Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đừng Bảo Xuân Tàn Hoa Rụng Hết

08 Tháng Hai 201605:02(Xem: 22603)
Đừng Bảo Xuân Tàn Hoa Rụng Hết

ĐỪNG BẢO XUÂN TÀN HOA RỤNG HẾT

 

Vĩnh Hảo

 

Đừng Bảo Xuân Tàn Hoa Rụng Hết(Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩmSân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994. Sau một phần tư thế kỷ, chạnh lòng nhớ thầy, nhớ ba, tác giả ngồi gõ lại ngày cuối năm, gửi tặng mọi người)

 

 

Thuở còn bé, cứ mỗi độ năm hết Tết đến là lòng tôi rộn rã, náo nức; ngồi trong lớp chỉ mơ nghĩ đến hội chợ, quần áo mới, tiền lì xì, chơi bài, đánh bầu cua, v.v… không làm sao mà học cho vô. Nỗi háo hức mong đợi cái Tết đã khởi sự xâm chiếm lòng tôi tự những ngày đầu tháng Chạp cho đến tận giây phút giao thừa. Cứ mỗi tờ lịch rơi xuống, tôi nghe như nỗi háo hức tăng mạnh thêm lên; càng gần ngày ba mươi càng thấp thỏm, bồn chồn, vui không sao tả được.

Nhưng vui nhất là ngày ba mươi Tết. Ngày đó, trong nhà trước ngõ đã được mẹ và các anh chị lớn lau chùi, sửa soạn, trang trí xong xuôi hết rồi. Tôi cũng có góp công trong việc chùi đồ đồng chứ chẳng phải không, vì tôi nghĩ công việc hết thì Tết mới đến nhanh được.

Mẹ tôi sửa soạn cho bàn thờ Phậtbàn thờ ông bà tổ tiên là kỹ lưỡng, chu đáo nhất. Đèn nến, hoa trái, trầm hương, trang nghiêm không kém gì bàn thờ ở chùa cả. Nhất là bộ lư đồng và các cặp chân đèn: sáng trưng, bóng lưỡn, y như vàng ròng vậy. Trên bàn thờ, ngoài hoa quả là những thứ mẹ tôi thường dâng cúng mỗi ngày rằm và mồng một, còn có bánh mứt, hạt dưa và nguyên một quả dưa hấu thật lớn nữa. Mẹ tôi chăm lo mọi thứ, chỉ dành cho ba tôi một công việc mà ông có thể làm được thôi, đó là trên đường từ sở về nhà, ghé mua một nhánh mai lớn từ hôm hai mươi hai Tết, trước ngày đưa ông Táo về trời. Ba tôi đặt chậu mai lớn cạnh bàn thờ, gần phòng khách. Chính chậu mai này làm cho không khí Tết ra vẻ Tết hơn cả.

Đến gần ngày 30 Tết mà thấy mai chưa chịu hé nhụy là ba tôi thúc thuốc cho hoa nở kịp Tết. Không biết ba tôi học cái mẹo đó ở đâu; chỉ thấy, không khi nào ông để cho mẹ tôi thất vọng trong “công tác” duy nhất của dịp Tết mà bà giao ông làm.

Đến ngày giao thừa thì mai nở rộ. Sau tràng pháo đì đùng góp tiếng với hàng triệu phong pháo đang nổ giòn khắp non sông, ba mẹ rồi đến anh chị em tôi, lần lượt thắp nhang lễ Phật, lễ ông bà tổ tiên. Trong nhà, khói hương nghi ngút. Mùi thuốc pháo cũng trộn lẫn trong không khí ấm cúng của đêm giao thừa. Lễ xong thì đến mục mừng tuổi và lì xì. Mục này hình như là mục chính của đêm giao thừa, tôi nghĩ vậy. Ba mẹ tôi ngồi nơi phòng khách. Bầy con 14 đứa (vắng người chị cả đi du học), nhỏ đứng trước, lớn đứng sau, quần áo mới chỉnh tề, sắp thành hai hàng ngang để mừng tuổi ba mẹ. Người chị lớn thứ nhì thay mặt bầy con chúc Tết, cầu ba mẹ mạnh khỏe sống đời. Sau đó, ba tôi đáp lễ đôi dòng vắn tắt nhưng đầy thương yêu, cảm động. Lúc nào cũng vậy, ông đều khuyên chúng tôi ăn hiền ở lành, chăm chỉ học hành để mai này giúp ích cho xã hội, cho giống nòi mà còn làm nở mặt tông tộc nữa. Rồi mẹ tôi lì xì. Lớn trước nhỏ sau. Những bao lì xì đỏ mà thuở ấy, bọn nhỏ như tôi thấy nếu thiếu chúng thì Tết cũng mất hết ý nghĩa.

Hí hửng mở bao lì xì ra xem, sau đó lũ trẻ chúng tôi, nếu từ mười ba tuổi trở xuống thì phải đi ngủ lại cho đến sáu giờ sáng mới được phép trở dậy để đón Tết. Đi ngủ ngay sau giờ giao thừa quả thực là một cực hình cho tôi! Các anh chị từ mười bốn tuổi trở lên không biết thức làm gì! Chắc cũng chỉ ngồi ăn bánh mứt, cắn hạt dưa, uống trà thôi chứ có đại sự gì đâu! Nhưng nằm trăn trở một lúc tôi thấy không khí trong nhà sao im quá. Tôi đoán, vậy là những người lớn đã rời khỏi nhà, đi đâu rồi. Tôi lén trở dậy, vén màn nhìn ra phòng khách: không có ai cả; chỉ có mình ba tôi thôi. Có lẽ mẹ và các chị đi chùa sư nữ ở gần nhà, còn các anh thì đi chơi với bạn bè.

Ba tôi ngồi uống trà, tư lự. Suốt năm, hình như chỉ có lúc này là ông có thể được ngồi một mình. Ba tôi làm ở Tòa Hành Chánh Tỉnh, một mình ông mà nuôi cả nhà mười mấy đứa con ăn học, cho nên không có phút giây nào thực sự rảnh rỗi cho ông ngơi nghỉ. Nhà đông con nên rộng cũng thành hẹp, chẳng còn khoảng trống nào cho ba tôi ngồi thở một mình với thế giới riêng của ông. Bây giờ ông ngồi đó, nét mặt không có vẻ gì là buồn cả. Có lẽ ông đang hồi niệm những chuyện cũ xa xưa thơ mộng nào đó trong cuộc tình của ông với mẹ. Nhưng thấy ông ngồi một mình như vậy, tôi bỗng chạnh lòng, muốn khóc. Tôi bước ra an ủi ông:

“Ba ơi, sao ba không đi chùa với me hả ba? Ba mệt hả?”

“Đâu có. Ba muốn ở nhà một mình, vừa coi nhà, vừa ngắm mai. Bảy giờ ba mới đi chùa. Sao con không ngủ? Nì, ăn miếng mứt gừng cho ấm bụng.”

Tôi nhìn cành mai ba cắm trong cái bình lớn cao gần bằng tôi. Cành mai vươn lên trên, tỏa ra tứ phía, đầy sức sống. Tôi không biết thưởng thức mai; chỉ coi sự hiện diện của nó như là dấu hiệu của xuân, của Tết mà nếu không có nó thì thấy thiếu vắng vô cùng. Nhưng ba tôi thì ngồi uống trà, ngắm mai một cách lặng lẽ với vẻ đam mê thích thú. Tôi nói:

“Mai đẹp quá hả ba!”

“Ừ, đẹp. Thôi, con đi ngủ cho khoẻ mai mới chơi được.”

Tôi rút vào phòng nhưng ba cứ ngồi mãi một mình nơi phòng khách, uống trà, ngắm mai.

Cành mai rực rỡ nhất vào ngày mồng hai, như thể toàn lực của nó được phát tiết vào ngày đó để rồi tàn dần theo những ngày Tết cuối. Khách nào đến cũng trầm trồ khen cành mai đẹp. Ba tôi chỉ cười. Mai còn nở nhưng ngày mồng tám chúng tôi đã phải cắp sách trở lại trường. Tôi không muốn đi học nữa. Mai còn nở là còn Tết, sao lại phải đi học! Đi học đâu có lợi ích gì chứ! Tại sao người ta lại bày ra chuyện học hành chi cho mệt nhỉ! Hậm hực trong lòng vậy thôi chứ cũng phải đi học, không đi thì bị phạt đòn. Ba mẹ tôi không bao giờ đánh con, nhưng chị lớn của tôi sẽ chẳng bao giờ tha bầy em nghịch ngợm hay biếng học cả.

Mỗi chiều đi học về, tôi vẫn thấy cành mai đó. Dư âm ngày Tết còn đọng trong lòng tôi thì cũng còn biểu hiện nơi cành mai. Tôi sợ mất đi cành mai đẹp ấy. Bánh mứt, trái cây trên các bàn thờ đã được hạ xuống từ ba ngày đầu năm. Chỉ còn cành mai là dấu vết cuối cùng của những ngày xuân vui vẻ, hạnh phúcấm cúng trong gia đình. Mất nó đi thì tôi không còn bám víu vào đâu được nữa. Và nếu nó mất đi có nghĩa rằng ngày Tết đã thực sự qua rồi. Tôi sợ điều đó lắm.

Vậy đó mà cành mai còn nở đẹp đến rằm tháng Giêng, khi mẹ tôi lại bày cúng hoa quả bánh trái xôi chè trên các bàn thờ. Hai ngày sau đó, mẹ tôi mới sai anh tôi dẹp chậu mai. Cành mai được đem ra đầu ngõ, đặt bên cạnh thùng rác, dựa vào cây trụ điện trước nhà. Khuya hôm sau, xe rác dọn sạch. Buổi sáng ra nhìn lại, chỉ thấy một khoảng trống ở giữa thùng rác và trụ điện. Tôi buồn muốn khóc.

Có lẽ tôi là đứa trẻ ham thích cái vui trường cửu. Những cái Tết vui tươi của tuổi thơ khi trôi qua chỉ làm đậm thêm nỗi buồn trong tôi mà thôi. Nỗi buồn vì mất đi mùa xuân. Nỗi buồn vì hết Tết. Nỗi buồn vì những trò vui chơi không kéo dài. Nỗi buồn vì cành mai đẹp đã khô héo và bị xe hốt rác dọn đi. Tất cả những thứ ấy dường như đã thúc đẩy tôi, kêu gọi tôi đi tìm một mùa xuân bất diệt. Hai năm sau cái Tết ấy, tôi vào chùa xuất gia.

 

Ở chùa, một nếp sống mới mở ra. Tôi loay hoay sống theo qui củ thiền môn, sớm chiều kinh kệ công phu trên điện Phật; quét sân, nhổ cỏ, tưới cây ngoài vườn chùa; lau bàn, chùi nền trong phòng tăng… thời giờ rảnh thì học kinh, học giáo lý, v.v… đến nỗi không còn hở phút giây nào để bận tâm về xuân, về Tết, về những cuộc vui mà tôi mong là không bao giờ chấm dứt.

Ở chùa cũng có xuân, có Tết, nhưng Tết ở chùa khác lắm. Chùa đón Tết như là một ngày vía Phật Di Lặc, hay là một dịp lễ lớn mà khách thập phương đến đông, cần phải đón tiếp. Ở chùa không có “ăn” Tết. Có gì đâu mà ăn! Quanh năm suốt tháng ăn chay đạm bạc thì Tết vẫn cứ là ba bữa ăn (có khi còn đạm bạc hơn bình thường, vì mấy ngày Tết nhà bếp đâu có nấu nướng chi, chỉ lột bánh chưng bánh tét thay cơm thôi). Chùa cũng không có chuyện đánh bài đánh bạc, chơi cờ hay bầu cua cá cọp… nên cũng chẳng có gì gọi là trò vui. Chỉ có mệt mà thôi. Làm chú tiểu thì phải đứng mãi nơi chánh điện để thỉnh chuông cho khách thập phương thay nhau lễ bái, hoặc thỉnh đại hồng chung suốt ngày. Quý thầy muốn tiếng chuông chùa ngân suốt những ngày Tết, nên các chú tiểu phải thay phiên nhau thỉnh chuông liên tục. Mệt lắm. Thỉnh chuông thì phải mặc áo tràngvì vậy cũng phải giữ trang nghiêm suốt ngày. Đến tối vẫn còn người đến lễ Phật. Gần mười hai giờ khuya mới được nghỉ. Xong ba ngày Tết thì thở phào như trút gánh nặng. Không buồn gì hết. Cảm ơn Tết đã qua mau để được ngơi nghỉ.

Chùa cũng có chưng bình hoa mai lớn, đẹp lắm. Tôi nghe nhiều người khen như vậy. Nhưng tôi không có thời giờ để quan tâm đến nó và khi nó bị dẹp đi, tôi cũng không biết là vào lúc nào. Mùa xuân, theo lối đó, có thể nói là không có; hay cũng có thể nói rằng tôi đã không có mùa xuân để mà mất nữa.

Vài năm sau, trưởng thành hơn một chút, tôi được cho đi học xa, ở một Phật học viện, đến Tết mới được về chùa của thầy tổ. Đêm giao thừa, làm lễ xong, bọn tiểu chúng tôi được cho phép ngồi uống trà ăn mứt với thầy. Thầy cũng lì xì bọn tiểu chúng tôi nhưng chúng tôi không để ý là có bao nhiêu tiền trong bao lì xì cả. Chúng tôi chỉ thích được ngồi bên thầy để có được không khí ấm cúng thương yêu mà thôi. Thầy cũng như cha. Khi chúng tôi bỏ gia đình đi tu, chúng tôi chỉ có mỗi người thân thương yêu, gần gũi chúng tôi nhất là thầy. Vừa uống trà, thầy vừa kể vài câu chuyện đạo cho chúng tôi nghe. Có khi thầy đọc thơ nữa. Những bài thơ Thiền, những bài thơ xuân; trong đó có bài thi kệ nổi tiếng của Thiền sư Mãn Giác thời nhà Lý mà lúc ấy tôi mới được nghe qua lần đầu.

Thầy đọc bài âm hán-việt trước, sau đó mới đọc bài dịch nghĩa cho chúng tôi nghe:

“Xuân đi trăm hoa rụng,

Xuân đến trăm hoa cười

Trước mặt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi

Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai.” (1)

 

Nghe thầy đọc tôi rung động cả người. Tôi thấy được loáng thoáng những gì tôi đang kiếm tìm. Sau Tết, tôi rời chùa, trở lại Phật học viện để tiếp tục học. Lần này, tôi mang theo tâm tưởng cành mai của thầy tôi.

 

Tàn xuân Ất Mão (1975), khi cây mai cổ thụ tuyệt đẹp của trường tôi vừa rụng hết những cánh hoa cuối mùa, đất nước đổi thay.

Năm năm ở chùa, đến lúc đó tôi chỉ mới mười sáu tuổi và hãy còn là một chú sa-di ngây ngô chẳng hiểu gì về xã hội bên ngoài. Phật học viện giải tán. Các chú tiểu cùng trường lục tục trở về chùa cũ. Tôi ở lại trường cùng với các thầy các chú thường trú ở đây, làm ruộng, làm vườn, quyết tâm tu tập hành trì, bỏ mặc thế sự ngoài tai, đến nỗi không biết rằng chính trong thời gian đó, ba tôi bị bắt đi “học tập cải tạo” (thực ra là đi tù), và gia đình tôi, vì là vợ con của một viên chức chế độ cũ, đã bị chính quyền mới xem như là một gia đình xấu, các anh chị không thể tiếp tục dạy học, thậm chí còn không được gia nhập đội ngũ công nhân bốc vác của các xí nghiệp quốc doanh nữa.

 

***

 

Mùa xuân năm sau, tôi mới về lại chùa xưa thăm thầy và sau đó, về thăm gia đình đúng vào dịp Tết. Tôi không ngờ chưa đầy một năm sau biến cố 1975 mà gia đình tôi đã khánh tận. Nhà tôi không ăn Tết. Không có bánh mứt, hạt dưa. Không có bánh chưng bánh tét. Không có pháo. Không có bài bạc. Và dĩ nhiên là không có cả cành mai đẹp. Ba mẹ tôi cũng không có tiền để đặt vào bao lì xì đỏ cho bầy con, trong đó hãy còn bốn đứa vị thành niên. Các anh chị đã lập gia đình không về vì ở xa. Những anh chị em còn lại thì ngồi ủ rũ trong nhà y như những tội nhân bị giam chờ ngày xét xử. Ai thấy tôi về cũng vui mừng nhưng cười gượng gạo. Hình như họ không muốn một người xuất gia như tôi, dù vẫn cứ là người ruột thịt trong nhà, phải chứng kiến sự suy sụp tàn tệ của gia đình.

Tôi nhìn thảm cảnh gia đìnhsửng sốt, bàng hoàng. Ba tôi lúc đó vì bệnh quá nặng, mới được thả về từ trại tập trung cải tạo; hai chân bị sưng phù lên, chỉ ngồi một chỗ. Tôi lên gác nói chuyện với mẹ. Bà biết tôi chỉ về thăm rồi sẽ trở lại trường nên có bao nhiêu tiền trong bọc bà dúi cho tôi, sợ rằng tôi khó có dịp về lại nữa để bà có cơ hội biểu lộ sự chăm sóc của bà. Tôi nghĩ có lẽ số tiền đó bà mới kiếm được nhờ bán cái bàn hay cái tủ trong nhà để mua gạo cho cả nhà ăn cầm hơi. Nhìn quanh, tôi thấy trống trơn những vật dụng của gia đình. Tôi trả lại mẹ số tiền đó, nghẹn ngào từ giã bà. Bước xuống nhà dưới, tôi kéo hai em nhỏ ra ngoài, móc hết tiền túi (mà tôi được thầy lì xì), đưa cho hai em mang vào cho gia đình có mà ăn Tết. Sau đó, tôi vội vàng trở về chùa. Tôi không chia sẻ được niềm đau và những khó khăn của gia đình. Tôi chỉ muốn bước ra khỏi thực tế đó để khỏi phải bật khóc. Từ đó, tôi ý thức được rằng mùa xuân năm ấy đã bị kết thúc bởi một cơn bão khủng khiếp, quét sạch bao nhiêu niềm vui và lẽ sống của dân tộc, trong đó có cả mái ấm của gia đình tôi.

Tôi về chùa, ngồi một mình nơi cột cờ trước chánh điện, nhìn xuống núi. Đã mấy năm rồi, từ khi vào chùa, mùa xuân đi qua đời tôi lặng lẽ như vậy. Tôi không còn những háo hức hay tiếc nuối về sự còn mất của mùa xuân nữa. Nhưng nghe như trong lòng đau buốt mãi bởi một vết thương nào đó.

 

***

 

Tàn xuân năm 1985, khi chính quyền tổ chức linh đình lễ kỷ niệm mười năm chiến thắng của họ thì tôi đang lẩn trốn vì lệnh truy nã của công an tỉnh Đồng Nai và Sài-gòn. Cũng là lúc tàn xuân. Sự kết thúc của một cái này luôn là để mở màn cho một cái khác. Sự vui mừng của những người nọ có thể là nỗi khốn khổ của những người kia. Chỉ vài ngày sau đó, tôi bị bắt vì tội mà người ta gọi là “phản cách mạng.” Không ai ngờ một chú tiểu chỉ biết quét lá đa trong sân chùa như tôi cuối cùng lại đi vào con đường đó. Nhưng tôi biết rằng tôi đã không “phản” ai. Tôi chỉ muốn đi tìm một mùa xuân vui tươi cho đất nước quê hương tôi mà thôi.

Mùa xuân năm sau là mùa xuân đầu tiên tôi ở trong tù. Ở đây, tù nhân cũng nôn nả đón Tết. Tối ba mươi, phòng giam tổ chức uống trà ăn bánh tập thể và ca hát suốt đêm chờ giao thừa. Có kẻ hát bài “Xuân này con không về,” giọng không hay nhưng nghe truyền cảm lắm. Bài ca đánh trúng tâm trạng nhớ nhà của tù nhân khiến nhiều anh phải rưng rưng nước mắt. Tôi không khóc. Tôi nhìn ra cửa sổ và thấy cây mai tứ quí thấp thoáng trong bóng đêm. Cây mai này chúng tôi nhìn thấy hàng ngày nhưng không để ý lắm. Bây giờ, trong thời gian này, nó mới thật là giá trị. Ngày mai mồng một, mọi người sẽ nhìn thấy nó và sẽ cảm thấy “Tết.”

 

Một tuần sau Tết dương lịch của năm kế tiếp, tôi được trả tự do với một lệnh tạm tha vì bệnh nặng. Nhưng ba tôi đã mất hai ngày trước khi tôi về. Ông không còn đủ sức để chờ đợi thêm một mùa xuân không vui trên đất này nữa. Tết đó là Tết Đinh Mão, 1987, tôi có mặt ở nhà (vì lệnh tạm tha không cho tôi được về chùa, ý người cầm quyền buộc tôi phải hoàn tục). Mẹ tôi mua tặng ba tôi một cành mai nhỏ khiêm tốn, đặt trước bàn thờ. Rồi mẹ tôi rót trà cho ba vào đêm giao thừa. Tôi nhớ hai mươi năm trước, ba tôi ngồi uống trà một mình, ngắm mai. Tôi nhớ ba cho tôi miếng mứt gừng ăn cho ấm bụng, bảo tôi đi ngủ; rồi ba tiếp tục ngồi lặng lẽ uống trà, ngắm mai. Chỉ có Tết ba tôi mới được rảnh để thưởng thức giây phút một mình ấy.

 

Năm nay, 1991, xuân chưa kịp về, tôi đã nhận tin báo của mẹ tôi từ trong nước gửi ra, cho biết thầy tôi vừa mất. Tôi lặng người. Đến chùa làm lễ tưởng niệm thầy, tôi đọc một bài thơ ghi lại nhiều kỷ niệm giữa hai thầy trò. Tuổi trẻ của tôi đặt hết trong chùa nên tình cảm thầy-trò sâu đậm như tình phụ tử. Ba tôi mất, tôi đã đau khổ và khóc nấc lên khi ngồi lặng một mình. Bây giờ thầy tôi mất, tôi không khóc nên tiếng nấc như vậy, nhưng nước mắt cứ chảy mãi, chảy mãi.

Tôi nhớ cứ xuân về là thầy tự tay cắm mai cho chánh điện chùa. Nếu mai không nở kịp Tết thì thầy đem trui gốc để thúc cho mai nở. Hết xuân hết Tết rồi thầy cứ ngâm “Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết / Đêm qua sân trước một cành mai.”

 

Nhiều mùa xuân đi qua rồi mà tôi bây giờ vẫn cứ như thuở nào: vẫn là một đứa bé ham thích cái gì lâu bền, trường cửu. Tôi không mong đợi những mùa xuân tạm bợ, giả tạo. Nhưng mùa xuân cứ đến. Rộ nở để chấm dứt một cái gì và tàn phai cũng để bắt đầu cho một cái gì khác. Tất cả tàn tạ, trôi qua, mất đi. Ba tôi không còn để ngắm mai. Thầy tôi không còn để cắm mai. Và quê hương tôi đã vắng đi những mùa xuân thực sự tươi vui trong nhiều năm qua. Nhưng loáng thoáng đâu đó trong cuộc sống, tôi vẫn như nhìn thấy một nhánh mai rực rỡ, vươn lên, đầy sức sống. Như thể trong cuộc tìm kiếm của tôi, thầy tôi đã trao cho tôi một nhánh mai bất diệt mà chính trong những lúc đau thương cùng cực nhất, tôi nhìn thấy nó: không phải để thưởng thức, để được an ủi, mà là để cảm nhận rằng có một cái gì đó trường cửu, luôn có mặt trong kiếp sống phù du này.

 

California, mùa đông năm 1991.

 

 

__________________

 

(1)   Bản dịch của Ngô Tất Tố.

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9924)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9914)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20485)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10309)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9930)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10305)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9912)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34362)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9601)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8701)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9264)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11060)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8505)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9771)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9157)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20396)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19168)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8706)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8839)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12071)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9577)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22972)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8969)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9240)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9942)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9853)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10578)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10903)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12449)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9306)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9162)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9288)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10418)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21968)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22189)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16570)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9509)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10135)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8367)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8263)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9423)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8821)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8601)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12237)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9108)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9588)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8590)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9421)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8588)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8331)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8431)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10144)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23585)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9543)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9356)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 8978)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8316)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8498)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7848)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7936)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8767)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8888)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10020)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8623)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8596)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30351)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30023)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24121)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9228)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9592)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9480)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9472)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7828)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9038)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28149)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23643)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12211)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8851)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14228)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14082)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9635)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9307)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9621)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30850)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27073)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32649)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33956)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27709)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10553)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12442)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58605)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10624)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9366)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9522)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13908)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14171)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10748)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28083)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23239)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 10110)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant