Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đại Thừa Pháp Vương Sakya Và Lịch Sử Dòng Truyền Thừa Sakya

02 Tháng Mười Một 201516:29(Xem: 10434)
Đại Thừa Pháp Vương Sakya Và Lịch Sử Dòng Truyền Thừa Sakya

ĐẠI THỪA PHÁP VƯƠNG SAKYA &
LỊCH SỬ DÒNG TRUYỀN THỪA SAKYA

La Sơn Phúc Cường trích dịch

 
Đại Thừa Pháp Vương Sakya Và Lịch Sử Dòng Truyền Thừa Sakya

Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng. Truyền thống này đóng một vai trò quan trọng trong sự trì giữ và phát triển giai đoạn tân Tantra vào thế kỷ thứ 11.Truyền thống Sakya được trì giữ và hoằng dương rộng lớn, sản sinh nhiều bậc thánh tăng, Thành tựu giảhọc giả vĩ đại. Trong các thế kỷ 13 và 14, những bậc trì giữ truyền thống Sakya đồng thời đảm nhận trọng trách chính trị tại Tây Tạng. Mặc dù địa vị chính trị của truyền thống này giảm dần qua các thế kỷ, nhưng những truyền thống tâm linh siêu việt này vẫn còn được trưởng dưỡng và trì giữ nghiêm mật tới tận ngày nay. Theo sử liệu của dòng Truyền thừa Sakya, sử liệu các vị vua đời Minh, Lịch sử Phật giáo Tạng truyền đời Minh, năm 1413 bậc lãnh đạo Tâm linh dòng Sakya đã đến Nam Kinh theo lời thỉnh cầu của triều Minh, chứng kiến sự thành tựu Pháp, đạo hạnh của ngài, Minh Thành Tổ đã cúng dường ngài danh xưng Đại Thừa Pháp Vương, có nghĩa là “vạn hạnh viên dung diệu pháp tối thắng chân như tuệ trí hoằng từ quảng tế hộ quốc diễn giáo chính giác Đại Thừa Pháp vương Tây thiên thượng thiện kim cương phổ ứng đại quang minh Phật lĩnh thiên hạ Thích giáo.”

Dòng truyền thừa Sakya và các bậc Thượng sư truyền thừa

Truyền thừa Sakya khởi nguồn từ chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nguồn giáo pháp quan trọng nhất của truyền thống Sakya truyền thừa từ Yogi vĩ đại người Ấn Độ, Virupa (thế kỷ thứ 9), một trong 84 Đại thành tựu giả và sự thành tựu vi diệu nhất thông qua đạo sư Gayadhara (994-1043) tới đệ tử người Tạng là Drokmi Lotsawa Shakya Yeshe (992-1072 ). Đạo sư Drokmi Lotsawa truyền thừa cho đệ tử của mình là Khon Konchok Gyalpo (1034-1102), ngài là tổ sư, bậc khai sáng truyền thống Sakya.

Truyền thống Sakya bắt nguồn từ dòng tộc Khon, theo sử liệu của truyền thống Sakya, đây là dòng tộc bắt nguồn từ chư thiên. Khởi đầu từ Thượng sư Khon Konchok Gyalpo (1034-l 102), bậc khai sáng truyền thống Sakya, dòng truyền thừa vẫn phát triển và được trì giữ nghiêm mật tới tận ngày nay.

 Truyền thừa giáo pháp của Đại Thành tựu giả Virupa Ấn Độ vẫn được tiếp tục trì giữ thông qua đạo sư Khon Konchok Gyalpo và tiếp đến xuống Pháp tử của ngài là Sachen Kunga Nyingpo (1092-1158). Đạo sư Kunga Nyingpo trong đời đã hiển thị những năng lực và sự thành tựu tâm linh siêu việt, ngài trì giữ các dòng truyền thừa Tantra và Hiển giáo. Ngài có bốn Pháp tử là Kungabar, Sonam Tsemo, Jetsun Dakpa Gyeltsen và Palchen Rinpoche. Sonam Tsemo (1142-1182), Pháp tử thứ hai là một đại học giả ngay ở tuổi 16 và ngài có nhiều linh kiến thanh tịnh về các Bản tôn trí tuệ cùng rất nhiều đệ tử thành tựuĐạo sư Jetsun Dakpa Gyeltsen (1147-1216), Pháp tử thứ ba đã hiển thị những năng lực tâm linh ngay từ khi còn trẻ tuổi. Ngay khi 11 tuổi, ngài đã truyền trao quán đỉnh Hỷ Kim cươngtrở thành bậc trì giữ chính của dòng truyền thừa  Sakya.

Năm trong số những bậc Long tượng của truyền thống Sakya là bậc Thượng sư trứ danh Sachen Kunga Nyingpo (1092-1158), Loppön Sonam Tsemo (1142-1182), Jetsun Drakpa Gyaltsen (1147-1216), Sakya Pandita (1182-1251), và Drogon Chogyal Phagpa (1235-1280). Các ngài được tôn kính là năm vị tổ sư của truyền thống Sakya.

Tiếp theo năm vị Tổ sư là Sáu Ornaments của Tây Tạng cũng là những bậc thầy tâm linh nổi tiếng của truyền thống Sakya.

Sáu Tràng hoa của xứ Tạng bao gồm ngài Yakton Sengey Phel và Rongton Sheja Künrig, những luận sư trứ danh Kinh thừa; Thượng sư Ngorchen Kunga Zangpo và Zongpa Kunga Namgyal, hai bậc thông tuệ Mật điển (Tantra); Thượng sư Gorampo Sonam Sengey và Shakya Chogden, hai bậc thông tuệ cả kinh điển và Tantra. Đạo sư Gorampa Sonam Sengey, hoằng dương môn lô-gic trong truyền thống Sakya.

Pháp tử của Palchen Rinpoche là ngài Sakya Pandita Kunga Gyeltsen (1182-1251). Ngài là bậc thông tuệ triết học, lô-gic, ngôn ngữ Sanskrit, vũ trụ học, thơ ca, nghệ thuật Phật giáotriết học của các nhiều truyền thống tôn giáo khác. Ngài đã tham học dưới sự hướng đạo của rất nhiều đạo sư vĩ đại Ấn Độ, Nepal, Kashmiri và Tây Tạng, và trở thành một trong những học giả vĩ đại nhất trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng.

Các nhánh chính của truyền thừa Sakya

Không giống như những truyền thống khác của Phật giáo Tạng truyền, một số lượng lớn các nhánh đã phát triển trong truyền thống Sakya. Các truyền thừa giáo pháp dần được các đệ tử thiết lập như đạo sư Ngorchen Kunga Zangpo (1382-1457) và các bậc thầy tiếp nối mạch giáo pháp  này như ngài Konchok Lhundrup, Thartse Namkha Palsang và Drubkhang Palden Dhondup được biết đến là truyền thừa Ngor. Nhánh truyền thừa này chú trọng nhiều tới truyền thống tự viện và những pháp thực hành giới luật. Truyền thừa từ đạo sư Tsarchen Losel Gyatso (1502-1556) là truyền thừa Khẩu truyền Tsar, bao gồm các học thuyết bên ngoài, bên trong, bí mật như Mahakala, Vajrayogini, Dzambala và nhiều Bản tôn khác.. Một truyền thống quan trọng nữa là Dzongpa được kiến lập bởi Đạo sư Dzongpa Kuna Namgyal (1432-1496). Hình ảnh minh họa cho sự phát triển này là dòng truyền thừa Sakya bắt đầu từ dòng dõi Khon cao quý như một thân cây, các truyền thừa Ngorpa và Tsarpa như những nhánh cây bắt nguồn từ thân cây tỏa ra các phương hướng khác nhau.

Kinh điểngiáo pháp của truyền thừa Sakya

Ngoài dựa trên những giáo pháp Hiển giáo là nền tảng tu tập của truyền thừa, truyền thừa Sakya có nhiều những trước tác của những bậc Thượng sư Sakya, khởi nguồn từ những Đại Thành tựu giả Ấn Độ cũng như những trước tác của các Thượng sư như Sachen Kunga Nyingpo (1092-1158), Sonam Tsemo (1142-1182), Drakpa Gyeltsen (1147 -1216), Sakya Pandita Kunga Gyeltsen (1182-1251) và Drogon Chogyal Phakpa (1235-1280) – Năm vị Tổ sư của truyền thống Sakya - và nhiều thành tựu giảhọc giả khác của truyền thống.

Hai trong số những luận sư trứ danh nhất của truyền thống Sakya là Gorampa Sonam Senge (1429-1489) và Panchen Shakya Chokden (1428-1507). Những trước tác của các đạo sư này bao gồm những luận giảng về Kinh điển Hiển giáoMật Tạng đều được tu học trong tất cả các truyền thừa Phật giáo Tạng truyền khác.

Giáo phápnghi quỹ nền tảng của truyền thống Sakya là "Lamdre (Lam/bras)" hay"Đạo và Quả." Về cơ bản, quan điểm triết học thể hiện trong "Đạo và Quả" là sự "Bất khả phân giữa Luân hồi và Niết Bàn”. Theo quan kiến này, dòng tâm thứccăn bản tạo nên Luân hồi hay Niết bàn. Khi bị che chướng, dòng tâm sẽ hiện khởi tướng trạng Luân hồi, và khi không bị vướng mắc bởi những nhiễm ô, dòng tâm sẽ hiện khởi tướng Niết bàn. Mỗi hành giả phải nỗ lực để chứng đắc cảnh giới bất khả phân căn bản này thông qua thiền định.

Lamdre là một trong những pháp thiền định toàn diện nhất và có cấu trúc hệ thống nhất trong truyền thống Kim cương thừa, hợp nhât toàn bộ các thứ lớp tu tậpquả vị của Tantra tối thượng. Xét ở phương diện tuyệt đối, pháp thực hành này cho phép hành giả chứng đạt cảnh giới Bản tôn Hỷ Kim cương (Hevajra), một trong những Bản tôn chính của truyền thống Sakya. Truyền thống giáo pháp thâm diệu này bắt nguồn từ đại Thành tựu giả Ấn Độ Virupa (thế kỷ thứ 9), Đạo sư Avadhutipa, Đạo sư Gayadhara (994-1043), và Đạo sư Shakyamitra (một đệ tử của Bồ tát Long Thọ), ngài đã truyền trao giáo pháp xuống đại dịch giả Drokmi Lotsawa. Dòng truyền thừa không gián đoạn của những bậc kim cương thượng  sư vẫn tiếp tục được trì giữ nghiêm mật đến ngày nay. Truyền thống giáo pháp Lamdre đã được Đạo sư Muchen Sempa Chenpo, một đệ tử của đạo sư Ngorchen Kunga Sangpo (1382-1457) phát triển thành hai nhánh: Thứ nhất: truyền trao riêng cho từng đệ tử thích hợp. Thứ hai, truyền trao cho đại chúng. kể từ đó, giáo pháp Lamdre lần đầu tiên đã tới miền đất Tuyết và được truyền thừa không gián đoạn qua thế hệ các vị đạo sư tới ngài  Sakya Trizin đời thứ 41, bậc trì giữ bảo tòa hiện đời của truyền thống Sakya.

Ngoài ra truyền thống Sakya cũng thực hành các pháp Kim Cương thừa khác như: Tantra Hỷ Kim cương (Hevajra), Tantra Thắng lạc Kim cương (Chakrasamvara), Mahakala và v.v…Các Đại học tự viên của truyền thừa nghiên cứu Mười tám chính luận như: Kinh Bát nhã, Luật, Trung Quán, Vi Diệu Pháp, Lô-gic…

Trọng trách chính trị của truyền thừa Sakya tại Tây Tạng từ thế kỷ 13 đến cuối thế kỷ 14

Trọng trách chính trị của truyền thừa Sakya bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ 13. Vào năm 1240 người cháu nội của Thành Cát Tư Hãn là Hoàng tử Godan đã ra lệnh cho quân đội tấn công xứ Tạng. Khi đang tiến hành chiến dịch này, vị hoàng tử đã mong muốn tìm cầu sự hướng đạo của một Đạo sư Phật giáo trứ danh. Một số vị tướng của ông đã gửi thông tin rằng có ba Lạt-ma trứ danh tại xứ Tạng.

Thượng sư của tự viên Drikhung là những bậc có nhiều bảo vật nhất; Thượng sư của tự viện Taklung hòa hợp nhất; và các Thượng sư tự viện Sakya có năng lực tâm linh nhất. Hoàng tử Godan sau đó đã gửi thư thỉnh mời và phẩm vật cúng dường lên bậc Thượng sư Kunga Gyaltsen, thỉnh cầu ngài tới nơi chốn của mình.

Đạo sư Kunga Gyaltsen (1182-1251) được tôn kính là Sakya Pandita bởi sự thông tuệ về ngôn ngữ Sanskrit, đã chấp nhận lời thỉnh mời này. Ngài rời Sakya vào năm 1244 tới khu vực Kokonor, nơi Hoàng tử Godan cắm trại. Đạo sư Sakya Pandita đã đưa cùng ngài trên hành trình hai người cháu là Phagpa Lodro Gyaltsen lên mười tuổi và Drogon Chakna lên sáu tuổi. Các đại diện Mông Cổ của Godan đã hộ tống theo ngài trong suốt hành trình. Đạo sư Sakya Pandita đã truyền trao nhiều giáo pháp trên suốt hành trình tới khu vực Kokonor. Hành trình đòi hỏi một thời gian dài, bởi vậy ngài đã gửi cho hai người cháu đi trước tới Kokonor. Trước khi ngài tới khu vực cắm trại của Godan năm 1247, hai người cháu nhỏ tuổi của ngài cũng đã cảm hóa rất nhiều người Mông Cổ tại đây. Theo các sử liệu Tây Tạng, Đạo sư Sakya Pandita đã gặp Hoàng tử Godan tại Lan-chow, thủ phủ Kansu.

Đạo sư Sakya Pandita đã truyền trao Phật pháp cho Godan và trong một lần ngài đã thuyết phục ông từ bỏ ý định dìm chết rất nhiều Trung Quốc dưới những dòng sông. Godan có ý định này bởi vì lo ngại số lượng người Trung Quốc đông khi ấy luôn luôn đe dọa quyền lực của ông. Đạo sư Sakya Pandita đã dạy rằng, việc làm đó trái với giáo pháp của đức Thế tôn. Đạo sư Sakya Pandita ở lại nơi cư trú của Godan trong vài năm, trong thời gian này ngài truyền trao rất nhiều giáo pháp, khai thị cho Godan và các vị tướng của ông. Ngài chính là bậc đã đặt nền tảng  cho Phật giáo nơi đây phát triển rực rỡ trong nhiều thế kỷ. Để tri ân giáo phápĐạo sư truyền trao, Hoàng tử Godan đã thỉnh cầu Đạo sư đảm nhận trọng trách chính trị thế tục toàn bộ 13 vùng của trung tâm Tây Tạng. Ông đã gửi một trước tác của mình tới người Tạng, có tựa đề "Thub-pai Gòn-sal," có nghĩa là "Tâm nguyện của Đức Phật." Biết rằng mình không thể thọ hơn được, ông đã gửi trước tác này như món quà Pháp cho xứ Tạng.

Năm 1251, đạo sư Sakya Pandita đã viên tịch ở tuổi 70. Hoàng tử Godan qua đời sớm sau đó và hoàng tử Hốt Tất Liệt (Kublai) tiếp ngôi, ông được biết đến là Sechen của người Tạng. Năm 1253, Hốt Tất Liệt đã thỉnh mời đạo sư Chogyal Phagpa mười chín tuổi đến hoàn cung của mình và ông đã vô cùng kính sợ trước sở học uyên bác của vị thánh tăng trẻ tuổi, ngài đã hiển bày trí tuệ siêu việt trước các câu hỏi khó. Hốt Tất Liệt sau đó đã thỉnh cầu ngài truyền trao những khai thị tâm linh nhưng vị thánh tăng trẻ tuổi đã dạy rằng, trước khi ông có thể thụ nhận giáo pháp tâm linh như vậy, ông cần phải đỉnh lễ trước ngài, bậc đạo sư tâm linh của ông trong bất kỳ lần gặp gỡ nào và bảo tòa của ngài phải ở phía trên, cao hơn ngai vàng của hoàng đế. Hốt Tất Liệt trả lời rằng ông chưa thể làm công khai như vậy được trước người dân hay ở nơi công cộng, vì có thể sẽ đánh mất địa vịquyền lực của mình. Một số nguồn tư liệu khác viết rằng, Hốt Tất Liệt đã đồng ý đặt ngai vàng của mình thấp hơn bảo tòa của bậc Đạo sư khi ông thụ nhận giáo pháp từ ngài và đặt ngang bằng nhau khi ông giải quyết công việc triều đình.

Theo truyền thống, Thượng sư Phagpa đã truyền trao quán đỉnh và luận giảng giáo pháp cho Hốt Tất Liệt và hai mươi lăm vị quan của ông trong ba lần. Sau lần đầu tiên, Hốt Tất Liệt đã thỉnh cầucúng dường ngài đảm nhận trọng trách bậc lãnh đạo tâm linhthế tục 13 địa hạt (Trikhor Chusum) trung tâm Tây Tạng. Sau lần thứ hai, Hốt Tất Liệt đã cúng dường ngài xá lợi của Đức Phậtthỉnh cầu ngài đảm nhận trọng trách bậc lãnh đạo tâm linhthế tục toàn bộ ba khu vực Tây Tạng (chol-ska-sum). Khi Hốt Tất Liệt trở thành Khan vào năm 1260, sau lần nhận quán đỉnhgiáo pháp lần thứ ba, ông đã cúng dường đạo sư Phagpa danh xưng "bậc vua Pháp”. Trong cùng năm, ông đã thỉnh cầu đạo sư Phagpa cử hành và chủ trì nghi thức cho buổi lễ đăng quang của mình. Lịch sử ghi lại rằng, mối quan hệ giữa bậc thượng sư với người đệ tử, giữa thượng sư với người bảo trợ là các Khan Mông Cổ được ví như “mặt trời và mặt trăng trên bầu trời."

Năm 1265 Đạo sư Phagpa trở về Tây Tạng lần đầu tiên. Tại trung tâm tự viện truyền thống Sakya ngài đã được cung đón nồng nhiệt và được tôn kính trọng thị bởi các trưởng tộc Tây Tạng. Đạo sư Chogyal Phagpa đã thiết lập một hệ thống chính quyền quản lý tập trung ở Tây Tạng. Một chức danh là quan Thượng thư ("Ponchen), có trọng trách quản lý chung toàn bộ công việc chính quyền. Dưới chức danh này là 13 tộc trưởng (Tripons), những vị quan trực tiếp quản lý địa hạt riêng của mình. Theo quy định, quan thượng thư sẽ được bổ nhiệm bởi chính đạo sư Phagpa và được đặt danh hiệu là Ponchen Shakya Sangpo. Theo phương thức này ngài Chogyal Phagpa đã hợp nhất toàn bộ xứ Tạng dưới sự điều hành của Chính quyền trung ương.

Nhận lời thỉnh mời của Hốt Tất Liệt, năm 1268 đạo sư Chogyal Phagpa trở lại hoàng cung Khan tại Mông Cổ. Với sự thông tuệ của mình, ngài đã gửi cho Khan một bộ chữ viết mới mà ngài đã soạn cho người Mông Cổ. Hốt Tất Liệt đã vô cùng hoan hỷhệ thống chữ viết mới được biết đến là "Phagpa Script" đã được chính thức được đưa vào sử dụng. Khan đã đỉnh lễ cúng dường đạo sư Phagpa tôn xưng "Pháp Tử các Bản tôn Ấn Độ”, "Pháp chủ tôn quý của Đất Trời”, “Bậc Sáng tạo chữ viết”, "Sứ giả của hòa bình trên toàn thế giới", và "Bậc Sở hữu Ngũ Minh”. Thượng sư Phagpa viên tịch tại Sakya năm 1280. Chogyal Phakpa là bậc đạo sư đầu tiên trong lịch sử Tây Tạng đảm nhận trọng trách bậc lãnh đạo cả về tâm linhthế tục. Người em của ngài là đạo sư Chakna sau đó đã tiếp tục đảm nhận trọng trách này, tiếp đến thế hệ các lãnh đạo của truyền thừa đảm nhận trọng trách lãnh đạo Tây Tạng trong hơn một trăm năm.

Vào năm bậc Thượng sư Phagpa viên tịch, Hốt Tất Liệt cuối cùng đã chinh phục toàn cõi Trung Quốc, và đã lên ngôi hoàng đế của Trung Quốc. Đạo sư Dharmapala, Pháp tử của ngài Drogon Chakna được tôn xưng và nắm giữ trọng trách "Tishri" vào năm 1282. Đạo sư Tishri Kunga Lodro Gyaltsen (1299-1327) đã kiến lập bốn Hoàng cung (pho Brang): Zhithog, Rinchen Gang, Lhakhang, và Ducho, trong số đó ngày nay chỉ còn hai hoàng cung vẫn còn tồn tại.

Vào thế kỷ thứ mười lăm, hoàng cung Ducho được chia thành hai là (1) Dolma Phodrang và (2) Phuntsok Phodrang. Bậc lãnh đạo hai hoàng cung này là ngài Sakya Trizin.

Năm 1287, ngài đã tới xứ Tạng nhưng đã viên tịch trong hành trình dài. Năm 1295 Hốt Tất Liệt qua đời. Trong suốt thời gian của đạo sư Sakya Pandita và thế hệ các đạo sư sau đó, chính quyền Tây Tạng được đặt dưới sự quản lý của người Tạng.  Các mối quan hệ giữa nhà cầm quyền Mông Cổ và các bậc Thượng sư Tây Tạng không nên được nhìn, xem xétphương diện chính trị thế tục. Tư duysuy xét một cách sâu sắc vào thái độ, sự trân quý của các Khan tới các bậc đạo sư của mình như Chogyal Phagpa, chúng ta thấy, ông đã thành tâm thỉnh cầu, cúng dường các ngài đảm nhận trọng trách bậc lãnh đạo tâm linhthế tục tại xứ Tạng. Mối quan hệ giữa Bậc Thầy-Đệ tử, người bảo trợ được thiết lập giữa các bậc thầy Tạng và người Mông cổ dựa vào sự trân quý, thực tâm thực hành giáo pháp vì lợi ích chúng sinh.

Sau khi Hốt Tất Liệt qua đời năm 1295, quyền lực của người Mông Cổ bắt đầu suy giảm tại Trung Quốc. Năm 1305 Đạo sư Dagnyi Zangpo Pal đảm nhận trọng trách bậc lãnh đạo tâm linh truyền thống Sakya trong mười ba năm. Hệ thống quản lý đất nước dưới sự điều hành bởi các Ponchen và Tripons (quan thượng thư và hạt chủ) được tiếp tục trong thời gian này. Khi trong giai đoạn chính quyền dưới sự điều hành của Thượng sư Ponchen Gawa Zangpo và Sonam Gyaltsen, trọng trách chính trị của truyền thống Sakya bắt đầu suy yếu. Hầu hết các bậc Thượng sư truyền thống Sakya các đời kế tiếp đều tập trung nhiều hơn vào trọng trách tâm linh và để lại trọng trách nhiều hơn cho các đời quan Thượng thư.

Những tự viện chính của truyền thừa Sakya

Các tự viện chính của truyền thống Sakya là Sakya Lhakhang Chenmo, được thành lập bởi đạo sư Khon Konchok Gyelpo, nằm ở khu vực Tsang trung tâm Tây Tạng. Tự viện Ngor E-Vam Choden được thành lập bởi đạo sư E-Vam Kunga Zangpo, đây là trụ xứ chính của dòng Ngor Sakya ở miền trung Tây Tạng. Tự viện Dar Drangmoche, được thành lập bởi đạo sư Tsarchen Losal Gyatso, là trụ xứ chính của tự viện cũng nằm trong vùng Tsang.

Truyền thống Sakya có các tự viện lớn khác như: Phenpo Nalanda trong khu vực Phenpo miền trung Tây Tạng, được xây dựng bởi các học giả trứ danh Rongton Sheja Kunrig, và tự viện Tsedong Sisum Namgyel, được thành lập bởi đapk siw Namkha Tashi Gyeltsen. Những tự viện lớn khác như tự viên Dhondup Ling, được thành lập bởi đạo sư Dagchen Sherab Gyeltsen; tự viện Lhundup Teng được thành lập bởi đạo sư Thangton Gyalpo, trong khu vực Derge tỉnh Kham miền đông Tây Tạng; tự viện Dzongsar- trụ xứ của Rinpoche Dzongsar Khyentse; và tự viện Deur Chode, được kiến lập bởi đạo sư Chodrak Sangpo khu vực Amdo tỉnh Kham miền đông Tây Tạng. Ngoải ra cũng có nhiều tự viện khác tại vùng Tây Tây Tạng, Trung QuốcMông Cổ.

Các tự viện lớn ngày nay của dòng tại Ấn Độ bao gồm tự viện Tsechen Tenpai Gatsal ở Rajpur, bang Uttar Pradesh, được thành lập bởi ngài Sakya Tridzin; tự viện Ngor E-Vàm Shedrup Dhargye Ling ở Bir, bang Himachal Pradesh; tự viện Tsechen Dhongag Chöling ở Mundgod, bang Karnataka; và tự viện Ngor E-Vam Choden ở Dehradun, bang Uttar Pradesh; tự viện Tashi Rabten Ling tại Lumbini, Nepal, và nhiều tự việnẤn Độ, Nepal, và nhiều nước trên thế giới.

Bậc lãnh đạo hiện đời của truyền thừa Sakya

Bậc lãnh tụ của dòng truyền thừa Sakya hiện đời là ngài Sakya Trizin (Ngakwang Kunga Thekchen Palbar Samphel Ganggi Gyalpo), đản sinh năm 1945 tại Tsedong, Tây Tạng thuộc dòng dõi bộ tộc Khon...

Ngài hiện đang an trú tại Rajpur, Ấn Độdu hóa, hoằng dương giáo pháp dòng truyền thừa Sakya rộng khắp nhiều nơi trên thế giới làm lợi ích vô số hữu tình. Ngài có hai Pháp tử là Ratna Vajra Rinpoche (đản sinh năm 1974) và Jnana Vajra Rinpoche (đản sinh năm 1979).

La Sơn Phúc Cường trích dịch từ http://www.hhthesakyatrizin.org/tradition.html và http://kagyuoffice.org/buddhism/buddhism-in-tibet/the-sakya-school/

Ảnh chú thích: Năm bậc tổ sư của dòng truyền thừa Sakya.

Trung tâm là bậc thượng sư Sachen Kunga Nyingpo;
Phía trên bên trái là thượng sư Sonam Tsemo;
Phía trên bên phải là thượng sư Dragpa Gyaltsen;
Phía dưới bên trái là bậc Thượng sư Sakya Pandita;
Phía dưới bên phải là bậc thượng sư Chogyal Phagpa


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18441)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 15895)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29697)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25380)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21530)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17745)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20732)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26227)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33189)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 51953)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22765)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23326)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39503)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21708)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22287)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6762)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22627)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69642)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 43870)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 22953)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 34875)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 43957)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42773)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44268)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24794)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24264)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39068)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39058)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17167)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 17913)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19174)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35549)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24112)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19502)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20322)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18231)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18896)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18867)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17407)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19228)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30671)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19115)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20418)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19442)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19669)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29660)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17759)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19317)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19788)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58629)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24333)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23399)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39654)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26606)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40635)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22799)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22816)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21500)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18532)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22510)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21009)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19129)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20845)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20246)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30446)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20103)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17375)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16505)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16775)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14884)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14770)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22752)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 15967)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16128)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15172)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 25940)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17088)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15686)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19662)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17587)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14602)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14648)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19034)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15026)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 32920)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17355)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19015)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21698)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 22856)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16538)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16379)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16368)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22834)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26252)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12594)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29363)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27561)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25766)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18370)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 15483)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant