được Ngài ban cho một vỏ ốc xà cừ. Đức Thích Ca đã tiên tri rằng Đức Văn Thù Sư Lợi (Manjushri) sẽ giáng thế thành một cậu bé ở Tây Tạng, sẽ thành lập Tu Viện Ganden và cúng dường một vương miện cho tôn tượng của Đức Phật. Ngài đặt tên tương lai của cậu bé là Sumati-kirti (Blo-bzang grags-pa, Lozang-dragpa). Guru Rinpoche cũng tiên tri một vị tăng có pháp danh Lozang-dragpa sẽ sanh ra gần Trung Hoa, sẽ được xem là hóa thân của một đại Bồ tát và sẽ tạc một tượng Phật theo biểu tượng Báo thân (Sambhogakaya).

Một số dấu hiệu trước khi Tông Khách Ba chào đời cho thấy ngài sẽ là một con người vĩ đại. Ví dụ như cha mẹ của ngài đã có nhiều chiêm bao cát tường rằng con mình là hóa thân của Đức Quán Âm (Avalokiteshvara), Đức Văn Thù Sư Lợi (Manjushri) và Đức Kim Cương Thủ (Vajrapani). Vị thầy tương lai của ngài, Chojey Dondrub-rinchen (Chos-rje Don-grub rin-chen), được Yamantaka cho biết trong một linh kiến rằng ngài (Yamantaka) sẽ đến Amdo (A-mdo, Đông Bắc Tây Tạng) vào một năm nào đó và trở thành đệ tử của mình.

Tông Khách Ba ra đời ở Tsongkha (Tsong-kha), Amdo, năm 1357, là đứa con thứ tư trong sáu đứa con trai. Sau khi Tông Khách Ba ra đời được một ngày, Chojey Dondrub-rinchen gởi đại đệ tử của ngài mang lễ vật, một bức tượng và một bức thơ đến cho cha mẹ của ngài. Một cây gỗ đàn hương đã mọc lên ngay chỗ dây cuống rốn của ngài rơi xuống đất. Mỗi chiếc lá có hình ảnh tự nhiên của Đức Phật Sư Tử Hống (Buddha Simhanada, Sangs-rgyas Seng-ge sgra) trên đó, vì vậy nên được gọi là Kumbum (sKu-‘bum), một trăm ngàn hình ảnh tôn thân. Tu Viện dòng Gelug (Cách-lỗ) tên là Kumbum, sau này đã được xây dựng ngay tại đó.

Tông Khách Ba không phải là một đứa trẻ bình thường. Ngài không bao giờ hư hỏng.  Ngài đã thực hiện bồ tát hạnh theo bản năng và cực kỳ thông minh, luôn luôn muốn học hỏi tất cả mọi điều. Lúc ba tuổi, ngài thọ giới cư sĩ với Đức Karmapa thứ Tư, Rolpay-dorjey (Kar-ma-pa Rol-pa’i rdo-rje) (1340-1383). Không lâu sau đó, cha của ngài thỉnh mời Chojey Dondrub-rinchen đến nhà của họ. Vị lama này ngỏ ý sẵn sàng lo lắng cho việc học của cậu bé, và cha cậu vui vẻ đồng ý. Cậu bé ở nhà học với Chojey Dondrub-rinchen cho đến bảy tuổi. Chỉ cần nhìn thầy đọc, ngài đã biết đọc theo bản năng mà không cần được dạy.

Trong thời gian này, Chojey Dondrub-rinchen ban cho cậu bé lễ quán đảnh Ngũ Hộ Phật Chakrasamvara (Five-Deity Chakrasamvara, Dril-bu lha-lnga), Hevajra, Yamantaka và Kim Cương Thủ (Vajrapani). Đến bảy tuổi, ngài đã học thuộc lòng toàn bộ nghi thức của các lễ quán đảnh này, đã hoàn tất khóa nhập thất Chakrasamvara, thực hiện pháp tự-quán-đảnh, và có một linh kiến về Đức Kim Cương Thủ. Ngài thường nằm chiêm bao thấy A-đề-sa (Atisha, Jo-bo rJe dPal-ldan A-ti-sha) (982-1054), một dấu hiệu cho thấy ngài sẽ sửa đổi sự hiểu lầm về Phật phápTây Tạng và khôi phục tính thuần tịnh của giáo pháp, kết hợp Kinh điểnMật điển, như A-đề-sa đã làm.

Vào lúc bảy tuổi, Tông Khách Ba thọ giới Sa di với Chojey Dondrub-rinchen và  nhận pháp danh Lozang-dragpa. Ngài tiếp tục tu học ở Amdo với vị lama này cho đến mười sáu tuổi, rồi đến U-tsang (dBus-gtsang, miền Trung Tây Tạng) để tu học thêm. Ngài không bao giờ trở lại quê nhà. Chojey Dondrub-rinchen ở lại Amdo, nơi ông thành lập Tu Viện Jakyung (Bya-khyung dGon-pa) ở phía Nam của Kumbum.

Những Năm Đầu Tu Học Ở Miền Trung Tây Tạng

Ở miền Trung Tây Tạng, trước hết, Tông Khách Ba tu học tại một tu viện của phái Drigung Kagyu, nơi ngài theo học truyền thống Đại Thủ Ấn Drigung (Drigung mahamudra) gọi là “sở hữu năm” ("possessing five", phyag-chen lnga-ldan), y khoa và học hỏi thêm nhiều chi tiết về bồ đề tâm. Năm mười bảy tuổi, ngài đã trở thành một y sĩ lành nghề. Rồi ngài học Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (Filigree of Realizations, mNgon-rtogs-rgyan, Phạn ngữ Abhisamayalamkara), các bản văn khác của Đức Di Lặc, và Bát nhã ba la mật (phar-phyin, far-reaching discriminating awareness) tại một số tu viện của phái Nyingma (Ninh-mã), Kagyu (Ca-nhĩ-cư), Kadam và Sakya (Tát-ca), và học thuộc lòng các bản văn trong vòng vài ngày. Năm mười chín tuổi, ngài đã được xem là một đại học giả.

Ngài tiếp tục đi đến các tu viện danh tiếng nhất của các truyền thống Phật giáo Tây Tạng, tu học năm đề tài chánh của chương trình huấn luyện Geshe và các hệ thống học thuyết Ấn Độ, tranh luận về các đề tài này và dự thi môn tranh luận. Ngài thọ nhận các giáo huấn Kadam Lam-rim (Lam-rim, Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ theo Kinh điển), cũng như vô số lễ quán đảnhgiáo huấn Mật điển, kể cả Lamdray của truyền thống Sakya (Lam-‘bras, Đường Tu và Kết Quả), Sáu Pháp Du Già của Naropa theo truyền thống Drigung Kagyu (Na-ro’i chos-drug, six yogas of Naropa), và Thời Luân (Kalachakra). Ngài còn học sáng tác thơ, chiêm tinh học và cách tạo dựng mạn đà la (mandala). Trong tất cả các môn học, ngài chỉ cần nghe một bài giảng giải một lần thôi là đã hiểu và nhớ một cách hoàn hảo – như trường hợp của Đức Dalai Lama thứ Mười Bốn.

Tông Khách Ba luôn luôn có tâm xả ly mạnh mẽ. Ngài có lối sống vô cùng khiêm tốn và trì giới thanh tịnh. Ngài thành tựu thiền chỉ (shamatha, zhi-gnas, tâm trạng tĩnh lặng) và quán (vipashyana, lhag-mthong, tâm trạng nhận thức một cách sâu sắc) một cách dễ dàng, nhưng chẳng bao giờ thỏa mãn với việc học hay trình độ thực chứng của mình. Ngài tiếp tục du hành và xin thọ nhận các giáo huấn hết lần này đến lần khác, kể cả giáo huấn về cùng một bản văn. Ngài đã tranh luậntham gia các kỳ khảo thí tranh luận với các đạo sư thông tuệ nhất vào thời của ngài. Một trong những vị thầy chánh của ngài là Rendawa (Red-mda’-ba gZhon-nu blo-gros) (1349-1412), một đạo sư phái Sakya. Tông Khách Ba sáng tác bài Migtsema (dMigs-brtse-ma) để tán thán ông, nhưng ông lại hồi hướng nó lại cho ngài. Sau này, nó trở thành lời kệ được trì tụng nhiều lần cho hành trì guru yoga về Tông Khách Ba.

Hoằng PhápSáng Tác Trong Những Năm Đầu

Tông Khách Ba bắt đầu hoằng pháp vào những năm của tuổi hai mươi, và bài pháp đầu tiên của ngài là A-tỳ-đạt-ma (abhidharma, mdzod, các đề tài kiến thức đặc biệt). Mọi người đều kinh ngạc về sự uyên bác của ngài. Ngài cũng bắt đầu sáng tácnhập thất nhiều hơn. Không bao lâu, ngài đã có nhiều đệ tử. Dù một số bài tường thuật nói rằng Tông Khách Ba thọ giới Tỳ kheo năm 21 tuổi, nhưng không chắc chắn việc này đã xảy ra vào năm nào. Có lẽ nó xảy ra trễ hơn, trong những năm của tuổi hai mươi.

Có một lúc, ngài đã tu học và phân tích toàn bộ Kangyur (bKa’-‘gyur) và Tengyur (bsTan-‘gyur) – các giáo huấn trực tiếp của Đức Phật (Kinh điển) và các luận giải của Ấn Độ, đã được chuyển ngữ. Sau đó, ngài đã viết Chuỗi Tràng Hạt Vàng Của Giảng Giải Xuất Sắc (A Golden Rosary of Excellent Explanation, Legs-bshad gser-phreng), một bản luận giải về Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (Filigree of Realizations), vì vậy là về Bát nhã ba la mật. Ngài đã tổng hợp và thảo luận về toàn bộ hai mươi mốt bản luận giải của Ấn Độ. Trong bất cứ tác phẩm nào do ngài sáng tác, ngài đã chứng minh bằng các trích dẫn từ toàn bộ văn học Phật giáo Ấn ĐộTây Tạng, so sánh và thậm chí hiệu đính các bản dịch khác nhau với lời bình. Không như các học giả trước đây, ngài không bao giờ né tránh việc giải thích những đoạn văn khó khăn và tối nghĩa nhất trong bất cứ bản văn nào.

Bình thường, mỗi ngày, Tông Khách Ba có thể thuộc lòng mười bảy trang sách hai mặt tiếng Tây Tạng, mỗi mặt có chín hàng chữ. Một lần nọ, một số học giả tổ chức kỳ thi học thuộc lòng, để xem ai là người có thể học thuộc nhiều trang sách nhất, trước khi mặt trời lên ngang ngọn phướn trên mái nhà của tu viện. Tông Khách Ba đã thắng với kỷ lục bốn trang mà ngài đọc thuộc lòng một cách trôi chảy, không sai sót gì. Người đứng hạng nhì chỉ có thể thuộc lòng hai trang rưỡi một cách loạng choạng.

Không lâu sau đó, Tông Khách Ba bắt đầu ban các lễ quán đảnhthuyết pháp Mật tông, đặc biệtcho phép hành trì (rjes-snang, jenang) pháp tu Diệu Âm Thiên Nữ (Sarasvati dByangs-can-ma), liên quan đến trí tuệ. Ngài cũng tiếp tục tu học Mật điển, đặc biệtpháp Thời Luân (Kalachakra).

Có một vị lama vĩ đại nổi danh về việc giảng dạy mười một bản văn cùng một lúc. Một đệ tử đã thỉnh cầu Tông Khách Ba làm như vậy. Thay vì vậy, Ngài đã giảng mười bảy Kinh điển chánh, toàn bộ bằng trí nhớ, một bản kinh văn được giảng trong một buổi mỗi ngày, bắt đầu giảng tất cả các bản Kinh trong cùng một ngày và kết thúc tất cả trong ba tháng sau, cũng trong cùng một ngày. Trong lúc giảng dạy, ngài bác bỏ cách diễn giải sai lầm về mỗi bản kinh văn và thiết lập kiến giải riêng. Mỗi ngày, trong buổi thuyết pháp, ngài còn thực hiện lễ tự-quán-đảnh (self-initiation, bdag-‘jug) Yamantaka và tất cả các hành trì Mật điển khác.

Nếu chúng ta nhìn vào cuộc đời chỉ có 62 năm của Tông Khách Ba để xem ngài đã tu học, hành trì bao nhiêu (kể cả việc tạc tượng đất sét tsatsa), đã sáng tác, giảng dạy và nhập thất bao nhiêu thì có lẽ không ai có thể làm được như ngài, dù chỉ thực hiện một việc trong tất cả những điều này trong một kiếp.

Tu HọcHành Trì Mật Điển Một Cách Sâu Sắc

Không lâu sau đó, Tông Khách Ba đã thực hiện khóa nhập thất dài đầu tiên về  Chakrasamvara, theo phái Kagyu. Trong kỳ nhập thất này, ngài đã thiền quán sâu sắc về sáu giáo huấn của Naropa và sáu giáo huấn của Niguma (Ni-gu’i chos-drug, Sáu Pháp Du Già của Niguma). Ngài đã đạt được thực chứng cao cả.

Sau đó, ở tuổi 34, Tông Khách Ba quyết định dấn thân vào việc nghiên cứuhành trì sâu tất cả bốn cấp độ Mật điển. Như ngài đã viết sau đó, một hành giả không thể thật sự đánh giá cao tính thâm thúy của Tối Thượng Du Già Mật điển (anuttarayoga tantra), trừ khi họ đã hành trì và thấu hiểu ba cấp độ Mật điển thấp hơn một cách sâu sắc. Vì vậy, ngài lại có những chuyến đi xa, nhận nhiều lễ quán đảnhgiáo huấn về ba cấp độ Mật điển thấp hơn. Ngài còn nghiên cứu thêm về năm giai đoạn của giai đoạn viên mãn (five-stage complete stage, rdzogs-rim) của Guhyasamaja và Thời Luân.

Tu HọcNhập Thất Để Đạt Được Chứng Ngộ Vô Niệm Về Tánh Không

Tông Khách Ba còn tiếp tục nghiên cứu hành trì của Vòng Mật Điển Văn Thù Sư LợiTrung Quán (Manjushri Tantric Cycle and Madhyamaka) với Lama Umapa (Bla-ma dbu-ma-pa dPa’-bo rdo-rje) của phái Karma Kagyu. Vị đạo sư vĩ đại này nghiên cứu Trung Quán trong truyền thống Sakya và từ nhỏ, đã có linh kiến về Đức Văn Thù  Sư Lợi mỗi ngày, và Đức Văn Thù đã dạy cho ông một câu kệ mỗi ngày. Tông Khách Ba và ông đã trở thành cả thầy lẫn trò của nhau. Lama Umapa đã phối kiểm với Tông Khách Ba để xác định rằng giáo huấn mà ông thọ nhận qua linh kiến với Đức Văn Thùđúng đắn. Điều này rất quan trọng, vì các linh kiến có thể bị ma quỷ ảnh hưởng.

Cùng với Lama Umapa, Tông Khách Ba thực hiện một kỳ nhập thất sâu rộng về Đức Văn Thù Sư Lợi. Từ đó trở đi, Tông Khách Ba nhận được chỉ giáo trực tiếp từ Đức Văn Thù qua các linh kiến thanh tịnh, và có thể nhận câu trả lời về những thắc mắc của mình từ Đức Văn Thù. Trước đó, Lama Umapa phải chuyển thắc mắc của Tông Khách Ba cho Đức Văn Thù.

Trong lúc nhập thất, Tông Khách Ba cảm thấy mình không có sự thấu hiểu đúng đắn về Trung Quán và Guhyasamaja. Đức Văn Thù khuyên ngài nên nhập thất dài hạn, rồi thì ngài sẽ hiểu được những điều ngài đã ghi chép từ các chỉ giáo của Đức Văn Thù. Vì vậy, sau khi hoằng pháp một thời gian ngắn, Tông Khách Ba đã nhập thất bốn năm với tám đệ tử thân cận ở Olka Cholung ('Ol-kha chos-lung). Các vị đã hành trì 100 000 lạy ba mươi lăm bận, mỗi bận hành trì cho ba mươi lăm vị Phật của pháp sám hối, và cúng dường 100 000 mạn đà la mười tám bận, với nhiều pháp tự-quán-đảnh Yamantaka và nghiên cứu về bồ tát hạnh trong Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka Sutra, mDo phal-cher). Sau đó, các ngài có một linh kiến về Đức Di Lặc.

Sau kỳ nhập thất, Tông Khách Ba và các đệ tử trùng tu một pho tượng vĩ đại của Đức Di Lặc tại Lhasa, đó là công hạnh đầu tiên trong bốn công hạnh lớn của ngài. Rồi các ngài lại nhập thất thêm năm tháng nữa. Sau đó, Lama Lhodrag Namka-gyeltsen (Lho-brag Nam-mkha’ rgyal-mtshan) thuộc phái Nyingma, người đã liên tục có linh kiến về Đức Kim Cương Thủ (Vajrapani), đã mời Tông Khách Ba, và hai vị trở thành cả thầy lẫn trò của nhau. Ông đã trao truyền Kadam Lam-rim và khẩu truyền về tôn chỉ của các dòng truyền thừa cho Tông Khách Ba.

Tông Khách Ba muốn đến Ấn Độ để tu học thêm, nhưng Đức Kim Cương Thủ khuyên ngài nên ở lại Tây Tạng, vì ngài sẽ tạo nhiều lợi lạc ở đó hơn, nên ngài đã ở lại. Ngài quyết định sau này sẽ sáng tác Đại Luận Về Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ (A Grand Presentation of the Graded Stages of the Path, Lam-rim chen-mo) về trình tự đường tu theo Kinh điển, rồi đến Đại Luận Về Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ Theo Mật Điển (A Grand Presentation of the Graded Stages of the Tantra Path, sNgags-rim chen-mo) về trình tự hành trì của bốn cấp độ Mật điển.

Sau đó, Tông Khách Ba thực hiện một kỳ nhập thất sâu rộng về giai đoạn viên mãn của Thời Luân, và sau đó là một năm nhập thất về Trung Quán. Mặc dù đã tu học nhiều về Trung Quán và Không tuớng từ các vị thầy của mình, ngài chẳng bao giờ cảm thấy thỏa mãn với mức độ giảng giải ấy. Trước khi thực hiện khóa nhập thất dài một năm, Đức Văn Thù đã khuyên ngài nên dựa vào luận giải Trung Quán của ngài Phật Hộ (Buddhapalita, Sangs-rgyas bskyangs). Tông Khách Ba đã làm theo lời khuyên và nhờ vậy, trong lúc nhập thất, ngài đã đạt được đầy đủ thực chứng vô niệm về tánh Không.

Dựa trên thực chứng của mình, Tông Khách Ba đã hoàn toàn tu chỉnh lại sự hiểu biết của giáo huấn Trung quán-Cụ Duyên về Không tướng và các đề tài liên quan mà các vị thầy và đạo sư thông tuệ đã thấu hiểu trong thời của ngài. Về phương diện này, ngài là một nhà cải cách cấp tiến, có can đảm vượt qua niềm tin đương thời, khi cảm thấy nó không thỏa đáng.

Sự cải cách giáo pháp của Tông Khách Ba luôn luôn nghiêm túc dựa trên luận lý và việc tham khảo Kinh điển. Khi thiết lập kiến giải riêng của mình thành ý nghĩa sâu sắc nhất của các giáo phápđại từ Ấn Độ, ngài không hề vi phạm sự gắn bó và quan hệ gần gũi với các vị thầy của mình. Xem các vị thầy của mình như Phật không có nghĩa là chúng ta không thể vượt qua các vị về phương diện thực chứng. Tsenzhab Serkong Rinpoche đời thứ Hai có giải thích điều này bằng thí dụ sau đây.

Chúng ta cần trộn nhiều vật liệu với nhau, như bột, bơ, sữa, trứng, v.v... để làm một cái bánh. Các vị thầy chỉ ta cách làm bánh và nướng một vài cái bánh cho chúng ta. Bánh có thể rất ngon và có thể ta rất thích chúng. Nhờ vào lòng tử tế của thầy, giờ đây, chúng ta đã biết cách làm bánh. Điều này không có nghĩa là ta không thể có vài sự thay đổi, thêm vài vật liệu khác vô và làm những cái bánh ngon hơn cả bánh của thầy mình. Khi làm như vậy, chúng ta không có ý bất kính đối với thầy. Nếu các thầy là những vị thật sự hội đủ các phẩm hạnh cao quý, họ sẽ tùy hỷ đối với việc cải thiện công thức làm bánh của ta và thưởng thức những cái bánh mới với chúng ta.

 

Các Công Hạnh Cao Cả Khác

Sau khi hoằng pháp thêm một thời gian, Tông Khách Ba lại nhập thất, lần này cùng với thầy của ngài là Rendawa, và viết hầu hết tác phẩm Lam-rim chen-mo. Trong kỳ nhập thất này, ngài có một linh kiến về A-đề-sa và các đạo sư dòng truyền thừa Lam-rim trong suốt một tháng, làm sáng tỏ nhiều thắc mắc của ngài. Kế đến, ngài đã nghiên cứu thêm về sáu hành trì của Naropa và Đại Thủ Ấn với phái Drigung Kagyu. Trong mùa mưa sau đó, ngài đã giảng dạy giới luật (vinaya,‘dul-ba) một cách rất rõ ràng, và điều này được xem là công hạnh lớn thứ hai của ngài.

Sau khi hoàn tất tác phẩm Lam-rim chen-mo, Tông Khách Ba quyết định giảng dạy đầy đủ hơn về Mật điển. Tuy nhiên, trước tiên, ngài viết các luận giải sâu rộng về bồ tát giớiĐạo Sư Ngũ Thập Kệ Tụng (Fifty Stanzas on the Guru, Bla-ma lnga-bcu-pa, Phạn ngữ Gurupanchashika), để nhấn mạnh hai đề tài này là nền tảng của hành trì Mật điển. Rồi trong khi tiếp tục giảng pháp, ngài đã sáng tác Ngag-rim chen-mo (Đại Luận Về Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ Theo Mật Điển) và nhiều luận giải về Guhyasamaja. Ngài còn viết về Yamantaka và các bản văn Trung Quán Luận của Long Thọ (Nagarjuna).

Hoàng Đế Trung Hoa mời ngài làm gia sư hoàng gia cho ông, nhưng Tông Khách Ba từ chối, viện cớ rằng ngài đã quá già và muốn nhập thất.

Trong hai năm kế tiếp, Tông Khách Ba đã giảng dạy Lam-rim và Mật điển một cách rộng rãisáng tác Cốt Tủy của Diễn Giải Xuất Sắc về Ý Nghĩa Diễn DịchÝ Nghĩa Tối Hậu (The Essence of Excellent Explanation of Interpretable and Definitive Meanings, Drang-nges legs-bshad snying-po), về ý nghĩa tối hậuý nghĩa diễn dịch của học thuyết Đại thừa. Vào năm 1409, lúc 52 tuổi, ngài đã khai mạc Đại Lễ Cầu Nguyện Monlam (Monlam Great Prayer Festival, sMon-lam chen-mo) tại chùa Jokang (Jo-khang) ở Lhasa. Ngài đã cúng dường một vương miện bằng vàng cho pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, như một lời tuyên bố rằng giờ đây, đó là một pho tượng của Báo thân (Sambhogakaya), không chỉ là Hóa thân (Nirmanakaya) của Đức Phật. Báo thân của chư Phật sống cho đến khi tất cả chúng sanh đều được giải thoát khỏi luân hồi, trong khi Hóa thân thì chỉ sống trong một thời gian ngắn. Điều này được xem là công hạnh lớn thứ ba của ngài. Sau đó, các đệ tử xin ngài đừng vân du quá nhiều và họ đã sáng lập Tu Viện Ganden (Ganden Monastery, dGa’-ldan dGon-pa) cho ngài.

Tại Tu Viện Ganden, Tông Khách Ba tiếp tục giảng dạy, sáng tác (đặc biệt là về Chakrasamvara), và nhập thất. Ngài đã ủy thác việc xây dựng chánh điện lớn của Ganden, với một tượng Phật vĩ đại và các mạn đà la ba chiều bằng đồng của  Guhyasamaja, Chakrasamvara và Yamantaka. Điều này được xem là công hạnh lớn thứ tư của ngài. Ngài tiếp tục việc sáng táccuối cùng, có tổng cộng mười tám bộ  tác phẩm sưu tập, với sáng tác về Guhyasamaja là nhiều nhất.

 

Viên Tịch

Tông Khách Ba viên tịchTu Viện Ganden vào năm 1419, lúc 62 tuổi. Ngài đã thành tựu giác ngộ sau khi viên tịch bằng cách đạt được huyễn thân (illusory body, sgyu-lus), thay vì mang thân trung ấm. Điều này nhấn mạnh nhu cầu giữ gìn đời sống độc thân nghiêm ngặt của các tăng sĩ, bởi vì giác ngộ trong đời này đòi hỏi việc hành trì với một vị phối ngẫu ít nhấtmột lần.

Trước khi viên tịch, Tông Khách Ba trao tặng mũ và tăng bào của mình cho Gyeltsabjey (rGyal-tshab rJe Dar-ma rin-chen) (1364-1432), người đã trở thành chủ tọa pháp tòa trong mười hai năm sau đó. Điều này bắt đầu truyền thống Chủ Tọa Pháp Tòa Ganden (Ganden Throne Holder, dGa’-ldan khri-pa, Ganden Tripa) là vị trưởng dòng Gelug. Vị chủ tọa pháp tòa kế tiếp là Kaydrubjey (mKhas-grub rJe dGe-legs dpal-bzang) (1385-1438), người mà về sau đã có năm linh kiến về Tông Khách Ba. Điều này làm sáng tỏ những nghi ngờgiải đáp các thắc mắc của ông. Dòng truyền thừa Gelug đã hưng thịnh kể từ đó.

Các Đệ Tử

Một vài đệ tử thân cận của Tông Khách Ba đã sáng lập các tu viện để nối tiếp dòng truyền thừaquảng bá giáo huấn của ngài. Trong khi Tông Khách Ba còn tại thế, Jamyang Chojey (‘Jam-dbyangs Chos-rje bKra-shis dpal-ldan) (1379-1449) đã sáng lập Tu Viện Drepung (Drepung Monastery, 'Bras-spungs dGon-pa) vào năm 1416, và Jamchen Chojey (Byams-chen Chos-rje Shakya ye-shes) (1354-1435) đã thành lập Tu Viện Sera (Sera Monastery, Se-ra dGon-pa) năm 1419. Sau khi Tông Khách Ba viên tịch, Gyu Sherab-senggey (rGyud Shes-rab seng-ge) (1383-1445) đã thành lập Trường Cao Đẳng Mật Điển Miền Hạ (Gyumay Lower Tantric College, rGyud-smad Grva-tshang) năm 1433, và Gyelwa Gendun-drub (rGyal-ba Ge-’dun grub) (1391-1474), sau khi viên tịch, đã được thụ phong là Đức Dalai Lama thứ Nhất, người đã sáng lập Tu Viện Tashilhunpo (Tashilhunpo Monastery, bKra-shis lhun-po) năm 1447.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18522)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16017)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29848)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25448)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21594)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17801)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20801)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26301)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33290)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52109)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22853)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23394)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39614)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21778)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22350)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6821)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22701)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69766)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 43960)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23038)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35004)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44051)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42873)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44389)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24885)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24343)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39177)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39204)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17241)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18011)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19239)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35633)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24192)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19570)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20380)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18278)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18950)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18916)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17456)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19286)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30806)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19172)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20499)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19529)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19744)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29771)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17816)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19376)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19860)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58747)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24392)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23486)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39730)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26690)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40743)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22842)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22900)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21572)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18599)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22568)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21059)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19180)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20915)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20311)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30524)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20173)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17439)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16565)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16834)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14938)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14815)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22830)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16021)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16182)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15234)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26051)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17173)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15768)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19756)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17658)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14665)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14723)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19110)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15096)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33022)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17470)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19107)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21780)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 22963)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16605)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16456)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16475)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22962)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26346)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12720)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29487)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27686)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25878)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18440)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 15549)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant