Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lời Tâm Huyết Của Đạo Sư Đại Thủ Ấn

04 Tháng Giêng 201616:04(Xem: 11265)
Lời Tâm Huyết Của Đạo Sư Đại Thủ Ấn

LỜI TÂM HUYẾT CỦA ĐẠO SƯ ĐẠI THỦ ẤN 

Gendun Rinpoche (*)
Viên Lạc

gendunrinpoche

Phát Tâm Bồ Đề

Những nền tảng căn bản:

Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này, động lực của ta là gì, con đường này sẽ  dẫn ta tới đâu, bằng cách nào ta có thể đi tới đích. Mục đích và đích đến của con đường Phật Phápgiải thoát khỏi tất cả khổ đau và đạt tới sự giác ngộ hoàn toàntâm hỷ lạc hoàn toàn không bị cạn kiệt hay tàn hoại bởi bất kỳ điều gì.

Sớm hay muộn gì thì chúng ta cũng phải đối mặt với cái chết- điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, khi ta thực hành lời dạy của đức Phật trong đời sống này, ta có thể đối mặt với cái chết mà không sợ hãi, lại còn đầy đủ niềm tự tin. Chúng ta sẽ biết một cách chắc chắn ta cần phải làm gì và phải tránh những gì vào giờ phút của cái chết, và thái độ gì ta cần có lúc này, nhờ vậy ta có thể sử dụng sự chết như một cơ hội để giải thoát bản thân hoàn toàn khỏi vòng sinh tử luân hồi. Mục đích thực sự của sự thực tập hàng ngày là sự chuẩn bị cho cái chết của chính ta.Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này, động lực của ta là gì, con đường này sẽ  dẫn ta tới đâu, bằng cách nào ta có thể đi tới đích. Mục đích và đích đến của con đường Phật Phápgiải thoát khỏi tất cả khổ đau và đạt tới sự giác ngộ hoàn toàntâm hỷ lạc hoàn toàn không bị cạn kiệt hay tàn hoại bởi bất kỳ điều gì.

Động lực đúng đắn khi theo đuổi con đường tâm linh là điều đặc biệt quan trọng. Chúng ta không nên có mong muốn như là tu tập để đạt được điều gì đó cho bản thân hoặc để cải thiện điều kiện sống trong đời này. Động lực như thế đi ngược với giáo pháp và không mang lại điều gì có ích lâu dài. Tương tự như thế tu tập Pháp để có đời sống dễ chịu trong kiếp sau, ví dụ như là để sinh ra trong gia đình giàu có, được tôn kính hoặc sinh ra trong cõi trời hưởng thụ vô vàn thứ tốt đẹp, ý nguyện như vậy là khá ngắn ngủi. Những thứ tốt đẹp đó rồi cũng đến lúc cạn Kiệt.

Chúng ta nên nhìn nhận một cách rõ ràng là vào giờ phút của cái chết, ta phải bỏ lại đằng sau tất cả những quý giá mà mình đã tích luỹ trong đời này, tài sản cũng như bạn bè. Tất cả những thứ này ta không thể mang theo. Do đó, những thứ tốt đẹp của thế gian này, những điều kiện khả năng tốt chỉ có thể mang lại hạnh phúc tạm thời, nhưng chúng không thể thành mục tiêu lâu dài được.

Con đường của Đức Phật chỉ có một mục tiêu: để đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của sự giác ngộ hoàn toàn và để giúp tất cả chúng sinh cùng đạt được hạnh phúc đó.

Hầu hết quý vị ở phương tây sống trong sự sung túc lớn lao. Chúng ta có rất nhiều của cải vật chất và rất nhiều tự do. Sự giàu có chứng tỏ trong quá khứ chúng ta đã làm rất nhiều điều thiện. Nhưng mục tiêu của ta lúc đó chỉ là để hướng tới sự an lành ngắn hạn, tạm thời, chứ không phải để hướng tới sự giác ngộ. Do vậy, lúc này đây ta phải hướng những hành động thiện hạnh của mình tới sự tích luỹ công đức, một thứ lực có thể đẩy ta đi về phía sự giác ngộ hoàn toàn. Nếu khôngsự tích luỹ về nguồn lực tâm linh này, chúng ta sẽ không đạt lợi íchlâu dài dù có nhiều nỗ lực. Trong thời điểm mà có nhiều sự thuận lợitự do như lúc này, chúng ta phải phát triển năng lực từ bituệ giác. Như thế trong thời điểm khó khăn hơn, chúng ta có thể vượt qua được hết các trở ngại trên con đường của mình.

Chúng ta không những có được đời sống nhiều thuận lợi, lại còn có thể tiếp cận được với Phật Pháp, đó không phải là kết quả của những gì ta đã đã làm trong đời sống hiện tại mà phần nhiều là do những hành động thiện lành trong đời trước. Nghĩa là ta đã có nỗ lực tích luỹ công đức để giải thoát bản thân khỏi những thói quen bất thiện hạnh. Chúng ta đã phát triển chút ít tuệ giác và đã không ngừng ước nguyện được tiếp tục con đường theo lời dạy của đức Phật.

Bằng những thiện hạnh trong quá khứ, chúng ta không những có được sự giàu có hiện tại mà còn có thể tiếp cận với con đường giải thoát. Chúng ta nên sử dụng cơ hội này từ giờ trở đi để đem toàn bộ đời sống của mình hướng tới sự thực hành Phật Pháp, và nhanh chóng đạt được giác ngộ. Ta nên sử dụng hết năng lực có thể để thấu hiểu sâu sắc Phật Pháp mỗi ngày.

Rất nhiều người nghĩ cuộc đời này không có mấy giá trị, thân người này không có gì là đặc biệt, nhưng đây chỉ là những ấn tượng sai lầm. Thân người này không đến một cách tự nhiên. Thật ra, trong tất cả các đời sống trên thế gian, đời sống của con người là khó đạt được nhất. Thêm vào đó, không có nhiều quốc gia trên thế giới nơi mà Phật Pháp đang được thuyết giảng, ở những nơi Phật Pháp được thuyết giảng, cũng chỉ có số ít người quan tâm tới. Trong số những người quan tâm, có  rất ít người muốn thực hành. Lại còn hiếm hơn nữa những người thực sự thực hành theo đúng như lời Phật Pháp chỉ dạy. Thực tế thì, số người thực hành Phật pháp một cách dốt dáo và đúng đắn thì như là ngôi sao giữa ban ngày.

Ở đời này, chúng ta đã đạt được một cơ hội hiếm có và quý báu. Chúng ta đã gặp Pháp, đã tìm thấy những người bạn tâm linh, lại có thời gian để thực hành Pháp. Chúng ta có thể học hỏi, áp dụng và chia sẻ những kinh nghiệm với người khác và giúp đỡ lẫn nhau. Chúng tatự do để làm những gì mình muốn, điều kiện đặc biệtquý báu này là do những thiện hạnh của mình và do tâm từ bi của Tam Bảo, điều kiện ấy lại có thể biến mất bất cứ lúc nào vì nó bị phụ thuộc vào bao nhiêu nhân duyên mà những duyên này có thể thay đổi rất nhanh chóng.

Khi nhìn thấy những điều kiện quý báu này, trong tâm mình nảy sinh một sự hối thúc, cùng với niềm hoan hỷ , ta nói với bản thân: ” trong đời này còn có điều gì quan trọng hơn là có sự chứng ngộ sâu sắc về Phật Pháp để chia sẻ với tất cả chúng sinh”. Bằng niềm khát ngưỡnghoan hỷ này chúng ta nguyện sẽ sử dụng thân người quý báu để thưc hành Pháp không mệt mỏi.

Có rất nhiều người trong chúng ta đã gặp được Pháp của đức Phật, và có niềm tin vào lời dạy của ngài. Mặc dù vậy chúng ta vẫn không có thời gian để thực hành. Nguyên nhân là vì ta vẫn còn nhiều sự vướng mắc với những giá trị vật chấtthế gian, do những hiểu biết sai về cái gì là quan trọng ở đời người. Chúng ra dễ dàng bị đánh lừa bởi vẻ cuốn hút của những thứ xung quanh  mình, rất nhiều hình ảnh, màu sắc mà mình không muốn từ bỏ chúng. Có lúc, chúng ta còn nghĩ rằng cuộc sống trong luân hồi cũng rất dễ chịu. Trên hết cả, là chúng ta cống hiến bản thân cho sự tích lũy vật chất, và những nỗ lực lao động của mình chỉ hoàn toàn vì pháp thế gian.

Ngay cả khi chúng ta đã được nghe giảng Pháp nhiều lần, bởi vì Tâm ưu tiên những giá trị vật chất nên ta không tìm thấy thời gian hay điều kiện để hết lòng thực hành, cuối cùng chúng ta lại có thể hoàn toàn rời bỏ Pháp. Thay vì học theo những lời dạy của các bậc thầy giác ngộ, chúng ta bị thu hút bởi những nhân vật giàu có thành công trên thế giới. Ta dành nhiều thời giannăng lượng đề bắt chước họ và tìm cách để có được tài sản, sự ảnh hưởngnổi tiếng như họ. Những ham muốn trên trở thành nguyên nhân của sự khổ sở lớn, vì lúc này tâm mình luôn bị dày vò bởi lòng tham, (nguyên nhân chính của nhiều phiền khổ).

Khi mà ta không ý thức được về vô thường, ý thức về sự sinh rồi diệt, ta luôn bị trói buộc trong sự ham muốn của thế gian, của luân hồi. Chúng ta chạy đuổi theo những vật chất bất tận mà không nhận ra bản chất thay đổi và không chân thật của chúng. Mọi thứ luôn thay đổi trong mỗi giây mỗi phút, ngay cả Khi ta đạt được những gì ta mong ước, ta cũng không thể giữ chúng được bền lâu. Do không hiểu bản chất thay đổi của vạn vật, ta trở nên vô cùng thất vọng và lại nỗ lực đến khổ sở để giữ gìnbảo vệ những thứ luôn thay đổi.

Ở cuộc sống này, con người rất giống trẻ con bị cuốn hút bởi cầu vồng và nỗ lực để đuổi bắt chúng.

Đứa trẻ sẽ không bao giờ bắt nổi cầu vòng bởi vì bản chất của nó là không thể bị bắt. Chúng tanỗ lực thế nào cũng không thể nắm giữ được những thứ ở thế gian này, bởi vì bản chất của chúng là thay đổi và phù du. Chỉ bởi vì ước muốn của ta đi ngược lại với bản chất của vạn vật, ta nếm trải khổ đau bởi vì sự chênh khớp giữa cái ước muốn của mình và bản chất của thực tại.

Giấc mơ là một ví dụ cho sự lầm tưởng của ta về thực tại. Bởi vì ta nghĩ những gì trong giấc mơ là thật, ta phản ứng với chúng với đủ cung bậc của cảm xúc và bị cuốn đi. Giấc mơ tốt ta cảm thấy dễ chịu, gặp cơn ác mộng ta đau khổ sợ hãi. Cứ như vậy ta tạo nên thói quen là nắm giữ và xua đuổi. Chúng ta không nhận ra rằng giấc mơ của mình chỉ là các hoạt động phản chiếu của tinh thần, những thứ xảy ra trong đó là không thật, vì không biết điều này nên tâm có nhất nhiều căng thẳng và đem lại nhiều nỗi khổ sở.

Cũng như thế, chúng ta cũng bị mắc kẹt trong tình huống khi tỉnh dậy, bởi vì cho rằng những thứ quanh mình là thật và vĩnh cửu trong khi bản chất của nó là biến đổi và phù du. Ta nỗ lực để sở hữu, nắm giữ, dẫn đến sự thất vọng nảy sinh và ta lãng phí thời gian một cách vô ích.

Khi chúng ta ý thức được rằng mọi thứ đều luôn biến đổi và không có gì thực sự tồn tại tuyệt đối, sự bám chấp của ta vào vạn vật sẽ nhờ vậy mà dần tan dã, ta sẽ dần bớt khổ!

Lúc này ta sẽ hiểu rằng. Tất cả những nỗ lực của ta đều không mang lại hạnh phúc lâu dài, vì những thứ mình chiến đấu vì thì không có gì là vĩnh cửu. Nó trống rỗng như bầu trời vậy, ta ý thức được đặc tính phù du của đời sống này, nhờ vậy ta dần buông bỏ ý tưởng cho rằng mình có thể sở hữu một thứ gì đó mãi mãi và có thể bảo vệ chúng khỏi bị tàn hoại.

Các vị thầy ở truyền thống Kadmapa thường quán chiếu về vô thường mỗi ngày. Khi họ uống trà, họ nói với bản thân rằng: ” hôm nay thật may là mình có thể uống tách trà này, ai biết được rằng ngày mai mình sẽ có trà để uống” và mỗi buổi tối, trước khi đi ngủ, họ sẽ để cốc uống trà bên cạnh và úp chúng xuống, vì họ ý thức rằng cái chết có thể đến vào đêm đó. Khi họ tỉnh dậy vào sáng hôm sau, họ lại xoay tách trà lên và nói với bản thân:” thật là may mắn vì hôm nay mình vẫn còn sống, nhiều người đã rời bỏ thân họ tối qua, mình phải sử dụng cơ hội này để làm những điều có ích hôm nay. Bằng cách này họ tu tập về vô thường, bản chất biến đổi của vạn vật.

Thế giới ta đang sống trong đó, là sự phản chiếu của dòng chảy nơi nghiệp của mình, đó là kết quả của những hành động về thân, khẩu ý trong quá khứ. Khi mà ta không hiểu được điều này, ta sống trong ảo tưởng về tự do. Chúng ta nghĩ rằng ta có thể tạo dựng cuộc đời mình theo ý muốn, ta có thể bảo vệ những điều kiện hạnh phúc cho bản thân và tránh được những điều gây khổ sở. Tuy nhiên, đây lại là điều không thể, nếu mà ta không để ý đến luật nhân quả thì ta cứ mãi tự mình lừa mình thôi.

Những gì đang xảy ra ở hiện tại là kết quả của những hành động trước đó. Tất cả những niềm vui, thành đạthạnh phúcnguyên nhân là những hành động thiện của thân, khẩu, ý mà ta đã thực hiện trong đời này hoặc đời trước. Cũng như thế, tất cả những khổ đau, khó khăn là kết quả của những hành động bất thiện hạnh ta đã gây.

Các dòng nghiệp lực tác động đến từ nhiều hướng, ta chỉ còn có một khoảng tự do nhỏ đề đưa ra quyết định. Chúng ta có thể sử dụng khoảng tự do nhỏ này để lựa chọn những hành động và lời nói, suy nghĩhiện tại như thế nào để chuẩn bị cho một tương lai có nhiều tự dohạnh phúc hơn. Dần dần ta có thể giải thoát bản thân khỏi những nghiệp lực cũ và chuẩn bị được mảnh đất mới cho sự hiểu biết sâu sắc về bản chất chân thật của vạn vật.

Những nhân của hạnh phúc và khổ đau nhiều, trộn lẫn và đa dạng như số lượng chúng sinh vậy. Bởi vì mỗi hành động của người nào thì sẽ sinh ra quả cho người đó mà mỗi người có những trải nghiệm hoàn toàn khác nhau cho dù họ cùng sống trong một môi trường, hoàn cảnh. Mỗi người cảm nhận một thế giới của riêng họ. Chỉ có ta nếm trái quả của chính hành động và nhận thức của mình. Và cũng chỉ có ta mới có thể tác động đến những gì ta sẽ trải nghiệm trong tương lai.

Để biết những gì ta đã làm trong quá khứ, chỉ cần nhìn vào hiện tạiĐể biết tương lai như thế nào, chỉ cần nhìn vào những gì ta đang làm.

Khi đã gieo nhân thì quả sẽ theo đó mà chín muồi. Ta không thể ngưng lại quá trình này. Do vậy, dù ta có nỗ lực thế nào cũng không thể thành tựu nếu muốn thay đổi hay kiểm soát những  trải nghiệm ở hiện tại bằng những hành động ở hiện tại. Mặc dù ta có thể mong ước đến tột cùng là sẽ thoát khỏi những vấn đềhiện tại, ta không thể thay đổi được tình trạnghiện tại theo ý muốn. Điều này cho thấy có một nguồn lực đang tác động đến mọi việc, nguồn lực ấy là kết quả của những hành động trước đó mà giờ thì ta không thể tránh được.

Do đó, thay vì kiệt sứccố gắng thay đổi tình hình khi mà nó không thể khác đi, ta nên quan tâm đến tương lai và tập trung năng lực vào một điều rất chân thực là, hành động ở hiện tại sẽ quyết định tương lai. Nếu mà ta làm những điều thiện lúc này, ta đã gieo những hạt giống của hạnh phúc và một ngày sẽ cho ra quả là những điều kiện thuận lợian lành. Nếu mà ta gây những điều bất thiện hoặc làm khổ người khác thì chắc chắn là ta sẽ rơi vào những hoàn cảnh khốn khổ sau này.

Khi đã gieo nhân, thì quả là hành phúc hay khổ đau sẽ tới, đây là điều không tránh khỏi.

Điều kiện của một tương lai tự dohạnh phúc hơn là ta rút ra những bài học từ sai lầm trong quá khứ và tránh xa chúng trong tương lai. Ghi nhớ về điều này, ta phải tránh hành động tiêu cực trong mọi hoàn cảnh – ngay cả trong tình huống giữa sống và chết. Chúng ta không cần phải làm điều gì đó thật đặc biệt ví dụ như phải từ bỏ đời sống bình thường hay tu tập kiệt sức. Chỉ đơn giảnchúng ta làm chủ tâm của mình. Chúng ta thay đổi hành động của mình bằng cách thay đổi ý nguyện. Ý nguyệnmục đích của hành động. Đây chính là nơi chúng ta bắt đầu chú ý tới.

Khi mà thái độ ganh tỵ và tâm chỉ nghĩ đến bản thân mình được thay bằng thái độ vị tha và nhân ái…. Thì bình an, hạnh phúc và những điều tốt lành sẽ xuất hiện một cách tự động. Từ bỏ luân hồi nghĩa là từ bỏ nơi chốn khổ đau, thì không cần phải làm thêm nhiều thứ. Chỉ cần nhận ra nguyên nhân của khổ đau và từ bỏ chúng. Chúng ta phải tìm cách để không bị chi phối bởi cảm xúc tiêu cực vì đây chính là nguồn gốc của những hành động bất thiện và khổ sở.

Vấn đề không phải là ta thay đổi người khác hay thế giới, vấn đề là ta làm chủ được tâm mình. 

Khi mà ta phát triển được ý nguyện vị tha, cách hành xử của thân và lời nói sẽ tự động thay đổi theo, vì tất cả hành động đều có nguồn gốc là nơi tâm mình. Tâm như là vua, ra lệnh cho các thuộc hạ là thân và khẩu. Khi mà ta có ý nguyện lành thiện đó là vì lợi lạc cho người khác, tất cả hành động của ta sẽ phản chiếu ý nguyện trên. Khi mà ta càng thực hành theo cách này thì tâm của ta ngày càng rộng mở. Ta sẽ có thêm nhiều cơ hội để làm những điều thiện, và con đường đến tỉnh thức sẽ ngày càng rộng lớn. Ý nguyện lành thiện cũng sẽ làm lắng lại các cảm xúc tiêu cực, bởi vì hạnh phúc của bản thân thì không còn là sự quan trọng hàng đầu với ta nữa.

Những khó khăn trong hiện tại của ta bây giờ chính là sự mơ hồ và những ràng buộc mê muộithế giới mà ta đang sống. Chúng ta không ý thức được những cái khổ ở thế giới điều kiện này, chúng ta đã thích nghi với điều kiện sống và có lúc lại cảm thấy mình đang sống tốt. Chúng ta đặt kì vọng và ham muốn vào những thứ ở bên ngoài ta, rồi dồn hết năng lượng của mình để biến những kì vọng thành hiện thực. Chúng ta quên mất một việc là nhận thức của mình, cách mình nhìn nhận thế giới khá là sai lạc. Khi mà ta không thể nhìn cuộc đời như bản chất thật của chúng, ta sẽ mãi là nô lệ của ham muốn và lại rơi vào đau khổ, thất vọng hết lần này đến lần khác khi mà kì vọng của ta không được đáp ứng. Tìm hiếm hạnh phúc dài lâu ở thế giới điều kiện khi mà bản chất của nó là luôn thay đổi và chứa đầy khổ đau, là điều không thể. Vấn đề là ta đã không rõ ràng nhìn ra điều này nên ta cứ theo đuổi những kì vọng, ước muốn và ta tiếp tục quay vòng trong luôn hồi.

Người thông thái sẽ đi tìm kiếm sự giác ngộtrải qua khó khăn để nhận ra và nhìn thấu những thứ che đậy bản chất của cuộc sống. Đây là điều mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm

Ngài đã nhìn thấy rõ ràng vòng luân hồiđặc tínhvô lượng khổ, và trong luân hồi không chứa thứ gì để có thể đạt tới hạnh phúc mãi mãi. Sự nhìn thấu này đã giúp ngài phá vỡ những mê lầm đang che mắt người thường, Ngài bắt đầu tìm kiếm con đường để kết thúc khổ đau và dẫn con người ra khỏi vòng luân hồi. Ngài đã tìm thấy lối thoát, thực hành con đường ấy và đạt tới giác ngộ hoàn toàn.

Ngược lại với Đức Phật, chúng ta, người phàm phu đã không nhận ra những thiếu xót của luân hồi và luôn kiếm tìm hạnh phúc thế gian, tìm kiếm niềm vui và hạnh phúc trong đời sống thường nhật. Tất nhiên, tất cả mọi người đều mong muốn hạnh phúc, không có gì sai lạc cả. Nhưng chúng ta nên nhận ra hạnh phúc thế gian là không chân thật và chóng tàn, mang trong chính nó hạt giống của khổ, phần chính là bởi vì tâm lợi thân, và vì tâm sợ hãi và mong cầu. Đặc tính của luân hồi là thay đổi và khổ – ở nơi nào có tâm lợi thân và sự bám chấp vào những gì gọi là nhất thời, ngắn ngủi, ở đó sẽ có khổ. Để nhận ra điều này và để đi tìm kiếm một nơi đáng tin cậy để cậy trông là bước đi đầu tiên trên con đường giải thoát khỏi cõi ta bà, một sự phá vỡ khỏi ràng buộc vướng chấp.

Nếu chúng ta nỗ lực để chạy theo những hạnh phúc tạm thời, và cho phép chúng lừa dối ta về bản chất khổ của luân hồi, thì ta sẽ mãi mãi loanh quanh trong cõi ấy.

Tựu chung lại, chúng ta khá cứng đầu trong việc phủ nhận những điều chân thật được Đức Phật thuyết giảng. Tuy vậy, mặc dù khó chịu, những điều ấy là chân thật. Cho đến khi ta vẫn còn vướng níu vào những mối quan tâm thế gian, Để nhận ra tự tánh tâm và sự giải thoát là không thể. Chúng ta né tránh tuệ giác nhìn thẳng vào bản chất ảo mộng của những bận rộn thế gian: Chúng ta né không nhắc tới vô thường và cái chết, bỏ rơi hiện tại và sống trong hi vọng về một tương lai tốt hơn. Trong khi đó, mỗi ngày qua đi, đời sống ta ngắn lại. Mỗi một hơi thở vào ra, chúng ta tới gần hơn với cái chết.

Về mặt lý trí chúng ta có thể hiểu biết hết những điều trên, nhưng sự bận rộn của ta vào những chuyện thế gian cho thấy là ta đã không thực sự ý thức được vô thường của đời sống. Ta làm ngơ với thực tế là cái chết có thể đến bất ngờ bất cứ lúc nào, và ta cũng rất hoan hỷ khi nghĩ rằng ta vẫn còn đủ thời gian để làm việc này việc kia. Chúng ta liên tục tạo dựng niềm hi vọng vào ngày mai, ngày kia và mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chúng ta tin tưởng rằng mọi việc sẽ trở nên tốt đẹp. Nhưng ta đang lừa dối bản thân – Nếu ta không làm điều gì đó mang tính quyết định, tương lai của ta cũng sẽ không có mấy thay đổi.

Vào giây phút của cái chết ta phải bỏ lại sau lưng tất cả mọi thứ: của cải, danh lợi, tất cả những gì quan trọng với chúng ta, để có được những thứ ấy, ta đã bỏ bao công sức nặng nhọc. Khi ấy, chỉ có giáo pháp mới giúp ích. Ta sẽ cần sự bảo vệ ở một chốn nương tựa chắc chắn và sẽ cần rất nhiều năng lực tinh thần tích cực để trải qua giai đoạn chết một cách có thể chịu đựng nổi. Bởi vì lý do này, Thực hành pháp là cách duy nhấtý nghĩa để làm trong đời sống này. Vào giây phút lâm chung, sự vô nghĩa của các bận rộn thế gian trở nên vô cùng rõ rệt. Điều duy nhất có thể giúp ta là lực đẩy của những điều lành thiện mà ta đã làm, những phước đức này có đủ mạnh để khiến ta có niềm tin thực sự và tìm kiếm sự quy y từ tận sâu trong tâm. Vào giờ phút lâm chung, sẽ là quá muộn để nỗ lực để thực hành tất cả các pháp trên.

Cho đến khi ta thực sự ý thức được vô thường, tâm của ta sẽ không ngừng bị xáo trộn bởi những ý nghĩ xoay quanh đời sống thường nhật – làm thế nào để được hạnh phúc, làm sao để tránh khổ – tất cả những suy nghĩ trên nảy sinh từ sự bám chấp của ta vào một đời sống không có vô thường. Chúng ta cẩn thận suy xétnhận ra sự bám chấp vào thế giới này thật vô nghĩa. Chúng ta nên quán chiếu mọi bề về những ưu tiên của mình: “tại sao những điều này lại rất quan trọng với tôi? những ham muốn này đến từ đâu? tôi thực sự được lợi ích gì từ chúng, Nếu tôi đạt được những gì tôi muốn, chúng sẽ dẫn tôi đến đâu? Khi chúng ta phân tích mục đích của mình một cách thận trọng, chúng ta sẽ thấy rằng, theo đuổi những danh lợi, được mất của thế gian sẽ không mang lại thứ gì ngoài khổ sở.

Khi quán chiếu sâu sắc về nghiệp, vô thường và cái chết, chúng ta bắt đầu hiểu tình huống thực sự của mình, một cảm giác về sự cấp bách nảy sinh trong ta.

Sự sợ hãi khi biết ta sẽ giao mình cho thần chết mà không có sự chuẩn bị, có thể sẽ bị tái sinh ở một cõi nhiều khổ đau. Cùng với đó là tình thương tới tất cả chúng sinh, trở nên một động lực mạnh mẽ để thay đổi cuộc đời của mình và dẫn đến việc dấn thân vào những hành động thiện lành từ giờ trở đi. Ta hỏi bản thân, ta phải làm gì để có được những điều kiện để thực hành pháp trong tương lai giống như những điều kiện thuận lợi mà ta có trong hiện tại và làm thế nào để ta rửa sạch những nghiệp quá khứ để ta có thể đạt tới những tuệ giác sâu sắc. Chỉ nghĩ về giáo Pháp trong đầu, tâm của ta sẽ trở nên định tĩnh và sáng suốt.  Tâm sẽ không còn bị xáo trộn lên xuống bởi những được mất của thế gian, và việc hành thiền trở nên dễ dàng hơn.

Khi chúng ta thực hành những lời dạy của Đức Phật, chúng ta dần dần tìm thấy đường ra khỏi vòng khổ sở. Chúng ta đoạn diệt với những hành động bất thiện có thể là nhân dẫn đến khổ sở hơn. Ta học cách để chỉ dấn thân vào những hành động thiện, những thứ cuối cùng sẽ trổ thành quả là những điều kiện thuận lợi. Học giáo pháp ta không được chỉ gói gọn trong hiểu biết lý trí. Sự thực hành nghiêm túc là không thể thiếu. Để có sự tiến bộ, ta phải thực sự bắt đầu thực hành.

Các bậc đại hành giả trong quá khứ đã đạt tới giác ngộ nhanh chóng bởi vì họ đã hoàn toàn quay lưng lại với luân hồi. Thực hành pháp là điều quan trọng cốt lõi trong cuộc đời họ, và họ hoàn toàn bị thuyết phục bởi những sự vô nghĩa của đời sống trong luân hồi. Nhờ vậy, họ đã đạt tới Phật Tánh chỉ trong một kiếp sống. Họ không bao giờ thực hành với mục tiêu chỉ để đạt tới sự an tịnh hay trạng thái bình an của tâm và để cảm thấy tốt hơn trong cuộc đời. Họ đã quan tâm đến những thứ quan trọng hơn: hoàn toàn tự do khỏi vòng luân hồi. Sau khi đã quán chiếu sâu sắc về bản chất của mọi trải nghiệm trong thế giới điều kiện, họ đã hoàn toàn tin tưởng rằng, đời sống điều kiện được bao phủ  bởi khổ và không tránh khỏi sự khổ, do vậy họ đã giải thoát bản thân khỏi những nỗ lực hạnh phúc tạm thời, một lần cho tất cả. Những gì vượt thoát ở cuộc đời này thì quan trọng hơn là những gì trong cuộc đời này. Nhận ra bản chất cần điều kiệnvô thường của những hạnh phúc thế gian, họ đã đi đến quyết định không thối lui đó là chú tâm vào những gì vượt thoát tính thay đổi: tự tánh tuyệt đối của tâm, nguồn gốc của hạnh phúc thực sự.

Một ví dụ, khi họ nhìn thấy một miếng xương khô, họ sẽ quán chiếu như sau: “ Chiếc xương này đến từ một tấm thân vô thường, thân ấy được sinh ra trong cuộc đời nhờ vô minh và tham đắm. Bất kì ai còn vô minh sẽ nắm giữ thân ấy cho đến ngày hoại diệt, sinh ra trở lại và để rồi đến hoại diệt, theo cách ấy mà quay vòng sự khổ, hết lần này đến lần khác”.

Quán chiếu sâu sắc theo cách này, họ đã giải thoát bản thân khỏi vướng chấp và tham đắm, nhờ thiền tập họ đã đem đến sự thay đổi thật sự nơi họ. Họ đã không chỉ ngồi, nỗ lực để có bình anđời sống vui vẻ, họ đã thực sự nhận ra họ bị trói buộc trong cạm bẫy của luân hồi, trong vô minh và bám chấp không ngừng, và họ đã phát tâm khát ngưỡng tìm cầu giác ngộ. Bởi vì họ đã hiểu bản chất của khổ, họ phát tâm buông xả, sự buông xả sâu sắc, và nhờ vậy đạt tới giải thoát khỏi luân hồi.

Chúng ta thì ít sâu sắc hơn, cách chúng ta đến với Pháp thường thể hiện một sự vô minh lớn. Chúng ta nhào tới giáo pháp cao nhất về tự tánh tâm, Đại Thủ Ấn, và chỉ để sau đó nhận ra ta nên thực hành các bước mở đầu trước. Chúng ta có gì đó giống với trẻ con, ta thích chơi với những đồ vật màu sắc ngay khi vừa nhìn thấy chúng.

Nếu chúng ta thực sự mong muốn ngộ ra Đại Thủ ấn, điều đầu tiên chúng ta phải ý thức được cơ hội hiếm có đang hiện ra với ta ngay lúc này: ta được sinh ra làm người, ta đã gặp được Pháp, ta đã sở hữu những điều kiện tiền đề để đạt tới giác ngộ. Ta không nên lãng phí cơ hội này và ngộ ra càng nán lại trong cõi luân hồi thì giời gian càng lãng phí.

Tất cả các cõi trong luân hồi đều có vô vàn các điều lỗi lầm và bao phủ bởi khổ. Ta nên thường nhớ tới vô thường và cái chết. Điều này sẽ khích lệ và phát khởi trong ta chút hiểu biết và sự thúc bách về việc tu tập nghiêm túc. Thêm vào đó, ta cần phải thấy rõ mối liên hệ trực tiếp, không thể tránh khỏi giữa hành động và quả của hành động, tập trung ý thức và dấn thân vào các hành động thiện lành và hữu ích. Nhờ những quán chiếu trên ta có được những hiểu biết căn bản là hành trang cho những bước tiếp theo trên con đường tỉnh thức. Nếu ta bỏ qua những bước này trên đường đi và chỉ quan tâm đến đích đến, ta sẽ không tránh khỏi việc trượt ra khỏi đường đi tới đỉnh cuối cùng.

Để chắc chắn có được sự vững chãi trên con đường tu của mình, quan trọng là ta phải bắt đầu với những nền tảng cơ bản và sau đó leo từng bước một, bước nọ nối bước kia.

Một số hành giả bám chấp quá nhiều vào hình tướng bên ngoài và tính phương tiện của Pháp mà không mấy chú tâm đến tính cốt lõi, cốt tuỷ của Pháp. Họ nhanh chóng lao vào những pháp tu khác nhau và không còn nhìn thấy thứ gì khác nữa. Trong sự háo hức của họ về những “gói pháp tu”, họ bỏ lỡ ý nghĩa thực sự của những pháp tu đó: như là điều quan trọng của việc Quy Yquán chiếu về vô thường và nghiệp, tầm quan trọng của phát triển cái thấy đúng đắn, chánh kiến và  những ý nghĩa sâu xa trong mối liên hệ tới guru. Họ duy trì những thứ ở bên ngoài và tự hài lòng với những dự án tâm linh.

Bằng cách chọn lấy những điều trong giáo pháp có sức thu hút với họ và những điều chứa đựng sự dễ chịu, họ lưu lại trong cạm bẫy của vòng luân hồi. Sự tu tập của họ sẽ không có kết quả bởi vì đã không đi được vào chiều sâu. Mọi thứ vẫn y nguyên như cũ từ bên trong, chỉ một số sự vướng mắc bên ngoài đổi đối tượng.

Do vậy chúng ta nên cẩn thẩn để không bị cuốn đi bởi sự cuốn hút cuả các phương tiện của pháp, thay vào đó chú tâm vào cốt tuỷ của pháp, phẩm tính thực sự của pháp. Chúng ta không được kẹt vào sự hiểu biết lý trí. Pháp nên được hoà quyện vào toàn bộ con người ta và dẫn ta đến sự thay đổi toàn diện từ thái độ bên trong và hình tướng bên ngoài. Sự áp đụng đúng đắn của các phương pháp tu tập, trong đời sống hàng ngày hay trong các thời thiền nghiêm mật, sẽ đến sau đó một cách tự nhiên.

dịch thuật: TVKK (thu-vien-karma-kagyu)

Từ cuốn: The Heart Advice of The Mahamundra Teacher

(*) Lama Gendun Rinpoche (1918-1997) Gendun Rinpoche (1918-1997) belonged to that extraordinary group of great Tibetan Buddhist meditators trained entirely in Tibet who were driven into exile by the Chinese occupation of their homeland and who later in their lives spread the Buddhist teachings in the West. 
Practicing in the Karma Kagyu tradition, he spent over 30 years meditating in closed retreat in Tibet and India. His accomplishments were such that his principal teacher, the 16th Karmapa, who sent him to Europe to teach, compared him to the great 11/12th century Tibetan yogi Milarepa. 
In the final years of his activity in Europe he succeeded in firmly planting the Buddhist teachings in Western soil by establishing numerous teaching, practice and retreat centers. 
He trained more than a hundred Western disciples as teachers or lamas who are now continuing his legacy.
The 16th Gyalwa Karmapa said about him:
"Gendun Rinpoche is like Milarepa -
in this life he attained the state of Vajradhara."

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14109)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39630)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15267)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13812)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13872)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37252)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 39997)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14592)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14276)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12623)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14786)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19181)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13764)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42558)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13790)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37177)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12624)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11728)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22490)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12460)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12519)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 12982)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13044)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17209)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33126)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14776)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11007)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12398)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11923)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11894)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13093)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51159)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12344)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6568)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30351)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13088)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13274)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30613)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19277)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12445)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11794)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14727)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13157)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13140)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30607)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 11984)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11795)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12678)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31813)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29337)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11747)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11690)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10377)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11507)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9590)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9604)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9906)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35339)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10113)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10058)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10004)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9605)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27729)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15426)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9803)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13618)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9805)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9653)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18234)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12016)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9521)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9642)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8658)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8876)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8359)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11422)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31644)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12285)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13266)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8786)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9393)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11876)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9169)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9035)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9603)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29278)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9032)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9053)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33160)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8400)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30534)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31156)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37002)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32177)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9883)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 26983)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8380)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19177)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12971)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9730)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant