Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Sự Mô Tả Tịnh Độ Của Chư Phật Trong Tạng Pāli

04 Tháng Mười Một 201511:21(Xem: 10887)
Sự Mô Tả Tịnh Độ Của Chư Phật Trong Tạng Pāli

SỰ MÔ TẢ TỊNH ĐỘ CỦA CHƯ PHẬT TRONG TẠNG PĀLI

Tống Phước Khải

Sự Mô Tả Tịnh Độ Của Chư Phật Trong Tạng Pāli

 

Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ. Từ này khá xa lạ đối với nhiều tín đồ theo truyền thống Phật giáo Nam Truyền Theravāda. Theo quan niệm thông thường của truyền thống Theravāda thì ngoài những Đức Phật quá khứ đã nhập diệt và những Đức Phật tương lai chưa ra đời, thì trong thời điểm hiện tại không tồn tại một Đức Phật nào khác. Cũng theo quan niệm này, hiện tại ngoài quả địa cầu của chúng ta ra không còn tồn tại một lãnh địa nào khác của Chư Phật. Do đó, khi đề cập đến những Quốc Độ của Chư Phật nằm ngoài trái đất hoặc ngoài vũ trụ này sẽ có những ý kiến không tán đồng.

Tuy nhiên, qua việc khảo sát tam tạng Pāli, nhiều học giả phương tây đã phát hiện ra những văn bản trong tạng đề cập đến những Quốc Độ của Chư Phật.  Thế Giới tôn nghiêm này đã được ghi nhận rất chi tiết trong chương  Buddhāpadāna của kinh Apadāna thuộc  Khuddaka Nikāya (Tiểu Bộ) của tạng Pāli. Giáo sư K.R. Norman, một học giả hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu văn học Pāli, đã nhận xét về  Buddhāpadāna rằng: “Trong đoạn  này Đức Phật đã kể về những Quốc Độ của các Chư Phật (Buddhakkhettas), đó là những miền đất lý tưởng của sự mỹ lệ, là nơi các Đức Phật cư ngụ. Một bức tranh  phác họa hình ảnh các Đức Phật chất vấn với nhau, cũng đề cập đến các đệ tử chất vấn các Chư Phật và ngược lại (K.R. Norman, 1983, tr.90). Sau đây chúng ta sẽ khảo sát văn bản  Buddhāpadāna và các văn bản liên quan trong tạng Pāli để tìm hiểu về vấn đề này.

1.  Số lượng Quốc Độ của Chư Phật là vô số

Thuật ngữ Quốc Độ của Chư Phật được dùng để chỉ về phạm vi thuộc sự ảnh hưởng quyền lực của Đức Phật, đôi khi cũng được gọi là Lãnh Địa hay Địa Phận của Chư Phật. Thuật ngữ này trong tiếng Pāli gọi là Buddhakkhetta. Nghĩa của từ khetta được từ điển Pāli của Buddhadatta giải thích là: “cánh đồng, mảnh đất, nơi chốn thích hợp, nơi mà một cái gì đó sinh xuất hoặc tìm thấy”;  từ điển của Vipassana Research Institute giải thích là “điền sản, đồng ruộng, một người vợ, thân thể, nơi chốn, vùng, miền, khoảng rộng”.

Theo Chú Giải (aṭṭhakathā) của tạng Pāli thì Buddhakkhetta gồm có 3 loại: (1) jātikhetta; (2) āṇākhetta; và  (3) visayakhetta. Chi tiết từng loại khetta được Chú Giải ghi nhận như sau:

- (1) Jātikhetta: Là lãnh địa đản sinh. Lãnh địa này tổng cộng có 10.000 thế giới (lokadhātu). Lãnh địa này rung chuyển khi các sự kiện xảy ra liên quan đến Đức Phật như: lúc Ngài đản sinh, lúc Ngài giác ngộ, lúc Ngài quyết định nhập diệt, và lúc Ngài vào Niết Bàn.

- (2) Āṇākhetta: Là lãnh địa quyền lệnh. Lãnh địa này có tổng cộng có 100.000 koṭi vũ trụ (cakkavāḷa). Lãnh địa này là nơi tích lũy các thần chú bảo hộ, như kinh A Sá Năng Chi, hộ chú Chim Cút, hộ chú Khổng Tước…

- (3) Visayakhetta: Là lãnh địa miền. Lãnh địa này được cho là không thể nghĩ bàn, do đó không đề cập đến số lượng. Sự vô hạn của lãnh địa này đồng với trí tuệ xa rộng vô hạn của Đức Phật, và được mô tả là có thể xa rộng vô cùng tận tùy theo ý nguyện của Đức Như Lai.

Qua ghi nhận trong Chú Giải, chúng ta thấy rằng khái niệm Buddhakkhetta là rộng lớn vô cùng. Khái niệm này vươn xa và vượt khỏi hẳn tầm cỡ của một vùng đất, một quốc gia, một thế giới địa cầu, hay một vũ trụ. Các từ như Lãnh Địa, Địa Phận, Quốc Độ, Lãnh Vực… chỉ là những từ có sẵn trong phạm vi xã hội loài người, được mượn tạm để hình dung một phần của khái niệm Buddhakkhetta. Ngoài sự rộng lớn về không gian vị trí, khái niệm Buddhakkhetta còn bao trùm lên cả phương diện tâm ý, tư tưởng và các phương diện khác.

Buddhakkhetta trong tiếng Sanskrit gọi là Buddhakṣetra. Từ điển Buddhist Hybrid Sanskrit của Edgerton giải thích từ Buddhakṣetra như sau:  “Buddha-field, region or (usually) world or world-system in which a particular Buddha lives and operates”; nghĩa Việt là “Vùng đất của Đức Phật, miền hoặc (thông thường là) thế giới hoặc hệ thống thế giới trong đó một Đức Phật nào đó cư ngụđiều hành.” 

Đa phần các từ điển hoặc tài liệu tiếng Anh dịch thuật ngữ khetta (hoặc kṣetra) thành “field”. Từ “field” theo Oxford Advanced Learner’s Dictionary có các nghĩa chính như sau: một vùng đất; một chủ đề hay một hoạt động đặc thù;  một công việc thực tế; sân thi đấu; người hoặc sản phẩm cạnh tranh trong kinh doanh, khu vực chịu tác động lực vật lý, cột cơ sở dữ liệu. Chúng ta thấy chỉ có nghĩa thứ nhất của từ field là phù hợp để dịch thuật ngữ khetta, tức chúng ta chọn nghĩa một vùng đất.  Nếu chọn từ tiếng Việt “lãnh vực” để dịch thuật ngữ khetta thì có khả năng sẽ làm cho người đọc hiểu lầm thành “một chủ đề nghiên cứu hoặc hoạt động”, ví dụ như: lãnh vực toán học, lãnh vực kinh doanh v.v.  Mặc dù nghĩa chính của từ “lãnh vực” trong các từ điển Hán ngữ là “cương vực”, “lãnh thổ” nhưng các nghĩa này không còn phổ thông đối với người Việt hiện tại.

Số lượng Quốc Độ của Chư Phật đã được Đức Phật Thích Ca thuật lại trong  Buddhāpadāna thuộc Tiểu Bộ của Chính Tạng Pāli như sau: “Disā dasavidhā loke, yāyato natthi antakaṃ. Tasmiñca disābhāgamhi, buddhakhettā asaṅkhiyā.” Bhikkhu Indacanda đã dịch tiếng Việt là:Mười phươngthế giới vũ trụ đối với người đang du hànhvô tận (không có điểm tận cùng). Và ở mỗi phương (thế giới) ấy, các địa phận của chư Phật là (vô số) không thể đếm được.

Như vậy, lời của Đức Phật Thích Ca trong Chính Tạng Pāli đã khẳng định sự tồn tại những Quốc Độ của Chư Phật là vô số. Những Quốc Độ này thì tồn tại khắp mười phương vũ trụ.

Chúng ta nhận thấy rằng, việc xác định có sự tồn tại vô số các Thế Giới của Chư Phật không phải chỉ xuất hiện riêng ở hệ thống kinh điển Sanskrit mà ngay cả hệ thống kinh điển Pāli cũng ghi nhận rất rõ ràng về vấn đề này.

Khi bàn luận về sự sinh diệt vong của các thế giới, luận sư Buddhaghosa trong tác phẩm Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) đã xác định rằng trong thời hoại kiếpthì Lãnh Địa Quyền Lệnh (āṇākhetta) của Chư Phật sẽ bị hủy diệt đồng thời với Lãnh Địa Đản Sinh (jātikhetta), và hai lãnh địa này khi được thành lập cũng xảy ra đồng thời. Riêng về Lãnh Địa Miền (visayakhetta) thì nằm ngoài sự đề cập này.

2. Tạo lập Quốc Độ Phật là nguyên nhân được trở thành Phật

Chương  Buddhāpadāna của kinh Anapada, mở đầu bằng câu hỏi của ngài An Nan hỏi Đức Phật Thích Ca về các yếu tố quyết định để trở thành một vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác: “Bạch đấng Anh Hùng, nghe nói có các vị được gọi là đức Phật Toàn Tri, các vị ấy được thành tựu là do các nguyên nhân nào?” (Bản dịch của Bhikkhu Indacanda). Nội dung còn lại của chương là những gì mà Đức Phật trả lời cho câu hỏi của ngài An Nan, trong đó xuyên suốt chiếm hầu như phần lớn nội dung câu trả lời đều xoay quanh  việc của Đức Phật Thích Ca khi còn là một Bồ Tát, Ngài đã dùng năng lực tâm ý để tạo dựng nên một thế giới trang nghiêm, nguy nga, mỹ lệ; trong thế giới ấy có đầy đủ Chư Phật, Thanh Văn và tín chúng của quá khứ, cộng với sự hiện diện của các Chư Phật và Thanh Văn của thời hiện tại… Sự mô tả về một Thế Giới của Chư Phật trong  Buddhāpadāna như một bộ phim 3D hùng vĩ, sống độngtôn nghiêm.

Mở đầu phần trả lời, Đức Phật Thích Ca đề cập ngay đến Quốc Độ của Chư Phật (Buddhakkhetta). Và tại nơi này Ngài đã tác ý xây dựng nên một lâu đài nguy nga, đẹp đẽ từ tất các châu báu thu thập được cũng từ chính nơi Quốc Độ này.

Sau khi xong việc xây dựng các kiến trúc vật thể và quang cảnh tự nhiên, thì Ngài đã  tiếp tục dùng tâm lực để hóa hiện các Chư Phật và các vị Thanh Văn của thời quá khứ đi vào thế giới của Ngài. Các vị ấy vào tòa lâu đài để tham dự trong pháp hội. Bên cạnh những chư vị Phật và Thanh Văn của quá khứ được tạo bằng tâm ý, còn có chư vị Phật và Thanh Văn của thời hiện tại đến dự. Ngoài ra còn có cả những chư vị Độc Giác Phật của cả quá khứhiện tại. Khi trong lâu đài đã có sự hiện diện đầy đủ của hội chúng thánh giả, Ngài đã tiếp tục việc dâng y và thực phẩm lên các chư vị.

Xong phần dâng y và cúng dường thực phẩm là đến phần các chư thánh giả nhập vào thiền hành, hoặc có những vị thuyết pháp,  hoặc khai triển thần thông… Tiếp đến là hình ảnh các chư vị đàm luận Pháp trong Pháp hội. Những Chư Phật và những đệ tử Thanh Văn thể hiện sự bình đẳng chất vấn lẫn nhau trong khi bàn luận Pháp: Chư Phật chất vấn Chư Phật khác, Chư Phật chất vấn Chư Thanh Văn, Chư Thanh Văn chất vất Chư Phật.

Phần kế đến là những lời Phát Nguyện cho Thế Giới Chư Phật mà Ngài đã tạo lập. Nội dung lời phát nguyện đều tập trung vào vấn đề duy trì những gì đã tạo dựng trong thế giới ấy; và gia trì tạo ra sự sống động cho thế giới này, tạo ra hoạt động tự nhiên huyền diệu và khả ái với đầy đủ những âm thanh, ánh sáng, màu sắc …

Tiếp đến là phần phát tâm của Ngài để chia sẻ phước báu và bố thí vật thực cho các loại chúng sinh.

Đoạn cuối, Đức Phật kể về phước báu có được do sự tạo lập Thế Giới Chư Phật như vậy. Ngài thuật lại rằng nhờ phước báu này mà kiếp sau Ngài đã được tái sinh vào cõi Trời Đao Lợi. Rồi tiếp tục những kiếp sau này, Ngài không bao giờ bị đọa vào các đường ác và chỉ tái sinh vào một trong 2 cõi: Thiên và Nhân. Bất kỳ lúc nào, sau khi tái sinh, Ngài cũng được làm vị đứng đầu Trời hoặc Người, luôn có quyền lực, diện mạo và trí tuệ vượt trội tất cả cư dân của cõi ấy; luôn luôn được hưởng sự hạnh phúc, giàu sang, trọng vọng, quyền uy tùy theo ý muốn.  Sau đó, Ngài đã bố thí những thứ quý báu đến rất nhiều hạng người khác nhau và cuối cùng Ngài đã đi đến phẩm vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác.

Qua đó, chúng ta nhận thấy rằng việc tạo dựng một Thế Giới Chư Phật đẹp đẽtôn nghiêm như được mô tả trong kinh là hết sức cần thiết để một hành giả trở thành một vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammāsambuddha).

3. Sự trang trọng, đẹp đẽtôn nghiêm của Quốc Độ Chư Phật

Barua (1949) đã nhận xét rằng: “The Buddhāpadāna, or the Tradition of the previous excellent deeds or services of the Buddhas, which forms the first chapter of the Apadāna, contains a vivid and charming description of the Buddhakhetta” (p.5).

Nghĩa Việt: “Buddhāpadāna, hay Truyền thống về việc làm hay công đức toàn hảo ở quá khứ của các Chư Phật, hình thành chương đầu tiên của kinh Apadāna, chứa đựng sự miêu tả sống độnglôi cuốn về Quốc Độ của Chư Phật.”

Đồng quan điểm này K.R. Norman (1983) cũng ghi nhận rằng chương Buddhāpadāna đã mô tả một vùng đất đẹp đẽ lý tưởng, là nơi các Đức Phật cư ngụthảo luận Pháp cùng với các đệ tử của mình (tr.90).

Chúng ta có thể thống kê một số kiến trúc vật chất, cảnh quan và chúng sinh trong Thế Giới Chư Phật được mô tả trong  Buddhāpadāna theo từng nhóm sau đây:

- Vật liệu xây dựng & trang trí: vàng, bạc, ngọc bích, pha lê, ngọc mani, hồng ngọc, san hô, ngọc trai, thất bảo.

- Hình thể kiến trúc: lâu đài, trụ cột, lầu gác, hồ sen, cổng chào, tháp nhọn, mái nhọn, cửa hình sư tử.

- Các món trang trí: hình hoa sen, hình chim thú, lọng che, viền rào, mạng lưới hoa, mành lưới vàng, chuông lục lạc, cờ hiệu.

-  Nội thất: giường bằng pha lê, hồng ngọc, mani, bạc… được phủ vải lụa, lông thú; ghế bành.

- Thực vật: sen đỏ, sen xanh, sen hồng, cây như ý.

- Chim muông: chim công, thiên nga, chim ca lăng tần già.

- Âm thanh: tiếng chuông lục lạc, tiếng chim hót, tiếng trống, tiếng đàn, tiếng tụng kinh, tiếng đàm luận Pháp. 

- Ánh sáng và màu sắc: ánh sáng màu cánh kiến, màu xanh, màu vàng, màu trắng, màu đỏ, màu hồng, màu vàng úa, màu vàng chói.

- Mùi: hương thơm ngào ngạt, năm hương thơm tổng hợp.

- Hoạt động tự nhiên: sen tỏa sắc, cây trổ hoa, chim múa, chim hót, mỹ nhân múa hát.

 - Thành phần Hội Chúng: các Chư Phật quá khứ, các Chư Phật hiện tại, các Độc Giác Phật quá khứ, các Độc Giác Phật hiện tại, các Thanh Văn quá khứ, các Thanh Văn hiện tại, các Tín Chúng.

- Hoạt động Pháp hội: tọa thiền, ngọa thiền, triển khai thần thông, thuyết Pháp, nghe Pháp, thảo luận Pháp, dâng y, dâng thực phẩm.

Tất cả những chi tiết trên đã được liên kết một cách hài hòa với nhau để tạo thành một bức tranh sống động, một bộ phim hoàn hảo với những hình ảnh đẹp đẽtôn nghiêm của một Quốc Độ của Chư Phật.

4. Có phải  Buddhāpadāna bị ảnh hưởng tư tưởng Đại Thừa?

ý kiến cho rằng nội dung  Buddhāpadāna bị ảnh hưởng tư tưởng Đại Thừa. Tuy nhiên, K.R. Norman (1983) không tán đồng quan điểm này. Ông đã nhận định nhiều phần của kinh này đã xuất hiện từ rất sớm và cho rằng rằng cùng một tư tưởng có thể tồn tại trong cả hai truyền thống Phật giáo khác nhau, tức Theravāda và Mahayana, là do sự tiếp nối tư duy cơ động xuất phát từ Phật giáo sơ kỳ (tr.91).

Barua (1949) thì cho rằng  Buddhāpadāna là khái niệm mang tính thơ ca đã đặt tiền đề cho tư tưởng Đại Thừa về Thế Giới Cực Lạc: “In the poetic conception of the Buddhakhetta, was forestalled the later Mahāyānic idea of Sukhāvatī, the glorious land of Buddhist Paradise” (p.7).

Nếu như so sánh với nội dung kinh Sukhāvatī (Kinh A Di Đà) của truyền thống Đại Thừa thì chúng ta thấy rằng sự mô tả về Quốc Độ Chư Phật hầu như tương đồng với sự mô tả trong  Buddhāpadāna. Các trích đoạn sau đây trong kinh Sukhāvatī cho thấy sự tương đồng này:

“thế giới Sukhāvatī đó được trang hoàng với bảy tầng ban công,  bảy hàng cây cọ, và có treo những dãy chuông . Mọi phía đều có bờ rào , đẹp đẽ và lộng lẫy với tứ bảo như vàng, bạc, lưu ly và pha lê”; “trong thế giới đó có những hồ sen được trang hoàng bởi bảy báu, đó là vàng, bạc, lục trụ thạch, pha lê, ngọc trai đỏ, kim cương, và san hô là món thứ bảy”; “trong cõi Phật đó có chim thiên nga, ca lăng tần già  và khổng tước… chúng hội tụ và trình diễn hòa nhạc, mỗi loài phát thanh điệu riêng của mình”; “khi những hàng cây cọ và các dãy chuông trong cõi Phật đó được gió thổi lay động, âm thanh du dươngvi diệu phát ra từ đó.”

 5.  Không cùng tồn tại cùng lúc hai vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác?

Một số ý kiến cho rằng trong Trường Bộ Kinh có đề cập đến vấn đề không thể xuất hiện cùng lúc hai vị Phật Chánh Đẳng Giác. Như vậy khái niệm về Buddhakhetta có mâu thuẫn với khẳng định đã nêu ra trong Trường Bộ Kinh không?

Chúng ta có thể đối chiếu với định nghĩa về Buddhakkhetta ở mục số 1 đã giải thích rằng Lãnh Địa Đản Sinh của Chư Phật có đến 10.000 thế giới (lokadhātu), trong khi đó kinh đề cập là không thể xuất hiện cùng lúc 2 vị Phật trong cùng 1 thế giới. Ngoài ra, chúng ta nhận thấy rằng còn có vô số những Quốc Độ thuộc Lãnh Địa Miền (visayakhetta) của Chư Phật, cho nên số lượng Chư Phật là có thể là vô số. Trong  Buddhāpadāna cũng đề cập đến số lượng không đếm được các Chư Phật: “Các đấng Pháp Vương đã được tròn đủ ba mươi pháp toàn hảo là (vô số) không thể đếm được”, Và các Chư Phật có thể xuất hiện cùng lúc ở một địa điểm: “Tất cả chư Phật và các bậc A-la-hán đã tụ hội lại. Các ngươi hãy tôn kính đảnh lễ chư Phật Toàn Giác và các bậc A-la-hán.” (bản dịch của Bhikkhu Indacanda).

6. Việc tạo tác bằng tâm ý trong  Buddhāpadāna và sự quán tưởng Bản Tôn

Theo truyền thống hành thiền của Theravāda thì hầu như khôngphương pháp dùng tâm ý để tạo thành các Chư Phật, Chư Thánh Giả hoặc Thế Giới của Chư Phật. Phương pháp thiền quán tưởng của truyền thống này chỉ được áp dụng ở một số trường phái và phần lớn tập trung trên các đề mục quán tưởng như: xác chết, bộ xương, thể trược, hoặc kasina.

Chúng ta nhận thấy rằng phương phápĐức Phật đã sử dụng như đã mô tả trong  Buddhāpadāna chính là sự quán tưởng các Chư TônCảnh Giới của các Chư Tôn. Nội dung kinh cho thấy hiệu quả của phương pháp này thật là lớn lao và đã trở thành nguyên nhân chính để Đức Bồ Tát đi đến phẩm vị Phật Toàn Giác. Ngoài ra, như Ngài thuật lại trong kinh này, thì sau khi thực hiện pháp quán tưởng bằng tâm ý Ngài đã không còn bị đọa vào các đường ác mà chỉ tái sinh vào hai cõi Trời và Người, đồng thời mỗi lần tái sinh như vậy đều hưởng được phước đức trọn vẹn.

Phương pháp quán tưởng của Đức Phật Thích Ca trong  Buddhāpadāna đã được truyền thống Đại Thừa áp dụng triệt để. Sự thực hành quán tưởng Bản TônMạn Đà Laphương pháp được lưu hành rộng rãi trong các truyền thống Mật Giáo. Đặc biệt kinh Quán Vô Lượng Thọ của truyền thống Đại Thừa trình bày rất chi tiết về cách thức dùng tâm ý để tạo nên Quốc Độ của Chư Phật.

7. Kết

Tịnh Độ hay Quốc Độ thanh tịnh của Chư Phật được ghi nhận rất rõ ràng trong cả hai hệ thống kinh điển Pāli và Sanskrit. Số lượng Quốc Độ này là vô số, đồng thời số lượng Chư Phật cũng là vô số. Phương pháp dùng năng lực tâm ý để tạo thành cảnh giới Quốc Độ của Chư Phật cùng với các Thánh Tôn là rất quan trọng. Hành động này được ghi nhận trong  Buddhāpadāna là nguyên nhân để một vị Bồ Tát trở thành một Đức Phật Toàn Giác. Cũng nhờ hành động tác ý quán tưởng này mà hành giả sẽ không còn bị đọa vào các cõi ác và được tái sinh trong các cõi Trời, Người với những phước báu đầy đủ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- Buddhāpadāna bản tiếng Pali, URL: https://suttacentral.net/pi/tha-ap1  

- Bhikkhu Indacanda, Bản dịch tiếng Việt của Buddhāpadāna, URL: http://www.tamtangpaliviet.net/VHoc/39/000-000.pdf   

- Barua (1949), Bản dịch tiếng Anh của Buddhāpadāna, URL: http://www.ancient-buddhist-texts.net/English-Texts/Short-Pieces-in-English/Buddhapadana.htm  

- Barua (1949), Buddhakhetta and Buddhāpadāna, URL: http://www.ancient-buddhist-texts.net/English-Texts/Short-Pieces-in-English/Buddhapadana.htm

- K.R. Norman (1983), Pāli Literature, Wiesbaden, Otto Harrassowitz.

- Bhikkhu Ñāṇamoli (2010), The Path of Purification, Colombo, Samayawardana Printers.

- Kinh Sukhāvatīvyūhaḥ bản tiếng Sanskrit, Digital Sanskrit Buddhist Canon.

- Tống Phước Khải, Bản dịch tiếng Việt của kinh Sukhāvatīvyūhaḥ, URL: https://kinhmatgiao.files.wordpress.com/2013/04/kinh-sukhavativyuha-viet-dich.pdf

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14128)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39672)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15283)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13828)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13892)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37283)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40019)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14612)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14299)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12634)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14808)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19196)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13775)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42582)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13805)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37203)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12643)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11738)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22521)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12475)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12534)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13008)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13082)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17234)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33190)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14814)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11020)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12418)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11935)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11908)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13104)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51206)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12358)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6591)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30370)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13098)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13289)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30641)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19320)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12464)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11821)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14743)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13173)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13174)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30643)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12007)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11804)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12692)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31850)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29369)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11764)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11713)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10397)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11531)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9606)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9627)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9927)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35368)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10123)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10075)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10020)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9624)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27775)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15455)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9823)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13641)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9822)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9671)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18276)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12024)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9540)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9659)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8675)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8886)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8379)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11442)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31680)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12307)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13288)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8800)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9413)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11908)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9194)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9050)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9639)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29304)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9051)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9069)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33192)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8408)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30555)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31186)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37059)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32218)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9902)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27026)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8426)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19206)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12983)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9747)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant