Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Sự Mô Tả Tịnh Độ Của Chư Phật Trong Tạng Pāli

04 Tháng Mười Một 201511:21(Xem: 10858)
Sự Mô Tả Tịnh Độ Của Chư Phật Trong Tạng Pāli

SỰ MÔ TẢ TỊNH ĐỘ CỦA CHƯ PHẬT TRONG TẠNG PĀLI

Tống Phước Khải

Sự Mô Tả Tịnh Độ Của Chư Phật Trong Tạng Pāli

 

Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ. Từ này khá xa lạ đối với nhiều tín đồ theo truyền thống Phật giáo Nam Truyền Theravāda. Theo quan niệm thông thường của truyền thống Theravāda thì ngoài những Đức Phật quá khứ đã nhập diệt và những Đức Phật tương lai chưa ra đời, thì trong thời điểm hiện tại không tồn tại một Đức Phật nào khác. Cũng theo quan niệm này, hiện tại ngoài quả địa cầu của chúng ta ra không còn tồn tại một lãnh địa nào khác của Chư Phật. Do đó, khi đề cập đến những Quốc Độ của Chư Phật nằm ngoài trái đất hoặc ngoài vũ trụ này sẽ có những ý kiến không tán đồng.

Tuy nhiên, qua việc khảo sát tam tạng Pāli, nhiều học giả phương tây đã phát hiện ra những văn bản trong tạng đề cập đến những Quốc Độ của Chư Phật.  Thế Giới tôn nghiêm này đã được ghi nhận rất chi tiết trong chương  Buddhāpadāna của kinh Apadāna thuộc  Khuddaka Nikāya (Tiểu Bộ) của tạng Pāli. Giáo sư K.R. Norman, một học giả hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu văn học Pāli, đã nhận xét về  Buddhāpadāna rằng: “Trong đoạn  này Đức Phật đã kể về những Quốc Độ của các Chư Phật (Buddhakkhettas), đó là những miền đất lý tưởng của sự mỹ lệ, là nơi các Đức Phật cư ngụ. Một bức tranh  phác họa hình ảnh các Đức Phật chất vấn với nhau, cũng đề cập đến các đệ tử chất vấn các Chư Phật và ngược lại (K.R. Norman, 1983, tr.90). Sau đây chúng ta sẽ khảo sát văn bản  Buddhāpadāna và các văn bản liên quan trong tạng Pāli để tìm hiểu về vấn đề này.

1.  Số lượng Quốc Độ của Chư Phật là vô số

Thuật ngữ Quốc Độ của Chư Phật được dùng để chỉ về phạm vi thuộc sự ảnh hưởng quyền lực của Đức Phật, đôi khi cũng được gọi là Lãnh Địa hay Địa Phận của Chư Phật. Thuật ngữ này trong tiếng Pāli gọi là Buddhakkhetta. Nghĩa của từ khetta được từ điển Pāli của Buddhadatta giải thích là: “cánh đồng, mảnh đất, nơi chốn thích hợp, nơi mà một cái gì đó sinh xuất hoặc tìm thấy”;  từ điển của Vipassana Research Institute giải thích là “điền sản, đồng ruộng, một người vợ, thân thể, nơi chốn, vùng, miền, khoảng rộng”.

Theo Chú Giải (aṭṭhakathā) của tạng Pāli thì Buddhakkhetta gồm có 3 loại: (1) jātikhetta; (2) āṇākhetta; và  (3) visayakhetta. Chi tiết từng loại khetta được Chú Giải ghi nhận như sau:

- (1) Jātikhetta: Là lãnh địa đản sinh. Lãnh địa này tổng cộng có 10.000 thế giới (lokadhātu). Lãnh địa này rung chuyển khi các sự kiện xảy ra liên quan đến Đức Phật như: lúc Ngài đản sinh, lúc Ngài giác ngộ, lúc Ngài quyết định nhập diệt, và lúc Ngài vào Niết Bàn.

- (2) Āṇākhetta: Là lãnh địa quyền lệnh. Lãnh địa này có tổng cộng có 100.000 koṭi vũ trụ (cakkavāḷa). Lãnh địa này là nơi tích lũy các thần chú bảo hộ, như kinh A Sá Năng Chi, hộ chú Chim Cút, hộ chú Khổng Tước…

- (3) Visayakhetta: Là lãnh địa miền. Lãnh địa này được cho là không thể nghĩ bàn, do đó không đề cập đến số lượng. Sự vô hạn của lãnh địa này đồng với trí tuệ xa rộng vô hạn của Đức Phật, và được mô tả là có thể xa rộng vô cùng tận tùy theo ý nguyện của Đức Như Lai.

Qua ghi nhận trong Chú Giải, chúng ta thấy rằng khái niệm Buddhakkhetta là rộng lớn vô cùng. Khái niệm này vươn xa và vượt khỏi hẳn tầm cỡ của một vùng đất, một quốc gia, một thế giới địa cầu, hay một vũ trụ. Các từ như Lãnh Địa, Địa Phận, Quốc Độ, Lãnh Vực… chỉ là những từ có sẵn trong phạm vi xã hội loài người, được mượn tạm để hình dung một phần của khái niệm Buddhakkhetta. Ngoài sự rộng lớn về không gian vị trí, khái niệm Buddhakkhetta còn bao trùm lên cả phương diện tâm ý, tư tưởng và các phương diện khác.

Buddhakkhetta trong tiếng Sanskrit gọi là Buddhakṣetra. Từ điển Buddhist Hybrid Sanskrit của Edgerton giải thích từ Buddhakṣetra như sau:  “Buddha-field, region or (usually) world or world-system in which a particular Buddha lives and operates”; nghĩa Việt là “Vùng đất của Đức Phật, miền hoặc (thông thường là) thế giới hoặc hệ thống thế giới trong đó một Đức Phật nào đó cư ngụđiều hành.” 

Đa phần các từ điển hoặc tài liệu tiếng Anh dịch thuật ngữ khetta (hoặc kṣetra) thành “field”. Từ “field” theo Oxford Advanced Learner’s Dictionary có các nghĩa chính như sau: một vùng đất; một chủ đề hay một hoạt động đặc thù;  một công việc thực tế; sân thi đấu; người hoặc sản phẩm cạnh tranh trong kinh doanh, khu vực chịu tác động lực vật lý, cột cơ sở dữ liệu. Chúng ta thấy chỉ có nghĩa thứ nhất của từ field là phù hợp để dịch thuật ngữ khetta, tức chúng ta chọn nghĩa một vùng đất.  Nếu chọn từ tiếng Việt “lãnh vực” để dịch thuật ngữ khetta thì có khả năng sẽ làm cho người đọc hiểu lầm thành “một chủ đề nghiên cứu hoặc hoạt động”, ví dụ như: lãnh vực toán học, lãnh vực kinh doanh v.v.  Mặc dù nghĩa chính của từ “lãnh vực” trong các từ điển Hán ngữ là “cương vực”, “lãnh thổ” nhưng các nghĩa này không còn phổ thông đối với người Việt hiện tại.

Số lượng Quốc Độ của Chư Phật đã được Đức Phật Thích Ca thuật lại trong  Buddhāpadāna thuộc Tiểu Bộ của Chính Tạng Pāli như sau: “Disā dasavidhā loke, yāyato natthi antakaṃ. Tasmiñca disābhāgamhi, buddhakhettā asaṅkhiyā.” Bhikkhu Indacanda đã dịch tiếng Việt là:Mười phươngthế giới vũ trụ đối với người đang du hànhvô tận (không có điểm tận cùng). Và ở mỗi phương (thế giới) ấy, các địa phận của chư Phật là (vô số) không thể đếm được.

Như vậy, lời của Đức Phật Thích Ca trong Chính Tạng Pāli đã khẳng định sự tồn tại những Quốc Độ của Chư Phật là vô số. Những Quốc Độ này thì tồn tại khắp mười phương vũ trụ.

Chúng ta nhận thấy rằng, việc xác định có sự tồn tại vô số các Thế Giới của Chư Phật không phải chỉ xuất hiện riêng ở hệ thống kinh điển Sanskrit mà ngay cả hệ thống kinh điển Pāli cũng ghi nhận rất rõ ràng về vấn đề này.

Khi bàn luận về sự sinh diệt vong của các thế giới, luận sư Buddhaghosa trong tác phẩm Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) đã xác định rằng trong thời hoại kiếpthì Lãnh Địa Quyền Lệnh (āṇākhetta) của Chư Phật sẽ bị hủy diệt đồng thời với Lãnh Địa Đản Sinh (jātikhetta), và hai lãnh địa này khi được thành lập cũng xảy ra đồng thời. Riêng về Lãnh Địa Miền (visayakhetta) thì nằm ngoài sự đề cập này.

2. Tạo lập Quốc Độ Phật là nguyên nhân được trở thành Phật

Chương  Buddhāpadāna của kinh Anapada, mở đầu bằng câu hỏi của ngài An Nan hỏi Đức Phật Thích Ca về các yếu tố quyết định để trở thành một vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác: “Bạch đấng Anh Hùng, nghe nói có các vị được gọi là đức Phật Toàn Tri, các vị ấy được thành tựu là do các nguyên nhân nào?” (Bản dịch của Bhikkhu Indacanda). Nội dung còn lại của chương là những gì mà Đức Phật trả lời cho câu hỏi của ngài An Nan, trong đó xuyên suốt chiếm hầu như phần lớn nội dung câu trả lời đều xoay quanh  việc của Đức Phật Thích Ca khi còn là một Bồ Tát, Ngài đã dùng năng lực tâm ý để tạo dựng nên một thế giới trang nghiêm, nguy nga, mỹ lệ; trong thế giới ấy có đầy đủ Chư Phật, Thanh Văn và tín chúng của quá khứ, cộng với sự hiện diện của các Chư Phật và Thanh Văn của thời hiện tại… Sự mô tả về một Thế Giới của Chư Phật trong  Buddhāpadāna như một bộ phim 3D hùng vĩ, sống độngtôn nghiêm.

Mở đầu phần trả lời, Đức Phật Thích Ca đề cập ngay đến Quốc Độ của Chư Phật (Buddhakkhetta). Và tại nơi này Ngài đã tác ý xây dựng nên một lâu đài nguy nga, đẹp đẽ từ tất các châu báu thu thập được cũng từ chính nơi Quốc Độ này.

Sau khi xong việc xây dựng các kiến trúc vật thể và quang cảnh tự nhiên, thì Ngài đã  tiếp tục dùng tâm lực để hóa hiện các Chư Phật và các vị Thanh Văn của thời quá khứ đi vào thế giới của Ngài. Các vị ấy vào tòa lâu đài để tham dự trong pháp hội. Bên cạnh những chư vị Phật và Thanh Văn của quá khứ được tạo bằng tâm ý, còn có chư vị Phật và Thanh Văn của thời hiện tại đến dự. Ngoài ra còn có cả những chư vị Độc Giác Phật của cả quá khứhiện tại. Khi trong lâu đài đã có sự hiện diện đầy đủ của hội chúng thánh giả, Ngài đã tiếp tục việc dâng y và thực phẩm lên các chư vị.

Xong phần dâng y và cúng dường thực phẩm là đến phần các chư thánh giả nhập vào thiền hành, hoặc có những vị thuyết pháp,  hoặc khai triển thần thông… Tiếp đến là hình ảnh các chư vị đàm luận Pháp trong Pháp hội. Những Chư Phật và những đệ tử Thanh Văn thể hiện sự bình đẳng chất vấn lẫn nhau trong khi bàn luận Pháp: Chư Phật chất vấn Chư Phật khác, Chư Phật chất vấn Chư Thanh Văn, Chư Thanh Văn chất vất Chư Phật.

Phần kế đến là những lời Phát Nguyện cho Thế Giới Chư Phật mà Ngài đã tạo lập. Nội dung lời phát nguyện đều tập trung vào vấn đề duy trì những gì đã tạo dựng trong thế giới ấy; và gia trì tạo ra sự sống động cho thế giới này, tạo ra hoạt động tự nhiên huyền diệu và khả ái với đầy đủ những âm thanh, ánh sáng, màu sắc …

Tiếp đến là phần phát tâm của Ngài để chia sẻ phước báu và bố thí vật thực cho các loại chúng sinh.

Đoạn cuối, Đức Phật kể về phước báu có được do sự tạo lập Thế Giới Chư Phật như vậy. Ngài thuật lại rằng nhờ phước báu này mà kiếp sau Ngài đã được tái sinh vào cõi Trời Đao Lợi. Rồi tiếp tục những kiếp sau này, Ngài không bao giờ bị đọa vào các đường ác và chỉ tái sinh vào một trong 2 cõi: Thiên và Nhân. Bất kỳ lúc nào, sau khi tái sinh, Ngài cũng được làm vị đứng đầu Trời hoặc Người, luôn có quyền lực, diện mạo và trí tuệ vượt trội tất cả cư dân của cõi ấy; luôn luôn được hưởng sự hạnh phúc, giàu sang, trọng vọng, quyền uy tùy theo ý muốn.  Sau đó, Ngài đã bố thí những thứ quý báu đến rất nhiều hạng người khác nhau và cuối cùng Ngài đã đi đến phẩm vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác.

Qua đó, chúng ta nhận thấy rằng việc tạo dựng một Thế Giới Chư Phật đẹp đẽtôn nghiêm như được mô tả trong kinh là hết sức cần thiết để một hành giả trở thành một vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammāsambuddha).

3. Sự trang trọng, đẹp đẽtôn nghiêm của Quốc Độ Chư Phật

Barua (1949) đã nhận xét rằng: “The Buddhāpadāna, or the Tradition of the previous excellent deeds or services of the Buddhas, which forms the first chapter of the Apadāna, contains a vivid and charming description of the Buddhakhetta” (p.5).

Nghĩa Việt: “Buddhāpadāna, hay Truyền thống về việc làm hay công đức toàn hảo ở quá khứ của các Chư Phật, hình thành chương đầu tiên của kinh Apadāna, chứa đựng sự miêu tả sống độnglôi cuốn về Quốc Độ của Chư Phật.”

Đồng quan điểm này K.R. Norman (1983) cũng ghi nhận rằng chương Buddhāpadāna đã mô tả một vùng đất đẹp đẽ lý tưởng, là nơi các Đức Phật cư ngụthảo luận Pháp cùng với các đệ tử của mình (tr.90).

Chúng ta có thể thống kê một số kiến trúc vật chất, cảnh quan và chúng sinh trong Thế Giới Chư Phật được mô tả trong  Buddhāpadāna theo từng nhóm sau đây:

- Vật liệu xây dựng & trang trí: vàng, bạc, ngọc bích, pha lê, ngọc mani, hồng ngọc, san hô, ngọc trai, thất bảo.

- Hình thể kiến trúc: lâu đài, trụ cột, lầu gác, hồ sen, cổng chào, tháp nhọn, mái nhọn, cửa hình sư tử.

- Các món trang trí: hình hoa sen, hình chim thú, lọng che, viền rào, mạng lưới hoa, mành lưới vàng, chuông lục lạc, cờ hiệu.

-  Nội thất: giường bằng pha lê, hồng ngọc, mani, bạc… được phủ vải lụa, lông thú; ghế bành.

- Thực vật: sen đỏ, sen xanh, sen hồng, cây như ý.

- Chim muông: chim công, thiên nga, chim ca lăng tần già.

- Âm thanh: tiếng chuông lục lạc, tiếng chim hót, tiếng trống, tiếng đàn, tiếng tụng kinh, tiếng đàm luận Pháp. 

- Ánh sáng và màu sắc: ánh sáng màu cánh kiến, màu xanh, màu vàng, màu trắng, màu đỏ, màu hồng, màu vàng úa, màu vàng chói.

- Mùi: hương thơm ngào ngạt, năm hương thơm tổng hợp.

- Hoạt động tự nhiên: sen tỏa sắc, cây trổ hoa, chim múa, chim hót, mỹ nhân múa hát.

 - Thành phần Hội Chúng: các Chư Phật quá khứ, các Chư Phật hiện tại, các Độc Giác Phật quá khứ, các Độc Giác Phật hiện tại, các Thanh Văn quá khứ, các Thanh Văn hiện tại, các Tín Chúng.

- Hoạt động Pháp hội: tọa thiền, ngọa thiền, triển khai thần thông, thuyết Pháp, nghe Pháp, thảo luận Pháp, dâng y, dâng thực phẩm.

Tất cả những chi tiết trên đã được liên kết một cách hài hòa với nhau để tạo thành một bức tranh sống động, một bộ phim hoàn hảo với những hình ảnh đẹp đẽtôn nghiêm của một Quốc Độ của Chư Phật.

4. Có phải  Buddhāpadāna bị ảnh hưởng tư tưởng Đại Thừa?

ý kiến cho rằng nội dung  Buddhāpadāna bị ảnh hưởng tư tưởng Đại Thừa. Tuy nhiên, K.R. Norman (1983) không tán đồng quan điểm này. Ông đã nhận định nhiều phần của kinh này đã xuất hiện từ rất sớm và cho rằng rằng cùng một tư tưởng có thể tồn tại trong cả hai truyền thống Phật giáo khác nhau, tức Theravāda và Mahayana, là do sự tiếp nối tư duy cơ động xuất phát từ Phật giáo sơ kỳ (tr.91).

Barua (1949) thì cho rằng  Buddhāpadāna là khái niệm mang tính thơ ca đã đặt tiền đề cho tư tưởng Đại Thừa về Thế Giới Cực Lạc: “In the poetic conception of the Buddhakhetta, was forestalled the later Mahāyānic idea of Sukhāvatī, the glorious land of Buddhist Paradise” (p.7).

Nếu như so sánh với nội dung kinh Sukhāvatī (Kinh A Di Đà) của truyền thống Đại Thừa thì chúng ta thấy rằng sự mô tả về Quốc Độ Chư Phật hầu như tương đồng với sự mô tả trong  Buddhāpadāna. Các trích đoạn sau đây trong kinh Sukhāvatī cho thấy sự tương đồng này:

“thế giới Sukhāvatī đó được trang hoàng với bảy tầng ban công,  bảy hàng cây cọ, và có treo những dãy chuông . Mọi phía đều có bờ rào , đẹp đẽ và lộng lẫy với tứ bảo như vàng, bạc, lưu ly và pha lê”; “trong thế giới đó có những hồ sen được trang hoàng bởi bảy báu, đó là vàng, bạc, lục trụ thạch, pha lê, ngọc trai đỏ, kim cương, và san hô là món thứ bảy”; “trong cõi Phật đó có chim thiên nga, ca lăng tần già  và khổng tước… chúng hội tụ và trình diễn hòa nhạc, mỗi loài phát thanh điệu riêng của mình”; “khi những hàng cây cọ và các dãy chuông trong cõi Phật đó được gió thổi lay động, âm thanh du dươngvi diệu phát ra từ đó.”

 5.  Không cùng tồn tại cùng lúc hai vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác?

Một số ý kiến cho rằng trong Trường Bộ Kinh có đề cập đến vấn đề không thể xuất hiện cùng lúc hai vị Phật Chánh Đẳng Giác. Như vậy khái niệm về Buddhakhetta có mâu thuẫn với khẳng định đã nêu ra trong Trường Bộ Kinh không?

Chúng ta có thể đối chiếu với định nghĩa về Buddhakkhetta ở mục số 1 đã giải thích rằng Lãnh Địa Đản Sinh của Chư Phật có đến 10.000 thế giới (lokadhātu), trong khi đó kinh đề cập là không thể xuất hiện cùng lúc 2 vị Phật trong cùng 1 thế giới. Ngoài ra, chúng ta nhận thấy rằng còn có vô số những Quốc Độ thuộc Lãnh Địa Miền (visayakhetta) của Chư Phật, cho nên số lượng Chư Phật là có thể là vô số. Trong  Buddhāpadāna cũng đề cập đến số lượng không đếm được các Chư Phật: “Các đấng Pháp Vương đã được tròn đủ ba mươi pháp toàn hảo là (vô số) không thể đếm được”, Và các Chư Phật có thể xuất hiện cùng lúc ở một địa điểm: “Tất cả chư Phật và các bậc A-la-hán đã tụ hội lại. Các ngươi hãy tôn kính đảnh lễ chư Phật Toàn Giác và các bậc A-la-hán.” (bản dịch của Bhikkhu Indacanda).

6. Việc tạo tác bằng tâm ý trong  Buddhāpadāna và sự quán tưởng Bản Tôn

Theo truyền thống hành thiền của Theravāda thì hầu như khôngphương pháp dùng tâm ý để tạo thành các Chư Phật, Chư Thánh Giả hoặc Thế Giới của Chư Phật. Phương pháp thiền quán tưởng của truyền thống này chỉ được áp dụng ở một số trường phái và phần lớn tập trung trên các đề mục quán tưởng như: xác chết, bộ xương, thể trược, hoặc kasina.

Chúng ta nhận thấy rằng phương phápĐức Phật đã sử dụng như đã mô tả trong  Buddhāpadāna chính là sự quán tưởng các Chư TônCảnh Giới của các Chư Tôn. Nội dung kinh cho thấy hiệu quả của phương pháp này thật là lớn lao và đã trở thành nguyên nhân chính để Đức Bồ Tát đi đến phẩm vị Phật Toàn Giác. Ngoài ra, như Ngài thuật lại trong kinh này, thì sau khi thực hiện pháp quán tưởng bằng tâm ý Ngài đã không còn bị đọa vào các đường ác mà chỉ tái sinh vào hai cõi Trời và Người, đồng thời mỗi lần tái sinh như vậy đều hưởng được phước đức trọn vẹn.

Phương pháp quán tưởng của Đức Phật Thích Ca trong  Buddhāpadāna đã được truyền thống Đại Thừa áp dụng triệt để. Sự thực hành quán tưởng Bản TônMạn Đà Laphương pháp được lưu hành rộng rãi trong các truyền thống Mật Giáo. Đặc biệt kinh Quán Vô Lượng Thọ của truyền thống Đại Thừa trình bày rất chi tiết về cách thức dùng tâm ý để tạo nên Quốc Độ của Chư Phật.

7. Kết

Tịnh Độ hay Quốc Độ thanh tịnh của Chư Phật được ghi nhận rất rõ ràng trong cả hai hệ thống kinh điển Pāli và Sanskrit. Số lượng Quốc Độ này là vô số, đồng thời số lượng Chư Phật cũng là vô số. Phương pháp dùng năng lực tâm ý để tạo thành cảnh giới Quốc Độ của Chư Phật cùng với các Thánh Tôn là rất quan trọng. Hành động này được ghi nhận trong  Buddhāpadāna là nguyên nhân để một vị Bồ Tát trở thành một Đức Phật Toàn Giác. Cũng nhờ hành động tác ý quán tưởng này mà hành giả sẽ không còn bị đọa vào các cõi ác và được tái sinh trong các cõi Trời, Người với những phước báu đầy đủ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- Buddhāpadāna bản tiếng Pali, URL: https://suttacentral.net/pi/tha-ap1  

- Bhikkhu Indacanda, Bản dịch tiếng Việt của Buddhāpadāna, URL: http://www.tamtangpaliviet.net/VHoc/39/000-000.pdf   

- Barua (1949), Bản dịch tiếng Anh của Buddhāpadāna, URL: http://www.ancient-buddhist-texts.net/English-Texts/Short-Pieces-in-English/Buddhapadana.htm  

- Barua (1949), Buddhakhetta and Buddhāpadāna, URL: http://www.ancient-buddhist-texts.net/English-Texts/Short-Pieces-in-English/Buddhapadana.htm

- K.R. Norman (1983), Pāli Literature, Wiesbaden, Otto Harrassowitz.

- Bhikkhu Ñāṇamoli (2010), The Path of Purification, Colombo, Samayawardana Printers.

- Kinh Sukhāvatīvyūhaḥ bản tiếng Sanskrit, Digital Sanskrit Buddhist Canon.

- Tống Phước Khải, Bản dịch tiếng Việt của kinh Sukhāvatīvyūhaḥ, URL: https://kinhmatgiao.files.wordpress.com/2013/04/kinh-sukhavativyuha-viet-dich.pdf

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11114)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10904)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11141)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11178)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14186)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12414)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26283)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11642)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29187)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11591)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10725)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11032)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10900)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10728)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11289)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10717)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12199)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11258)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10017)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11358)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13352)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11209)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11399)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12632)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13724)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13127)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12740)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12101)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30035)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38037)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24801)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10918)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11673)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10615)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11162)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11469)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12835)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12028)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11246)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10168)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11729)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11152)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10847)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13047)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10160)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10832)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10904)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14457)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10655)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21870)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12025)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11384)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30097)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19536)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20499)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12502)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12490)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21106)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13198)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14387)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30328)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 27887)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28279)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20862)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28559)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27128)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21849)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21348)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26126)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21524)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23308)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26315)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23096)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19757)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22829)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21037)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19900)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15362)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39095)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25563)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14068)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 25978)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22448)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29027)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22450)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22765)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13152)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23098)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13087)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28872)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30399)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14188)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26169)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33120)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35454)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8548)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13246)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30542)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22019)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
(Xem: 21687)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant