Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tâm Bình Thường Là Đạo

11 Tháng Mười Hai 201517:47(Xem: 10993)
Tâm Bình Thường Là Đạo

TÂM BÌNH THƯỜNG LÀ ĐẠO

Masao Abe (*)

Trần Tuấn Mẫn dịch

Tâm Bình Thường Là Đạo 

Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng. Người ta có thể trả lời câu hỏi này bằng cách giơ ngón tay lên hay đập nắm tay xuống bàn hay chỉ bằng cách cứ im lặng. Đây là những câu đáp không lời cho câu hỏi “Thiền là gì?”, đây là biểu lộ chân thực của những gì trú ẩn sâu kín vượt ngoài ngôn từ và sự phân tích có tính cách lý trí.

Tuy nhiên, không nhất thiết là không thể nêu ra một câu đáp bằng lời. Lịch sử của Thiền đã chứng tỏ điều này. Có nhiều trường hợp các thiền sư đã đưa ra những câu đáp bằng lời cho các môn đệ của mình. Thế nhưng những câu đáp bằng lời như thế thường lại hoàn toàn bất ngờ, kỳ cục hoặc phi luận lý. Khi được hỏi “Phật là gì?” là câu hỏi tương đương với câu “Thiền là gì?” thì câu trả lời của Động Sơn (807-869) là “Ba cân gai!”, của Triệu Châu (778-897) là “Hãy xem núi Tây chuyển trên sóng!”.Những câu đáp bằng lời kỳ cục này chặt đứt lối lý luận bao hàm trong cách diễn đạt câu hỏi của người hỏi. Vì trỏ vào thực tính của Thiền vốn vượt ngoài sự miêu tả bằng ngôn từ, nên những câu đáp bằng lời không được dùng như là một miêu tả đơn giản, giới hạn về mặt trăng mà chỉ vỏn vẹn được dùng như là những ngón tay trỏ vào mặt trăng. Do đó, nếu ta chấp vào câu đáp bằng lời mà cố phân tích xem có mối liên hệ luân lý nào giữa câu hỏi và câu đáp thì chắc chắn ta sẽ mất cả ngón tay lẫn mặt trăng. Những câu đáp bằng lời này chỉ là những ngón tay,nhưng là những ngón tay được dùng như là “những tấm ván bật” gạt bỏ lối vào mà lúc đầu ta thường chọn và khiến chúng ta nhảy ngay vào chính mặt trăng được xem là “Thực tính”.

Trong khảo luận này, tôi xin chọn công án Thiền “Cái Tâm bình thường là Đạo” (Bình thường tâm thị đạo), công án thứ mười chín trong Vô môn quan.

Vô môn quan là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của văn học Thiền. Nó được biên soạn bởi Vô Môn Huệ Khai (1183-1260) vào đầu thế kỷ thứ 13, cuối đời Tống của Trung Quốc. Thường được dịch là cái Cổng Không cổng (Gateless gate), Vô môn quan là một tập hợp bốn mươi tám công án, tức các câu hỏi Thiền, được xây dựng trên các câu chuyện về sự chứng ngộ xưa kia của các thiền sư nổi danh, và được một vị thầy trao cho các môn đệ để họ đấu xử, hầu mong thực hiện sự chứng ngộ của chính họ.

Có lần Triệu Châu (778-897) hỏi ngài Nam Tuyền (748-835):
– Đạo là gì?
Nam Tuyền đáp: Cái Tâm bình thường là Đạo.
– Thế thì có nên hướng dẫn đạo hay không nên?
– Nếu ông cố hướng đến thì ông sẽ xa rời Đạo – Nam Tuyền đáp.
Triệu Châu tiếp:
Nếu không cố hướng đến, làm sao biết được đấy là Đạo?
Nam Tuyền trả lời:
– Đạo không thuộc sự biết hay sự không biết. Biết là sự vọng giác; không biết là sự trống trơn. Nếu ông quả thực đạt đến cái đạo vô nghi thì đấy cũng như thái hư, rộng rãivô biên. Thế thì làm sao có thể có đúng có sai trong Đạo được?
Nghe xong, Triệu Châu liền ngộ.
(Zenkei Shibayama, Zen Comments on the MumonKan, Harper and Row, New York, 1947, p.141).

Có hai lý do để chọn công án này nhằm làm sáng tỏ cái cốt lõi của Thiền. Một là chủ đề của công án này, “Tâm bình thường là Đạo” là một khẳng định bằng lời. Không như các mẫu thức đối đáp bằng lời đã nêu trên, khẳng định này không phải là kỳ cục hay không chấp nhận được mà lại khá thuận cho việc tìm hiểu của trí óc chúng ta. Hơn nữa, cuộc đối thoại xảy ra giữa Triệu ChâuNam Tuyền không đột ngột hay phi luận lý như trường hợp thường thấy trong các đối thoại Thiền, nhưng lại chạm đến một vấn đề quyết yếu mà con người ngày nay phải đối mặt.

Mọi đối thoại chấp nhận được bằng lý trí khá là hiếm hoi trong Thiền. Đây là lý do tại sao Bạch Ẩn (Hakuin, 1685-1768), một thiền sư xuất sắc của Nhật Bản thời Đức Xuyên (Tokugawa), đã phê phán Nam Tuyền rằng “Ta không ưa kiểu dịu dàng của lão bà như thế. Đáng ra ông ấy phải thẳng tay đánh đòn Triệu Châu mà chẳng phải nói gì cả”. Cuộc đối thoại “dịu dàng” này thực ra có vẻ “không giống Thiền” và có thể không kỳ thú bằng cái văn cách của nhiều đối thoại Thiền khác. Nó cũng thiếu cả cái ý nghĩa kịch liệt của sự trao đổi “đánh và quát” qua đó vị Thiền sư đánh học trò, quát anh ta để cố khiến anh ta phá vỡ lối suy luận lý trí tầm thường, nhằm thức tỉnh bản chất thực sự của anh ta. Một đối thoại “dịu dàng”như thế, dù sao tôi cũng nghĩ rằng rất hữu ích để những người ngày nay là chúng ta tránh được những hầm bãy của những ngộ nhận thông thường về Thiền. Những trao đổi “đánh và quát” hay những trao đổi “giống-như-Thiền”có tính cách kỳ quặc đã tạo ra sự ngộ nhận rằng Thiền là cái gì đó chỉ thuần phản lý trí hay kỳ bí. Sự quyết đoán ấy đã tạo thành một trong những lý do khiến tôi bàn thảo về công án này. Mặc dù thế khi đối đãi với mẫu đối thoại “dịu dàng” này, chúng ta phải cẩn thận chớ bỏ qua cái sự việc rằng nó cũng trỏ vào cùng một thực tính của Thiền như các đối thoại kỳ quặc hay lập lờ, hay như những trao đổi “đánh và quát”.

Lý do thứ hai khiến tôi chọn công án này là cái thực tính chân thực của Thiền, ở đây nhằm trỏ “Đạo” hay Con Đường được nêu ra như là cái “tâm bình thường” của chúng ta. Một ngộ nhận về Thiền thường thấy ở phương Tây biểu hiện qua việc tin rằng Thiền là cái gì đó không chỉ thuần phản-lý trí mà còn là cái gì đó có thể nói là bí ẩn, kỳ quái, “lơ lửng trên trời”. Công án nêu ra ở đây rõ ràng nghiền vỡ một ngộ nhận như thế bằng cách nêu trỏ ra rằng cái tâm bình thường của chúng ta là cái Thực tính chân thực của Thiền, bằng cách nhấn mạnh cái bản chất “thực tế”của Thiền.

Một ngộ nhận khác về Thiền cũng được công án này khắc phục. Nó gần như là mặt trái của ngộ nhận nói trên, tức là hiểu Thiền cái gì bí ẩn hay kỳ quái, đôi khi người ta lại bắt vào tính tức sự (immediacy) của Thiền theo kiểu hành tác mà “không suy nghĩ”. Như thế, Thiền được hiểu là một học thuyết trực giác hời hợt hay một tự nhiên tính dễ dãi mà Thiền ngữ “đói thì ăn, khát thì uống” có thể hàm ý. Ở đây, bản chất thực tế của Thiền bị hiểu nhầm thành ra một lối sống đơn thuần thực dụng không có nền tảng triết học hay bản thể học. Ý nghĩa của cái bản chất thực tế của Thiền dù sao cũng được nêu rõ trong đối thoại này giữa Triệu ChâuNam Tuyền. Nói cách khác đi, cái gì là Thiền như được nêu trỏ trong công án “Tâm bình thường là Đạo” ngăn không cho chúng ta xem Thiền có thể có nghĩa là một tức sự tính suông hay một tự nhiên tính như của loài vật, không có nền tảng bản thể học.

Vậy tóm lại, công án được nêu ra ở đây là hữu ích trong việc khắc phục hai ngộ nhận có thể có về Thiền: một đằng xem Thiền là cái gì kỳ bí, và một đằng xem Thiền là cái gì đơn thuần thực dụng.

Nam Tuyền muốn trỏ điều gì về “cái tâm bình thường” khi Ngài nói đến Đạo? Để trả lời câu hỏi này, ta phải quay về chính bản văn.
Có lần Triệu Châu hỏi Nam Tuyền:
– Đạo là gì?
Nam Tuyền đáp:
Tâm bình thường là Đạo.

Thuật ngữ “Đạo” có một ý nghĩa phong phúsâu xa trong lịch sử tri thức của Trung QuốcNhật Bản. Có nguyên nghĩa là con đường cho sự đến và sự đi của con người, Đạo hàm ý cái lối sống, con đường đúng cho con người theo; luật đạo đức, và cả cái nguyên lý căn bản mà trên đó toàn bộ vũ trụvận hành của nó được thiết lập. Đạo được dùng như là một thuật ngữ ách yếu trong Lão giáo (Z. Shibayama, Zen Comments.., Sđd, tr.141).

Như bình luận của vị Thiền sư thời nay của Nhật Bản, ngài Zenkei Shibayama, chính câu hỏi “Đạo là gì?” này đã khiến cho Triệu Châu, một vị Tăng học trẻ tuổi hăng say của Phật học vứt bỏ những nghiên cứu kinh viện của mình về Phật giáothúc đẩy vị này đi trọn nẻo đường từ Hoa Bắc đến Hoa Nam. Thể nghiệm “Đạo là gì?” đã là phận sự khẩn cấp và thiết yếu nhất của vị ấy. Trước câu hỏi này của Triệu Châu, ngài Nam Tuyền đã trả lời dứt khoát: “Cái Tâm bình thường là Đạo”.

Nguyên văn chữ Hán của “Cái Tâm bình thường là Đạo”, bình thường tâm thị đạo, cũng có thể được dịch là “cái tâm thường nhật”, “cái tâm thường dùng” hay “cái tâm thông thường”. Đấy là cái tâm vận hành trong đời sống hằng ngày của chúng ta, như sáng thức dậy, tối đi ngủ, uống trà, dùng bữa, nói chuyện với bạn bè và làm việc ở cơ quan. Đấy không phải là cái tâm chuyên biệt, bất thường, ngoại đẳng như sự hưng khởi tinh thần hay phấn chấn, chập chờn, đê mê hay sự xuất thần có tính cách tôn giáo. Như thế, “Tâm bình thường là Đạo”, có nguyên nghĩa là “cái tâm hằng ngày đúng như chính nó là Con Đường”. Tuy nhiên, không ai có thể chấp nhận một cách dễ dãingay lập tức lời dạy của Nam Tuyền và bảo “Vâng, đúng thế!”. Đấy là vì “từ thời xưa, Đạo đã được bao Thánh nhân, trí giả xem như là một nguyên lý và chân lý nền tảng; và nếu Đạo có nguyên nghĩa là cái tâm hằng ngày của chúng ta đúng như chính nó thì các bà vợ của các nông gia, ngư phủ đều biết nó,và chúng ta cũng không phải chờ hàng Thánh nhân, trí giả dạy dỗ và cứu vớt chúng ta (Sđd, tr. 142)”.

Đây cũng thế, khi ngài Triệu Châu trẻ tuổi không thể dễ dàng chấp nhận lời dạy của ngài Nam Tuyền thì đấy là một sự việc hoàn toàn tự nhiên. Do đó mà Triệu Châu đã phải hỏi “Thế thì có nên hướng đến Đạo hay không nên?”. Chúng ta phải cố gắng theo hướng nào để mở con mắt tâm linh của chúng ta hầu thấy rằng cái tâm bình thường của chúng ta là Đạo?

Ngài Nam Tuyền trả lời rằng: “Nếu ông cố hướng đến Đạo thì sẽ đi xa Đạo”. Như thế nghĩa là chính sự cố gắng và nỗ lực của chúng ta để đạt Đạo vốn đã làm cho chúng ta rời Đạo. Do đó chúng ta càng cố gắng hướng về Đạo thì chúng ta càng xa rời Đạo. Nam Tuyền dứt khoát bác bỏ cái ý niệm cho rằng người ta có thể đạt được Đạo bằng sự cố gắng.

Triệu Châu không do dự hỏi tiếp “Nếu không cố hướng đến thì làm sao biết được đấy là Đạo?” Chúng ta có thể bảo rằng Triệu Châu hỏi như thế là hoàn toàn hợp lý. Nếu không nỗ lực đạt Đạo, không suy luận về Đạo, làm sao chúng ta có thể tìm được rằng cái tâm bình thường là Đạo?

Triệu Châu đã dứt bỏ việc nghiên cứu triết học Phật giáo và đi suốt con đường từ Bắc đến Nam Trung Quốc để học với sư Nam Tuyền. Chúng ta nghe tiếng thét rướm máu của một kẻ đi tìm chân lý đã bị đẩy đến chỗ bế tắc cùng cực. Sự đòi hỏi trong tâm ngài thúc đẩy ngài phá vỡ chỗ bế tắc ấy dù phải đánh đổi cuộc đời mình. Thế mà vẫn không thể có cách nào cả. Mọi thiền gia, không trừ một ai, cũng đều phải kinh qua một sự đau đớn ray rứt nội tại trước khi đạt ngộ (Sđd, tr.143).

Cuối cùng, Nam Tuyền nêu lời dạy rằng: “Đạo không thuộc sự biết hay sự không biết. Biết là sự vọng giác, không biết là sự trống trơn. Nếu ông quả thực đạt đến cái Đạo vô nghi thì đấy cũng như thái hư, rộng rãivô biên. Thế thì làm sao có thể có đúng có sai trong Đạo được?”.

Câu trả lời này hàm ý Nam Tuyền không chấp nhận rằng người ta có thể đến Đạo mà không cố gắng. Hình như ngài bác bỏ việc đến Đạo mà có cố gắng lẫn không cố gắng. Trong lời dạy cuối cùng này của Nam Tuyền, chúng ta cũng đừng quên rằng Đạo vượt ra ngoài chuyện biết lẫn không biết, rằng không những sự biết bị phủ nhận mà cả sự không biết cũng bị phủ nhận. Tóm lại, sự phủ nhận đôi về biết và không biết là cần thiết cho việc ngộ Đạo. Sự phủ nhận đôi này về biết và không biết nối kết với sự phủ quyết đôi về cố gắng và không cố gắng.

Tuy thế, tại sao cả biết lẫn không biết đều bị phủ nhận? Đây là vì theo Nam Tuyền, biết là sự vọng giác và không biết là sự trống trơn. Thế nghĩa là gì? Những người thời nay chúng ta quá quen thuộc với những hình thức khác nhau của cái biết, nhất là cái biết thuộc khoa học: biết một đối tượng không tạo nên một vọng giác mà cho chúng ta một cái biết khách quan, rõ ràng và tách bạch về đối tượng ấy và do đó chúng ta có thể bảo rằng cái biết khách quan biểu hiện chân lý phổ quát. Tuy nhiên, một câu hỏi cần phải được nêu lên ở đây: Cái biết khác quan về một sự vật có thực sự biểu hiện cái thực tính của sự vật ấy không? Trong sự biết một cách khách quan có bao hàm một nhị biên tính giữa chủ thể và đối tượng của sự biết. Thế nghĩa là biết một sự vật là khách quan hóa sự vật ấy thành một đối tượng từ quan điểm của chủ thể. Điều này cũng trỏ ra rằng biết một sự vật nào đó là biết sự vật ấy chỉ ở mức độ như là nó được khách quan hòa bởi một chủ thể. Sơ đồ sẽ là:

Biết
Chủ thể———————đối tượng
(khách quan hóa)

Cái biết thuộc khoa học chỉ là hình thức đơn thuần nhất của cái biết khách quan có được bằng cách triệt tiêu và loại trừ quan điểm chủ quan. Tuy vậy, trong cái biết khách quan này, cái được biết chỉ là đối tượng; và chủ thể vẫn không được biết tới, tức là người biết vẫn chưa được biết tới. Cái được biết (sở tri) và người biết (năng tri) là hai thực thể khác nhau.

Hơn nữa, những gì được biết về sự vật là cái thực tính của sự vật ấy, không phải trong tổng thể của nó mà chỉ ở ngang mức độ sự vật ấy được khách quan hóa. Sự vật không được biết đúng như chính nó. Như thế, khi biết một sự vật nào như là một đối tượng, chúng ta không thể biết cái thực tính toàn thể, mà chỉ biết cái thực tính chi phần và được khái niệm hóa của sự vật nói trên. Do đó, nếu chúng ta cho rằng cái biết khách quan về một sự vật là biểu hiện cái thực tính toàn diện và đích thực của sự vật ấy thì đấy là một sai lầm lớn.

Thực vậy, biết sự vật một cách khách quan là hàm ý che giấu cái thực tính sáng sủa của sự vật. Trong ý nghĩa này, cái biết khách quan về một sự vật hay thế giới, tuy có thể rõ ràng một cách khách quan, cũng có thể bị coi là cái vọng giác không chân thật vì nó không biểu lộ cái thực tính chân thật của sự vật ấy hay của thế giới.

Mặt khác, Đạo là thực tính chân thật trong đó các sự vật và thế giới hiển lộ ra trong sự hiện diện toàn bộ và trong đó cái được biết và người biết không phải là hai mà là một. Như thé, cùng với Nam Tuyền, chúng ta phải bảo rằng Đạo không thuộc sự biết, vì biết là một vọng giác. Để đạt Đạo, chúng ta phải phủ nhận cái biết cùng với cái nhị biên tính chủ thể-đối tượng của nó.

Việc phủ nhận sự biết đương nhiên dẫn chúng ta đến “Sự không biết” trong đó cái nhị biên tính chủ thể đối tượng biền mất. Bây giờ có sự “không biết” và do đó không có chủ thể lẫn đối tượng, không có người biết lẫn cái được biết. Tuy nhiên, điều này để lại cho chúng ta một sự trống trơn hoàn toàn. Trong khi biết là một sự xác định về một sự vật thì không biết là sự phủ nhận về các sự vật, trong sự không biết chỉ có sự thờ ơ. Thế mà Đạo lại không thuộc sự không biết, vì không biết chỉ là một mặt tiêu cực của biết. Không thể đạt đạo trong sự trống trơn thờ ơ. Đạo chân thật thật sự vượt ngoài cả sự biết lẫn sự không biết, vượt ngoài sự xác định và phủ nhân.

Thế thì vượt ngoài cả sự biết lẫn sự không biết, vượt ngoài cả xác định lẫn phủ nhận nghĩa là gì? Đây là không hay Sùnyatà. Đấy là lý do khiến ngài Nam Tuyền bảo: “Nếu ông quả thật đạt đến cái Đạo vô nghi, thì đấy cũng như thái hư rộng rãi và vô biên”. Và cái Đạo này vốn như thái hư, được thể chứng không ở đâu khác ngoài cái tâm bình thường. Đây là ý nghĩa của lời khẳng định đầu tiên của Nam Tuyền, “cái tâm bình thường là Đạo”.

Do đó, cái tâm bình thường này không phải là cái tâm bình thường trước khi đạt sự thể chứng cái không, mà là cái tâm bình thường sau khi và xuyên qua sự đạt tới và được hỗ trợ bởi sự thể chứng cái không. Đấy là bản chất thực tế của Thiền, Thiền không nói vì về cái kỳ bí, siêu nhiên hay siêu việt. Đằng này Thiền lại bảo rằng cái tâm bình thường là Đạo. Tuy nhiên, điều này không nêu trỏ một xác định hời hợt của cái tâm hằng ngày, vì Đạo như là cái tâm bình thường không thuộc sự biết hay sự không biết, và chỉ bằng cách chối bỏ cả thái hư rộng rãivô biên,chỉ xuyên sự ngộ cái thái hư này, cái tâm bình thường mới được thể chứng là như Đạo.

Điều quan trọng nhất về điểm này là thái hư hay không chẳng phải là sự trống không suông mà chính là sự viên mãn. Vì vượt ngoài sự biết và sự không biết, thái hư hiển lộ một hình thức cao của sự biết vốn tự nó không phải là biết cũng không phải là không biết mà bao gồm cả hai. Thực vậy, thoát ngoài cái nhị biên tính giữa biết và không biết, thái hư có thể sử dụng cả hai một cách tự do mà không bị chúng ngăn chận. Hình thức cao này của sự biết là sự biết trong và xuyên qua sự không biết. Sự biết vốn chính nó là sự không biết. Sự không biết vốn chính nó là sự biết. Hình thức cao này của sự biết chính là satori hay ngộ, vốn cũng được gọi là prajna trong Phật học, tức là trí tuệ.

Trong sự biết theo nghĩa thông thường, người biết và cái được biết tách biệt nhau, chúng ta là hai chứ không phải là một. Trong sự không biết thì không có người biết (chủ thể năng tri) lẫn cái được biết (đối tượng sở tri); cái nhị biên tính của người biết và cái được biết không có mặt. Tuy nhiên, trong hình thức cao của sự biết, tức là sự biết trong và xuyên qua sự không biết, người biết và cái được biết hoàn toàn là một, và tuy vậy sự phân biệt của chúng rất rõ ràng. Nói một cách khác, tự ngã và tha nhân là một và tuy vậy tự ngã thực sự là tự ngã và tha nhân thực sự là tha nhân.

Ở đây, tưởng cũng cần trích dẫn một pháp ngữ nổi danh của vị thiền sư Trung Hoa đời Đường là Thanh Nguyên Duy Tín. Pháp ngữ ấy như sau:

“Ba mươi năm trước, khi chưa khởi sự học Thiền, Lão tăng bảo “Núi là núi, nước là nước”. Sau khi nhập vào chân lý Thiền nhờ sự dạy dỗ của một thầy giỏi, Lão tăng bảo “Núi không phải là núi, nước không phải là nước”. Nhưng bây giờ, đã đạt sự an trú tối hậu (tức chứng ngộ) Lão tăng bảo “Núi thực sự là núi, nước thực sự là nước”.

Cấp độ đầu tiên của hiểu biết, tức là “Núi là núi, nước là nước” nêu trỏ “sự biết” trong ý nghĩa khách quan đã bàn trên. Cấp độ thứ hai của hiểu biết, tức “Núi không phải là núi,nước không phải là nước” biểu thị “sự không biết” như là phủ định của “sự biết”, Và cấp độ thứ ba, cuối cùng, của hiểu biết, tức “Núi thực sự là núi, nước thực sự là nước” nhằm trỏ một hình thức cao của sự hiểu biết trong và xuyên qua sự không biết. Trong sự biết này, mọi sự vật được thể nghiệm rõ ràng trong sự tách bạch đúng thực như chúng, không hơn, không kém; tuy mọi sự vật đều bình đẳng và có thể chuyển đổi nhau trong sự như – thị của chúng, tức là, núi thực sự là núi, nước thực sự là nước. Và tuy vậy núi là nước, nước là núi. Cũng thế, chúng ta có thể bảo rằng tôi thực sự là tôi, anh thực sự là anh. Và tuy vậy tôi là anh, anh là tôi. Tính tương hoán và tương nhập này có được vì hình thức cao của sự biết, tức chứng ngộ, được thể nghiệm trong và xuyên qua sự không biết. Sự tách bạch của mọi sự vật và sự tương nhập của mọi sự vật đi kèm với nhau một cách năng động vì hai khía cạnh này được thể nghiệm trong thái hư, rộng rãivô biên. Đây là lý do tại sao trên kia tôi bảo thái hư hay không chẳng phải là sự biết, hay không biết, mọi sự vật được xác nhận đúng như chính chúng trong thực tính của chúng, không hơn, không kém. Do đó, ngài Vô Môn phát biểu trong bài tụng của ngài rằng:

Xuân có trăm hoa, Thu có trăng,
Hạ về gió mát, tuyết Đông giăng
Ví lòng thanh thản, không lo nghĩ,
Ấy buổi êm đềm chốn thế gian.

Nếu ta thoát ngoài sự biết và sự không biết, tức là nếu lòng thanh thản không lo nghĩ, thì cái tâm bình thường của chúng ta là Đạo. Đạo hay Chân lý không ở đâu xa, không phải là cái gì để thể chứng trong tương lai, mà ở ngay đây, ngay bây giờ, trong cái tâm bình thường của chúng ta.

Như một vị cổ đức bảo:

Đạo không bao giờ xa rời chúng ta dù trong phút chốc.
Nếu không như thế thì đấy không phải là Đạo.

(*) Masao Abe (1915-2006) là một viện sĩ hàn lâm Nhật Bản chuyên về tôn giáo đối chiếu và là giáo sư thực thụ của Viện Đại học Nara. Những quan điểm chín chắn của ông đã được phát triển trong trường phái triết học Kyoto. Ông cũng từng được mời làm giáo sư thỉnh giảng tại nhiều trường đại học Hoa Kỳ. Sau khi Daisetz Teitaro Suzuki qua đời năm 1966, giới nghiên cứu phương Tây công nhận Masao Abe là người đại diện chính yếu cho tư tưởng Thiền Phật giáo ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Các tác phẩm của ông phần lớn được học trò và những người cộng sự góp nhặt biên tập lại, như Thiền và tư tưởng Tây phương (Zen and Western thought),Nghiên cứu về Đạo Nguyên: Triết lý và Tôn giáo (A study of Dogen: His Philosophy and Religion), Phật giáo và Đối thoại về niềm tin (Buddhism and Interfaith Dialogue), Thiền và nghiên cứu đối chiếu (Zen and comparative studies), Thiền và thế giới hiện đại (Zen and modern world).


Ghi chú của người dịch
: Các trích dẫn có đôi chỗ chưa sát hợp với nguyên bản Hán ngữ. Vì tôn trọng cách hiểu của tác giả, chúng tôi vẫn dịch theo bản Anh ngữ: The Core of Zen – The Ordinary Mind TC. Văn Hóa Phật Giáo số 89
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18436)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 15889)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29692)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25371)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21528)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17739)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20727)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26221)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33184)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 51945)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22758)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23321)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39493)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21705)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22284)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6761)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22625)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69633)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 43864)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 22948)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 34870)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 43947)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42765)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44267)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24791)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24258)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39066)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39049)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17162)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 17910)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19170)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35546)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24110)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19499)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20318)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18223)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18889)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18866)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17406)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19224)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30665)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19102)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20411)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19431)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19663)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29656)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17758)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19307)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19785)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58620)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24331)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23398)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39652)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26602)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40630)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22793)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22810)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21496)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18524)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22507)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21004)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19126)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20839)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20243)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30444)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20099)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17367)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16500)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16769)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14879)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14762)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22743)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 15965)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16122)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15166)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 25937)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17083)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15678)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19657)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17581)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14601)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14644)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19028)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15020)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 32913)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17351)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19010)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21696)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 22849)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16535)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16374)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16362)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22831)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26249)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12585)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29356)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27555)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25760)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18365)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 15479)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant