Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Những Phương Tiện Nội Tại Của Thiền

11 Tháng Mười 201507:41(Xem: 9275)
Những Phương Tiện Nội Tại Của Thiền

NHỮNG PHƯƠNG TIỆN NỘI TẠI CỦA THIỀN

Tuệ Thiện

 

Những Phương Tiện Nội Tại Của ThiềnHãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trốngngồi kiết già lưng thẳng, vị tỳ kheo an trú trong nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệmquán Thân trên thân, quán Thọ trên các cảm thọ, quán Tâm trên tâm, quán Pháp trên pháp » trong bài kinh Niệm Xứ (Sattipatthana sutta) đức Phậtgiải thích thế nào là THẦN, THỌ, TÂM, PHÁP và Đức Phật nhấn mạnh nhiều lần « Vị tỳ kheo khi ấy an trú trong nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời ».

Đồng thời Ngài lập đi lập lại : « Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân ; hay sống quán thân trên ngoại thân ; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. »

Rồi đức Phật cũng lập lại y như vậy cho THỌ, TÂM, PHÁP.

(Kinh Niệm xứ, TRUNG BỘ KINH,10)

NHẬN XÉT :

  1. Điều kiện bền ngoài: Khung cảnh yên tịnh.
  2. Những phương tiện bên trong: nhiệt tâm (tinh tấn cố gắng), tỉnh giác (sáng suốt), chánh niệm (chú tâm).
  3. Những đối tượng để chú tâm quan sát: THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP.
  4. Mục đích giải trừ phiền não : tham, sân, si
  5. Đem áp dụng thiền vào cuộc sống (sống thiền)

Trong định nghĩa trên, quan trọng nhất là những yếu tố nội tại : nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm.

  1. 1.    Nhiệt tâm là động lực, năng lực, sự cố gắng ( l'énergie, l'effort )
  • sự cố gắng ở bên ngoài khiến chúng ta thu xếp thời giờ để có thời gian hành đạo, khiến chúng ta 5-6 giờ sáng lồm cồm thức giấc, đặt mình trong tư thế thiền, trong khi những người khác đang triền miên trong giấc điệp; nó cũng khiến chúng ta đều đặn liên tục không bỏ dỡ con đường tu tập.
  • Sự cố gắng ở bên trong là nổ lực duy trì sự chú tâm, giác tỉnh trên đề mục, không lơ đểnh phóng tâm, nó gìn giữ một mức độ năng lượng (degré énergétique) cần thiết để tâm có thể duy trì liên tục trên đề mục. Khi chúng ta bị mệt mõi tinh thần, sự chú tâm sẽ yếu kém, chúng ta trở nên lơ đễnh, hay quên, không tập trung tinh thần được. Một người bị bịnh thần kinh suy nhược (dépression nerveuse) thiếu mất hoàn toàn chức năng nầy nơi tâm.

      Để dễ hiểu chúng ta lấy một ví dụ : một người đang đọc sách trước khi ngủ, anh cảm thấy bắt đầu buồn ngủ, chữ nghĩa bắt đầu nhảy múa trước mắt, đọc câu sau quên câu trước ; nhưng vì cái chương nầy trong sách quá hấp dẫn, anh muốn đọc cho hết, lúc đó anh phải tăng cường sự cố gắng ở trong tâm để đọc cho hết chương. Đó chính là sự nhiệt tâm, nó rất cần thiết cho thiền.

  1. 2.    Niệm :

Tiếng Pali là Sati, tiếng Pháp là attention. Niệm là ý thức, nhận biết, nắm bắt một đối tượng khi nó lọt vào 6 cửa là mắt, tai, mũi, lưởi, thân và ý. Đó là 5 giác quan giúp con người tiếp xúc với thế giới bên ngoài ngay trong giây phút hiện tại và một cửa ý để mở vào thế giới bên trong, giúp ta nắm bắt các đối tượng nội tại ở 3 thời quá khứ, hiện tại, tương lai và cả những ý niệm trừu tượng như Tánh Không chẳng hạn. Đây là giác quan thứ 6 của PG, một chức năng quan trọng của Tâm, mà thiền cố gắng luyện tập và cải thiện.

      Để dễ hiểu hơn lấy một ví dụ : chúng ta đang ngồi chung quanh một bàn tròn trong một tiệc cưới, khung cảnh thật là ồn ào, náo nhiệt : người nầy nói, người kia cười. Nếu chúng ta muốn nghe được, hiểu được câu chuyện của người ngồi bên kia bàn, chúng ta phải hướng sự chú tâm, tập trung tư tưởng về phía người ấy. Thỉnh thoảng nếu chúng ta lơ đễnh hoặc đễ tâm đến việc khác, câu chuyện bị đứt khoản. Muốn cho sự chú tâm được liên tục, tâm phải giữ một mức độ năng lực nhất định.

      Chú tâm hay Niệm giữ một vai trò rất quan trọng trong thiền. Không có Niệm không có thiền.

  1. 3.    Giác tỉnh (vigilance, claire compréhension)

Là sự hiểu biết rõ ràng, sáng suốt, là trạng thái tâm tỉnh thức, tỉnh táo, trong suốt như dòng nước chảy qua các khe đá  hay như một bầu trời trong sáng không một áng mây khiến ta có thể nhìn đến tận những vì sao xa thẳm. Tỉnh giác luôn luôn đi chung với Chánh niệm.  Nó làm nền, làm khung cảnh cho Chánh niệm làm việc. Không có nó, Niệm sẽ làm việc trong vô minh, mờ ảo. Trong y học người ta khảo sát những mức độ tỉnh thức đi từ bình thường tới Hôn mê, người ta phân biệt 4 trạng thái: chênh choáng, lú lẫn, mê đờ, hôn mê (obnubilation, confusion, stupeur,coma).

Trong khoa học Trầm Niệm, người ta phân biệt những trạng thái từ sự Thụy Miên đến Hôn Trầm  đến Tỉnh Giác bình thường , đến Tỉnh Giác đi chung Khinh An, rồi tới Tỉnh Giác phối hợp với Định và sau cùng Tỉnh Giác phối hợp với Định và Xả. 

Sự giác tỉnh có 4 dạng thái, gắn liền với Niệm từ đầu cho đến cuối buổi thiền tập, hay trong trọn khoá thiền tích cực, trừ lúc ngủ, cho dù ta ở tư thế nào trong 4 tư thế : đi, đứng, ngồi, nằm hay trong bất cứ sinh hoạt nào ăn, uống, nghỉ ngơi, làm vườn, quét dọn…

  1. Giác tỉnh về mục đích (Satthaka Sampajanna) làm việc gì cũng phải có mục đích. Một người không có mục đích hay hành động mà không biết rõ mục đích là người sống trong vô minh. Đời sống con người thật ra không ngoài hai mục đích chính yếu : thoả mãn những nhu cầu và những gì mình ham muốn hoặc chửa trị những gì mình đang đau đớn, khổ sở ; ngoài đó ra là thái độ chịu đựng, lẫn tránh cuộc đời. Như những người ở cuối cuộc đời, người bịnh trầm cảm họ không còn mục đích trong cuộc sống. Như có 1 bà cụ sống trên 100 tuổi mỗi lần nghe có 1 bạn già qua đời bà mừng cho người ấy và than rằng “ trời ơi Chúa quên tôi rồi, sao để tôi sống mãi thế nầy “.

      PG đưa ra giải pháp chửa trị cả hai vừa tham muốn vừa đau khổ bằng phương pháp thiền định. Mục đích của THIỀN rõ ràng là để thiêu đốt phiền não, tiêu diệt THAM, SÂN, SI, là 3 hình thái của sự đau Khổ.

  1. Giác tỉnh về những phương tiện thích hợp, thích nghi đúng thì (Sappaya Sampajanna)

Thông minh là gì ? nếu không phải là biết đúng phương cách, xử dụng đúng phương tiện để thực hiện mục đích.

      Trong đời sống chúng ta bị lệ thuộc bởi nhiều điều kiện : thời gian, không gian, phương tiện… Trong thiền cũng vậy : có những điều kiện về trú xứ (nơi thanh tịnh, vắng vẻ) về vật thực (thức ăn vừa đủ, nhẹ nhàng không kích thích, không làm buồn ngủ), về người hướng dẫn : có pháp học, có kinh nghiệm, có giới đức…v.v. Phải sáng suốt thích ứng với các điều kiện trong khả năng có thể làm được, biết khéo léo chọn lựa những phương tiện thích hợp, đúng lúc.

      Nhờ sự giác tỉnh nầy chúng ta mới hoàn thành được mục đích.

  1. Giác tỉnh về phạm vi của thiền (gocara Sampajanna) : các nhà chú giải xưa giải thích đó là « sự không bỏ quên đề mục thiền trong đời sống thường nhật » Theo đại đức Nyanaponika, trong quyển «cốt lõi của thiền PG» (le cœur de la méditation bouddhiste. Edition J. Maisonneuve), điều nầy có thể được hiểu bằng hai cách :

Nếu chúng ta thực hành một đề mục thiền đặc biệt, (như quán tưởng về tính cách bất tịnh của vật thực), chúng ta ráng pha trộn nó với những công việc hoặc ý nghĩ đòi hỏi bởi sinh hoạt đang có. Chẳng hạn trong khi ăn uống, vừa ăn vừa quán tưởng. Như vậy 2 phạm vi thiền tậpđời sống pha trộn lẫn nhau. Nếu giữa sinh hoạt đời sống và đề tài thiền tập không thể trộn lẫn được, thì chúng ta tạm rời bỏ đề mục thiền để sẽ lấy lại nó sau khi công việc đã xong.

      Bằng cách đó có thể được kể như là không bỏ quên đề mục thiền.

      Nếu chúng ta thực hành Chánh Niệm, Tỉnh Giác như được hướng dẫn trong thiền Quán (hay thiền Minh Sát) thì không cần phải gác lại đề mục thiền vì phạm vi thiền quán bao trùm mọi sinh hoạt của đời sống, gồm mọi hoạt động của thân, khẩu, ý. Chúng ta thiền trong cuộc sống hay nói một cách khác  là sống trong thiền.

      Sự thành công của hành giả đòi hỏi sự vận dụng giác tỉnh đã luyện tập được vào những hoàn cảnh đặc biệt của đời sống. Như vậy giữa thiền tậpđời sống không tách biệt nhau. Hành giả đang sống thiền. Giác tỉnh về phạm vi của thiền có thể được hiểu là biết rõ ràng lúc nào chúng ta đang ở trong thiền và lúc nào đã xuất thiền ; hay lúc nào có chánh niệm, lúc nào thiếu chánh niệm.

  1. Giác tỉnh về thực tại không ảo kiến (asammoha sampajanna) cho đến một mức độ khách quan nào đó sẽ dần dần được phát triển trong thiền tập, khi quan sát ta luôn luôn nhìn dưới lăng kính ít nhiều ngã chấp hoặc với nhãn quan tình cảm, vì tất cả mọi sinh hoạt đều bắt nguồn từ tôi : tôi thấy, tôi nghe, tôi hiểu, tôi cảm nhận…

Cái ảo kiến chấp ngã nầy đã tập nhiễm thâm sâu cùng tận trong con người. Chỉ có khi nào với sự luyện tập lâu dài bền vững, quan sát tới quan sát lui những hiện tượng ở trong thân và ở trong tâm (ngủ uẩn) và thấy rằng chúng chỉ là những diễn trình vô ngã, lúc đó ta mới dần dần bẻ gảy và loại bỏ cái quan kiến duy ngã tự kỷ trên.

Chúng ta hãy nghe nhà tâm lý học William James, cha đẻ của ngành tâm lý học hiện đại Mỹ, tự thuật về sự nội quán của ông : « riêng về phần tôi, khi thâm nhập mật thiết vào cái mà tôi gọi là « Tôi » thì luôn luôn tôi vấp phải một cảm giác đặc biệt như nóng hay lạnh, sáng hay tối, thương hay ghét, vui hoặc buồn. Tôi chưa từng bắt gặp cái “tôi” ngoài những cảm giác ấy và chưa hề chiêm nghiệm được cái gì ngoài cảm giác...”(William James, Principales of Psychology trang 351)

Nhà khoa học khi quan sát với thái độ khách quan sẽ giống với một thiền gia quan sát với tâm vô ngã. Hai vị đã cùng xử dụng sự giác tỉnh về thực tại không ảo kiến.

Trong Thiền còn một yếu tố nữa không kém phần quan trọng : đó là Quán hay Quan sát.

  1. 4.    Quán : (observation - quan sát)

      Ngày nay Thiền đã đi vào lãnh vực của khoa học, một nền khoa học mới được gọi là khoa học trầm niệm (science contemplative), trong đó sự quan sát cũng vẫn là phương tiện chánh yếu đầu tiên.Trong khoa học tự nhiên người ta quan sát một sự vật, một hiện tượngthế giới bên ngoài bằng 5 giác quan, nhất là bằng mắt và tai với sự trợ giúp của các dụng cụ như kính-hiển-vi, kính-viển-vọng, hoặc máy chụp hình, chụp quang tuyến… Trong khi các thiền gia quan sát các hiện tượng thuộc thế giới bên trong và bằng ý thứcgiác quan thứ 6 của PG. Dĩ nhiên có rất nhiều trở ngại trong phương cách nầy và kết quả tìm thấy không ai giống ai, vì mỗi người có sự cố gắng, một hiểu biết hay phương pháp khác nhau. Ngay cả những người thực hành cùng một phương pháp, kết quả cũng không giống nhau vì còn tuỳ thuộc nhiều điều kiện nữa.

  • Trước hết phải có một sự quyết tâm sắt đá như Đức Phật và chư vị Bồ Tát (Đức Phật dưới cội bồ đề)
  • Phải có lòng tin nơi phương pháp mình đang thực hành, phương pháp phải đem đến một kết quả gì giống như kết quả của những người đi trước, phải đem đến những hiểu biết hay những kinh nghiệm nào.
  • Phải đem đến sự nhạy bén của tâm, sự hiệu nghiệm của quán niệm (observation attentive) như thế nào?
  • Phải đem đến một trạng thái định tỉnh, buông xả của tâm ra sao?
  • Phải đem đến những khám phá gì về thân tâm nầy?

NHỮNG ĐỐI TƯỢNG QUAN SÁT

Khi nói Quán, phải biết quán cái chi ? Đức Phật trong hầu hết những bài thuyết giảng của Ngài đều nói đến Tứ Niệm Xứ : là bốn đối tượng đễ quan sát. Bốn đối tượng nầy bao trùm tất cả những sinh hoạt vật thể, tinh thầntâm linh con người.

          1/ Thân : tất cả những yếu tố thuộc về thân mà con người có thể ghi nhận được nhờ những thụ thể (récepteur) thần kinh ở trong da, thịt, gân, xương, khớp cốt, nội tạng. Nói chung những yếu tố nầy là tổng hợp của Đất, Nước, Lửa, Gió ghi nhận được qua xúc giác.

          Trong khi thực hành chúng ta chỉ chú tâm đến sự phồng lên, xẹp xuống của bụng hoặc của sự xúc chạm của hơi thở ra vào ở mũi hoặc cảm giác toàn thân qua các tư thế đi, đứng, ngồi, nằm.

          Trong bài kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Phật có nói đến « quán thân trong thân, bên trong và bên ngoài hay cả hai » có nghĩa là khi quan sát thân, chúng ta chỉ nên biết những gì thuộc về thân : những đặc tính của chúng, sự vận hành của chúng, không nên lầm lẫn với những đối tượng khác.

          « Bên trong và bên ngoài hay cả hai » có nghĩa là nhìn từ bên trong (chủ quan) và nhìn từ bên ngoài (khách quan). Ví dụ khi bị chóng mặt, nếu quan sát từ bên trong thì nó rõ ràng là thân mình bị quay cuồng, nhưng nếu quan sát từ bên ngoài thì thân mình chỉ nằm một chỗ trên giường chớ đâu có động đậy gì đâu ! Quan sát như thế chúng ta mới biết đâu là sự thật, đâu là ảo tưởng và sẽ không còn sợ hãi khi bị chóng mặt.

          2/ Thọ : là những yếu tố thuộc cảm giác, tình cảm và cảm xúc. Cảm giác thì có : nóng, lạnh/ cứng, mềm/ chuyển động, bất động. Nếu chúng dễ chịu thì làm ta vui thích, nếu chúng khó chịu thì làm ta ghét bỏ, cảm giác trung tính thì làm ta dửng dưng.Những cảm giác trung tính có thể dễ chịu đối với kẻ thiện trí  nhưng khó chịu đối với kẻ phàm phu (Majjhima Nikaya 44, Culavedalla sutta). Ngoài ra ta còn có những cảm xúc như vui buồn, tức giận, sợ hãi, lo âu…

Thọ có thể thuộc về thân như đau đớn, khoái cảm hoặc thuộc về tâm như vui sướng, khổ sở và an xả.

          3/ Tâm : là những trạng thái của tâm. Theo kinh điển có tất cả 16 trạng thái diễn tả tâm trạng con người trong mọi hoàn cảnh sống của nó :

          - Tâm tham / Tâm không tham.

          - Tâm sân / Tâm không sân.

          - Tâm si / Tâm không si.

          - Tâm hôn trầm / Tâm trạo hối.

          - Tâm phát triển (do thiền) / Tâm không phát triển (do không thiền).

          - Tâm hữu hạn (dục giới) / Tâm vô thượng (sắc giới hoặc vô sắc giới).

          - Tâm định / Tâm không định.

          - Tâm giải thoát / Tâm không giải thoát.

Chúng ta thấy có những loại tâm do tu tập thiền mới có được hoặc do chứng đắc như tâm vô thượng, tâm địnhtâm giải thoát.

          4/ Pháp : là những đối tượng của tâm, tất cả những gì tâm có thể ghi nhận, hay biết được qua 6 cửa trong đời sống bình thường, lúc tu tập cũng như khi chứng đắc. Theo kinh điển, Pháp được chia làm 5 nhóm :

* Nhóm 5 chướng ngại : tham, sân, hôn trầm, trạo cử (phóng đãng), hoài nghi.

* Nhóm 12 xứ :

          - 6 căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

          - 6 trần : sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

* Nhóm 7 yếu tố trợ giúp cho sự giác ngộ (thất giác chi) : Niệm, Trạch pháp, Tinh tấn, Hỉ, An, Định, Xả.

* Nhóm Tứ Diệu Đế : Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.

          Pháp như một bảng tổng kết (récapitulatif), thống kê tất cả những đối tượng của tâm.

          Trong tất cả những đối tượng trên, Đức Phật đã chọn đề mục THÂN làm đối tượng chánh, đại diện bởi hơi thở hoặc tư thế, bởi vì chúng dễ được ghi nhận, nắm bắt. Đối tượng chánh nầy là sợi dây nối kết liên tục sự quán niệm để mỗi khi thất niệm, chúng ta biết chỗ nào để trở về.

 

          Đây là phương phápphương tiện do chính Đức Phật giảng dạy, còn ghi chép rõ ràng trong kinh điển, còn được lưu truyền đến ngày nay.

          Muốn tiến bộ phải có sự liên tục trong PHÁP HỌC và PHÁP HÀNH theo một chìêu hướng nhất quán (cohérent) và lập đi, lập lại bởi vì con người dễ duôi hay quên, cho đến khi nào ta khám phá Phật tính ở trong ta và trở thành TAM THÂN như Đức Phật :

          - Pháp thân : là sự thông hiểu những định luật phổ quát của vũ trụ.

          - Báo thân : là cái thể vật chấttinh thần trôi nỗi, biến đổi, thể nhập với những định luật trên và chịu sự chi phối của chúng như định luật nhân quả...

          - Ứng thân : là sự hiển thị của hai thân trên trong những điều kiện đặc biệt nào đó.

          Đó là lý tưởng tột đỉnh của Chư Phật và Bồ Tát.

                                                                                   

TUỆ THIỆN                                                                                                                      01/12/2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11407)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10489)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10766)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9828)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9515)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12868)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13253)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13424)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19792)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12496)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13202)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13518)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 12985)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12336)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18542)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10666)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12372)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 10965)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11173)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14657)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22535)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11559)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10137)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34495)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17680)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32636)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22056)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11185)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17535)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17122)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10674)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10827)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9540)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10566)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10577)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10539)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12457)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12396)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 9949)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13167)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9684)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9102)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11788)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13457)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 12040)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11269)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11584)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10309)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10228)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10877)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28171)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10765)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7383)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9313)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11747)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11641)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 11074)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10276)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10222)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13780)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14895)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10474)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11876)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10858)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10509)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10622)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9877)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10643)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9959)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10160)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10474)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10581)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10504)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10096)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9809)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13505)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16286)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13449)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11505)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11086)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11062)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12159)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15297)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10595)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11670)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10588)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 11059)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 9995)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10359)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11391)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 10975)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12901)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24319)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12576)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10267)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28598)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19313)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10912)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23269)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
(Xem: 31546)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant