Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Phẩm Hạnh Của Một Bậc Thầy Trong Truyền Thống Kim Cương Thừa

21 Tháng Mười 201516:24(Xem: 10650)
Những Phẩm Hạnh Của Một Bậc Thầy Trong Truyền Thống Kim Cương Thừa
NHỮNG PHẨM HẠNH CỦA MỘT BẬC THẦY
TRONG TRUYỀN THỐNG KIM CƯƠNG THỪA

La Sơn – Phúc Cường trích dịch

Những Phẩm Hạnh Của Một Bậc Thầy Trong Truyền Thống Kim Cương ThừaLời người dịch: Trong một cơ duyên dịch giáo pháp của Đức Đạt Lai Lạt ma, tôi khắc ghi lời ngài rằng, nếu không có cái nhìn tổng thể, có thể đôi khi người thực hành sẽ thấy giáo pháp, những phương pháp thực hành mà  đức Phật ban có nhiều điểm mâu thuẫn nhau. Thực ra tất cả giáo pháp, phương pháp thực hành của đức Thế Tôn đều mang pháp vị giải thoát. Đức Phật tuyên thuyết nhiều giáo pháp ứng hợp cho căn cơ của mỗi chúng sinh. Thật khó để bất kỳ một ai có thể thông tuệ được tất cả các Pháp của ngài. Bởi vậy một điều tôi luôn tâm niệm là trước hết phải tôn trọng mọi giáo pháp, phương pháp thực hành của mọi tông phái Phật giáo. Bởi đó chính là giáo pháp của đức Phật. Nếu chưa thấu hiểu, những người con Phật nên gặp gỡ, trao đổi, tránh vội vàng quy kết nhau bởi tất cả chúng ta đều đang thực hành giáo pháp của đức Thế Tôn. Ngày nay Kim Cương thừa đang phát triển ở cả phương diện Nội điển và sự thực hành. Do đó luận giải một số lý nghĩa, phương pháp căn bản của Kim cương thừa, tôi cho là rất quan trọng. 

Mỗi năm Lama Zopa Rinpoche nhận được hàng ngàn lá thư từ những Phật tử mong có được những khai thị thâm sâu về Phật pháp. Rinpoche đã ban rất nhiều lời dạy về nhiều chủ đề khác nhau ứng với những thỉnh cầu vủa những Phật tử. Chủ đề bậc Thầy trong truyền thống Kim cương thừa được ngài đề cập tới rất nhiều, từ vấn đề vai trò, phẩm hạnh của các ngài, tới tâm chí thành lên bậc Thầy, những luận giải sâu sắc về quan kiến, phương pháp tu tập với bậc Thầy v.v… Trong bức thư này, Lama Zopa Rinpoche đã ban lời dạy cho một người đệ tử khi được thỉnh cầu về những phẩm hạnh của một bậc Thầy trong Kim cương thừa.

Xin được thành tâm cầu nguyện những người con Phật hòa hợp cùng thực hành theo chính Pháp!

“Simon thân,

Cảm ơn con rất nhiều vì đã gửi thư tới thầy, thầy xin lỗi vì đã phản hồi chậm,

Liên quan tới vấn đề 10 phẩm hạnh của một bậc Kim cương thượng sư, có mười phẩm hạnh bên ngoài trong tantra bên ngoài và mười phẩm hạnh bên trong ở tantra tối thượng. Con có thể tìm học trong Guru Puja và trong bài luận Lam-rim (Giải thoát trong lòng bàn tay, Lam-rim Chen-mo, v.v…). Sẽ rất lợi lạc nếu con đọc, tư duythực hành những giáo huấn này. Ngoài ra, con có thể tìm học chủ để này trong bộ luận 50 câu kệ về Tâm chí thành tới Kim cương Thượng sư.

Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có. Những phẩm hạnh tối thiểu một bậc Thượng sư cần có là thuộc một dòng truyền thừa quán đỉnh mà ngài đang truyền trao và thực hành hợp giới nguyện samaya, giới nguyện Kim cương thừa, và các Bản tôn không ngăn ngài truyền trao quán đỉnh thông qua nhiều phương tiện, ví như thị hiện các dấu hiệu bất tường, v.v…

Con có thể đọc và tư duy mục Guru Puja bao gồm những phẩm hạnh của các Thượng sư (Mục này bắt đầu bằng câu "Ngài là Kim cương thượng của con, là Bản tôn của con ...".

Trước hết, nói đến mười phẩm hạnh của một bậc thầy Đại Thừa, đó là:

Tinh nghiêm giới luật là kết quả của sự rèn luyện thuần thục và làm chủ kỷ luật nội tâm;

Tâm tĩnh tại do rèn luyện thiền định sâu sắc; anh bình tất cả các phiền não và những trở ngại do rèn luyện tuệ giác;

Thông tuệ hơn những đệ tử trong các chủ đề mình truyền trao; Nhẫn nại, tinh tiếnhoan hỷ khi truyền trao giáo pháp;

Là một kho tàng tri thức nội điển; Có sự nội quán sâu sắc và trí tuệ tính không; Thiện xảo khi truyền trao giáo pháp;

tâm từ bi rộng lớn

Và khi gặp đệ tửcăn cơ hạn chế, Thầy không miễn cưỡng truyền pháp hay làm việc lợi lạc cho họ.

Nếu một bậc Thầy không có đủ tất cả mười phẩm hạnh như trên thì có năm, sáu hay bảy phẩm hạnh cũng là đầy đủ, quan trọng là thông tuệ hơn người đệ tử, và có tâm từ bi rộng lớn.

Một bậc Thầy trong Kim cương thừa thậm chí đòi hỏi phải có những phẩm hạnh to lớn hơn. Quan trọng nhất là bậc Thầy có dòng tâm vô cùng an định, làm chủ hoàn toàntự tại với thân, khẩu, ý của mình. Sự hiện diện của Thầy mang lại sự an bình, tĩnh tại và niềm hoan hỷ, thậm chí chỉ cần thoáng qua sự hiện diện đó cũng mang lại niềm hỷ lạc to lớn. Và như vậy có nghĩa tâm từ bi của ngài rộng lớn không bờ mé.

Có hai thứ lớp trong mười lĩnh vực mà một bậc Kim cương thượng sư cần có. Mười phẩm hạnh thiết yếu bên trong để truyền trao hai thứ lớp Tantra là Yoga và maha-anuttara tantra, những giáo pháp chú trọng tịnh hóa dòng tâm thức. Các năng lực này bao gồm:

Quán tưởng pháp luân hộ trìtiêu trừ những chướng ngại;

Chuẩn bị và thánh hóa pháp khí hộ trì; trao truyền quán đỉnh bình và bí mật, khơi dậy những hạt giống nơi người thọ nhận giúp chứng đạt sắc thân của những vị Phật; trao truyền quán đỉnh khẩu và trí tuệ, khơi dậy những hạt giống nơi người thọ nhận, giúp chứng đạt tuệ thân của một vị Phật;
Ngăn tách các kẻ thù gây hại Pháp ra khỏi các hộ pháp; cúng dường, ví như các torma;
Trì tụng chân ngôn bằng khẩu và tâm, quán tưởng các chủng tử tự xoay quanh luân xa tim; Cử hành các nghi thức phẫn nộ, để một cách đầy uy lực làm an định dòng tâm của các Bản tôn thiền địnhHộ pháp;
Khai quang tôn tượng và những hình ảnh; cúng dường mạn-đà-la, cử hành các nghi quỹ (sadhana) và quán đỉnh tự thân.
Mười năng lực bên ngoài thiết yếu để truyền trao hai thứ lớp tantra là kriya và charya tantra, giáo pháp đặt trọng tâm tịnh hóa các pháp bên ngoài ứng hợp với các tiến trình của dòng tâm. Các năng lực này bao gồm:
Vẽ, kiến lậpquán tưởng Mạn-đà-la, cảnh giới tịnh độ của các Bản tôn;
Duy trì các giai đoạn thiền định; cử hành các mật ấn (mudras); phô diễn các nghi thức vũ điệu; an tọa trong tư thế thiền định Vairochana;
Trì tụng chân ngôn, giáo pháp phù hợp hai thứ lớp tantra; Cúng dường hỏa tịnh;

Cử hành các nghi thức:
a) Tức tai, các tranh chấp, nạn đói và dịch,
b) Tăng ích, giúp tăng tuổi thọ, tri thức và tài bảo,
c) Kính ái, năng lực cảm hóa tha nhân; và
d) Hàng phục, năng lực phẫn nộ hàng phục các thế lực hắc ám gây nhiễu hại; và triệu thỉnh các Bản tôn thiền định và hòa nhập, hướng dẫn trở lại đúng trụ xứ của mình.

Lama Tsongkhapa đã luận giải rằng trong thời mạt pháp này rất khó hạnh ngộ các vị Thượng sư có tất cả những phẩm hạnh nêu trên, bởi vậy nếu một bậc Kim cương thượng sư không có đầy đủ những phẩm hạnh như trên mà chỉ cần có hai, năm, hoặc thậm chí tám cũng là đầy đủ.

Như thầy đã chia sẻ ở trên, những phẩm hạnh thiết yếu mà một kim cương thượng sư cần có là có truyền thừa quán đỉnh mà ngài đang truyền trao, sống hợp với giới nguyện samaya và giới nguyện Kim cương thừa, và các vị Bản tôn không ngăn ngài ban quán đỉnh, ví như thị hiện các dấu hiệu ngăn cản, v.v…

Bởi con đã được thọ nhận quán đỉnh tantra cao cấp nhất từ Denma Locho Rinpoche, nên ngài là Thượng sư của con. Bất cứ thời điểm nào, khi con nhận giáo pháp với sự thấu hiểu rằng mình là người đệ tử và bậc thầy là Kim cương thượng sư, khi ấy, ngay cả khi bậc thầy chỉ ban một vài huấn từ, một câu kệ, hay một chân ngôn, ngài cũng chính là thượng sư của con và điều này mãi mãi không thay đổi. Sau khi đã kết nối giáo pháp của Thượng sưđệ tử, nếu con từ bỏ giáo pháp, thì sẽ là một ác nghiệp tồi tệ nhất, một trở ngại lớn nhất cho sự phát triển tâm linh của con. Nó mang đến những trở ngại nặng nề và một trải nghiệm, đặc biệt là vào thời điểm khi chết, có số khổ đau trong những cõi thấp và cõi địa ngục xuất hiện.

Theo các kinh văn, những lời dạy của Đức Phật, trong giáo pháp lam-rim, nếu một đệ tử đã biết nhớ nghĩ, tán tán phẩm hạnh của thượng sư, mà sau đó sân hận  và phát sinh tà kiến, rồi chỉ trích Thượng sư, thì có nghĩa người đó đang phạm phải ác nghiệp to lớn nhất.

Nhiều giáo pháp Kim cương thừa như Thời luân Kim cương (Kalachakra) và Mật tập Kim cương (Guhyasamaja) đã dạy rằng, ngay cả nếu một người đã phạm phải năm tội ngũ nghịch, người đó vẫn có thể thành tựu được Thượng thừa cao quý trong đời này, nhất là giáo pháp maha-anuttara.

Con đường này bao chứa những phương tiện thiện xảo nhất để ban sự giác ngộ trong một đời ngắn ngủi của con người ngay ở những thời mạt pháp. Nhưng nếu người đó thực sự chỉ trích các Thượng sư thì ngay cả khi họ thực hành giáo pháp thượng thừa, họ cũng sẽ không thể đạt được mục đích này.
Lama Tsongkhapa trong giáo pháp Lam-rim đã nhắc nhỏ rất rõ ràng rằng, ngay cả một ý nghĩ khởi lên rằng bậc Kim cương thượng sư là người phàm cũng trở thành một nhân dẫn đến đánh mất sự chứng ngộ, có nghĩa là nó cũng sẽ trở thành một trở ngại cho việc trưởng dưỡng đạo tâm.

Điều quan trọng nhất là phải biết học hỏi, tư duy càng nhiều càng tốt trước khi kết nối Pháp. Khi đã chính thức thừa nhận kết nối giữa thượng sưđệ tử, thì có nghĩa dòng Pháp được thiết lập, kể từ thời điểm đó mãi mãi không có sự thay đổi. Người đệ tử phải có một mối liên hệ mới với thượng sư của mình, đó là một thế giới khác, một quan kiến mới và thanh tịnh khi nhìn vào bậc Thượng sư của mình.

Pabongka Dechen Nyingpo, bậc giác ngộ vĩ đại, ngài chính là bản tôn Heruka, đã dạy rằng nếu ai có thể ngăn chặn tất cả những dòng tâm lầm sai và chỉ nhìn thấy những phẩm hạnh giải thoát của Thượng sư, coi Thương sư chính là Đức Phật, thì người đó có thể chứng đạt giác ngộ trong một đời. Với việc thành tựu quan kiến thấy hết thảy chư Phật là Thượng sư và tất thảy Thượng sư là Phật, người đó sẽ chứng đạt giác ngộ. Lời dạy này được nhắc tới trong tất cả bốn truyền thừa hệ Tạng truyền, trong cả Kinh điển và Tantra.

Phạm phải những sai lầm, phát sinh tà kiến, sân giận, chỉ trích, và từ bỏ những bậc Kim cương thượng sư sẽ nhân để người đó không thể tìm được một cị thầy tâm linh trong những đời sống tương lai. Trong Pháp Vị Cam lồ đã dạy rằng, người đó sẽ không bao giờ có thể nghe thấy âm thanh của giáo pháp nhiệm màu, chứ chưa nói gì đến tìm được một thiện tri thức, một bậc đạo sư trong tất cả các đời của mình.

Nếu một người đệ tử, trong dòng tâm còn nhiều che chướng của mình, khởi hiện cái nhìn lầm sai vào hành động của Kim cương thượng sư, thì người đó phải lập tức nhận ra đây chính là lầm sai của bản thântừ bỏ nó giống như từ bỏ thuốc độc vậy. Với chính kiến này, hãy có quan kiến thanh tịnh nhìn bậc Thầy chính là Phật, là bậc đã hoàn toàn vô nhiễm với những bất tịnhsở hữu những phẩm hạnh giác ngộ.

Nếu Kim cương thượng sư muốn con làm một việc, và con thấy không có khả năng thực hiện cào thời điểm đó, tâm thức của con chưa đạt tới mức độ đó, thì với một dòng tâm thanh tịnh như cậy, với một chính kiến như cậy, con hãy thỉnh cầu một cách chân thật lên Thượng sư là mình chưa có khả năng làm điều đó, và như vậy hãy cố gắng thỉnh cầu ngài cho phép mình không phải làm điều đó nữa.

Đây là những giáo huấn được dạy trong Năm mươi Câu kệ về Thượng sưgiới Luật. Nếu Thượng sư dạy một điều gì mà người đệ tử thấy dường như không hợp với Pháp, người đó có thể thỉnh cầu cho phép không phải làm. Trong kinh văn cũng chỉ rõ, không được có những tư tưởng tiêu cực hay chỉ trích, lên án Bậc thầy. Đây là cách con đối trị những rắc rối mà không biến chúng thành chướng ngại cho sự trưởng dưỡng đạo tâm.Tất nhiên, như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhắc nhở rất nhiều lần rằng, nếu mối liên hệ giữa một Thượng sưđệ tử đặc biệt đến vậy, thì người đệ tử nên làm mọi điều mà bậc thượng sư dạy, giống như những tấm gương giữa tổ Tilopa và Naropa, Marpa và Milarepa, và v.v..

Thầy mong nguyện đây là câu trả lời phù hợp cho những thỉnh cầu của con. Con nên học hỏi những luận giảng Kim cương thừa từ những bậc thầy đầy đủ phẩm hạnh, ví như Đức Đạt Lai Lạt Ma, và trong tương lai, nếu con cầu nguyện tha thiết, con cũng sẽ có thể thọ nhận được giáo pháp Kim cương thừa trực tiếp.

Gửi tới con những lời cầu nguyện chân thành!”

La Sơn – Phúc Cường trích dịch
Nguồn: Lama Yeshe.com

Qualities of a Guru Who Teaches Tantra
Date Posted: 
October 2005
Rinpoche gave this extensive advice to a student who wrote to him askingabout the qualities of a guru who teaches tantra.
My very dear Simon,
Thank you very much for your kind letter, sorry for the long delay in replying.
Regarding your question about the ten qualities of a guru—there are ten outer qualities according to lower tantra and ten inner qualities according to highest tantra. You can find these in the Guru Puja and in lam-rim commentaries (Liberation in the Palm of Your Hand, Lam-rim Chen-mo, etc.). It is very good if you read these and study this well. Also, you can find it in the commentary on 50 Verses of Guru Devotion.
There are qualities that the guru should have and qualities that the disciple should have. The minimum qualities the guru should have are having the lineage of the initiation (that he is giving) and living according to samaya vows and tantric vows, and that the deities have not prohibited him from offering the initiation by giving signs, for example.
You can read and study the section in the Guru Puja that covers the qualities of the guru (before the section which begins “you are my Guru, you are my Yidam …..”
First it mentions the ten qualities of a Mahayana Guru:
1. Discipline as a result of his mastery of the training in the higher discipline of moral self-control;
2. Mental quiescence from his training in higher concentration;
3. Pacification of all delusions and obstacles from his training in higher wisdom;
4. More knowledge than his disciple in the subject to be taught;
5. Enthusiastic perseverance and joy in teaching;
6. A treasury of scriptural knowledge;
7. Insight into and understanding of emptiness;
8. Skill in presenting the teachings;
9. Great compassion; and
10. No reluctance to teach and work for his disciples regardless of their level of intelligence.
Even if one doesn’t have all the ten qualities but has five, six, or seven qualities, the main quality is having more knowledge than the disciple and having great compassion.
A tantric master must have even more good qualities. Most important is that he be an extremely stable person, with his body, speech, and mind totally under control. He should be someone in whose presence everyone feels calm, peaceful, and relaxed and even the mere sight of him brings great pleasure to the mind. And his compassion must be unsurpassable.
There are two sets of ten fields in which the vajra guru must be a complete master. The ten inner ones are essential for teaching the yoga and maha-anuttara yoga classes of tantra, which stress the importance of purifying mainly internal mental activities. These are expertise in:
1. Visualicing wheels of protection and eliminating obstacles;
2. Preparing and consecrating protection knots and amulets to be worn around the neck;
3. Conferring the vase and secret initiations, planting the seeds for attaining a buddha’s form bodies;
4. Conferring the wisdom and word initiations, planting the seeds for attaining a buddha’s wisdom bodies;
5. Separating the enemies of Dharma from their own protectors;
6. Making the offerings, such as of sculptured tormas;
7. Reciting mantras, both verbally and mentally, that is, visualicing them revolving around his heart;
8. Performing wrathful ritual procedures for forcefully catching the attention of the meditational deities and protectors;
9. Consecrating images and statues; and
10. Making mandala offerings, performing the meditational practices (sadhana) and taking self initiations.
The ten external qualities are required for teaching the kriya and charya classes of tantra, which stress the importance of purifying mainly external activities in connection with internal mental processes. These are expertise in:
1. Drawing, constructing and visualicing the mandala abodes of the meditational deities;
2. Maintaining the different states of single-minded concentration;
3. Executing the hand gestures (mudras);
4. Performing the ritual dances;
5. Sitting in the full meditation position;
6. Reciting what is appropriate to these two classes of tantra;
7. Making fire offerings;
8. Making the various other offerings;
9. Performing the rituals of:
a) Pacification of disputes, famine, and disease,
b) Increase of life span, knowledge, and wealth,
c) Power to influence others and
d) Wrathful elimination of demonic forces and interferences; and
10. Invoking meditational deities and dissolving them back into their appropriate places.
Lama Tsongkhapa explained that in degenerated times it is difficult to find lamas having all these qualities mentioned above, so if the lama does not have all those qualities then having two, five, or even eight is sufficient.
As I mentioned before, the minimum qualities the guru should have is having the lineage of the initiation (that he is giving), living according to samaya vows and tantric vows, and that the deities have not prohibited him from offering the initiation by, for example, giving signs, etc.
Since you have received highest tantra initiation from Denma Locho Rinpoche, this means he is your guru. Any time that you take a teaching with the recognition that you are the disciple and the teacher is the guru, then even if the teacher only says a few words, a verse of teachings, or one mantra recitation, that person is your guru from then on and there is no change. After one makes that Dharma connection of guru and disciple, then if you give up it is the heaviest negative karma, the greatest obstacle to your spiritual growth. It brings heavy obstacles and one has to experience, especially at the time of death, eons of suffering in the lower realms and hell realms.
According to the texts, the teachings of the Buddha, the lam-rim, one is supposed to think only of the qualities of the guru and only praise them. The heaviest negative karma is if anger and heresy arise, and you criticice him or her.
It is said in many tantric teachings—the Kalachakra and Guhyasamaja—that even if one has accumulated the five uninterrupted negative karmas, one can still achieve the sublime vehicle in this life, in particular the maha-anuttara path. This path has the most skills to grant enlightenment in a brief lifetime of these degenerate times. But if you criticice the guru from the heart, even if you practice the sublime vehicle, you will not achieve this.
In the Lama Tsongkhapa lam-rim it is clearly mentioned that even the thought that the virtuous friend is ordinary becomes a cause to lose realications, which means that it also becomes an obstacle to developing the mind on the path.
The most important thing is to analyce as much as possible before making Dharma contact. When the recognition of guru and disciple is present, since the Dharma contact is established, then from that time there is no change. One has to have a new relationship with the guru, it is another world, looking at that person with a new and pure mind.
It is said by Pabongka Dechen Nyingpo, the great enlightened being, the Heruka, that if one is able to stop all thoughts of mistakes and look only at the qualities of the guru, looking at the guru only as Buddha, then one can achieve enlightenment in this life. With the realication of seeing all buddhas as the guru and all gurus as the Buddha, one can get enlightened. This is mentioned in all four Tibetan Mahayana sects, in both sutra and tantra.
Making mistakes, the arising of heresy, anger, criticism, and giving up the virtuous friend become the cause to not find a guru in future lives. It is said in the Essence of Nectar that one cannot ever hear the sound of the holy Dharma, not to mention find a virtuous friend, and one becomes without a virtuous friend in all one’s lifetimes.
If one's own mistakes seem to appear in the guru’s actions, in one's hallucinatory mind, one must realice that this is one's own mistake and abandon it like poison. One must abandon the thought that there is a mistake in the actions of the virtuous friend. With this mindfulness, one looks at that person as Buddha, as one who has eliminated all mistakes and has all the perfect qualities.
If the guru asks you to do something, and you don't have the capacity to do it at that time, your mind hasn't reached that level, so with this pure thought, with this mindfulness, one respectfully explains to the guru how one is incapable of doing this, and in this way tries to get his or her permission not to do it.
This is what is said in the Fifty Verses of the Guru and the Vinaya. If the guru says to do something that is not Dharma, one can ask also permission not to do it. It doesn’t say in the text to have negative thoughts or to criticice or sue him. This is how you deal with that kind of problem without it becoming an obstacle to developing one's own mind on the path.
Of course, as His Holiness the Dalai Lama mentions all the time, if it is a special guru and disciple relationship, then you do every single thing the guru says, like Tilopa and Naropa, and Marpa and Milarepa, and so forth.
I hope this answers your question. You should study the tantric commentaries from qualified lamas such as His Holiness the Dalai Lama, and, in the future, if you pray, you will also be able to receive direct tantric teachings.
With much love and prayers...
Ý kiến bạn đọc
27 Tháng Mười 201510:11
Khách
Kính xin cảm tạ ơn đức của Lama Zopa Rinpoche và quý Phật tử La Sơn – Phúc Cường đã dịch.
Tôi mới được nhận quán đảnh của Thượng sư khoảng 01 năm, lúc đó tôi chưa am hiểu nhiều, chưa chuẩn bị kỹ cho việc thọ nhận được đầy đủ. Sau này tìm hiểu tôi mới biết thêm.Tôi là Nguyễn Công Nguyên (Phúc Trường) Phật tử tại Việt Nam xin hỏi một việc: Nếu khi Guru trao truyền quán đảnh bổn tôn Bồ tát Quán Thế Âm (cho cả hàng ngàn người) thì ngoài việc thực hành pháp đó trong thời gian rồi có được thực hành nghi quỹ bổn tôn khác không (ví dụ Phowa chẳng hạn). Cầu mong nhận được hướng dẫn của Thầy để mong không bị sai lệc trên con đường tu tập chánh pháp. Trân trọng cảm ơn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23008)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14036)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12956)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55085)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9143)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14421)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14150)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14192)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13873)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36299)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19869)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18158)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19192)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19117)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20276)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17626)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31516)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15914)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14993)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14665)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46164)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35911)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21028)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21585)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23380)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34364)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19470)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18938)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22915)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20162)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18344)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19829)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19518)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33395)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34466)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54499)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37705)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21125)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17866)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63629)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17374)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49642)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27414)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20268)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23012)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18882)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16315)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17906)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20931)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17350)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14457)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16857)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16364)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15988)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17455)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21971)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15090)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13486)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14356)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15377)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14979)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12688)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13343)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27383)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12495)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13179)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14479)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16212)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12385)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15389)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12859)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12188)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13193)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21638)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11272)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22703)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15060)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14927)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46174)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22428)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14561)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12611)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18890)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14724)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43848)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56957)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13831)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47473)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13644)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14562)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28995)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33291)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38368)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15393)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31219)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12520)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40377)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43407)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46646)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14405)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant