Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ba Bài Kệ Của Lục Tổ Huệ Năng

24 Tháng Ba 201616:39(Xem: 19800)
Ba Bài Kệ Của Lục Tổ Huệ Năng
BA BÀI KỆ CỦA LỤC TỔ HUỆ NĂNG

Quảng Trí Nguyễn Bỉnh Quân

Ba Bài Kệ Của Lục Tổ Huệ Năng.

Bài này viết về ba bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng: bài kệ Kiến Tánh, bài kệ Vô Tướng trong Phẩm thứ ba của Kinh Pháp Bảo Đàn, và bài kệ thị tịch (kệ làm trước giờ lâm chung gọi là kệ thị tịch).

Lục Tổ Huệ Năng (638-713) là vị tổ thứ sáu của Thiền Tông Trung Quốc. Một ngày nọ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ở chùa Đông Thiền huyện Hoàng Mai xứ Kỳ Châu bảo các đệ tử làm một bài kệ kiến giải chân tâm để chọn người truyền pháptruyền y bát cho làm tổ đời thứ sáu. Nhân dịp này Thượng Tọa Thần Tú là vị giáo thọ dạy giáo pháp cho môn đồ trong chùa làm bài kệ sau đây:

   Thân thị Bồ đề thọ,
   Tâm như minh cảnh đài,
   Thời thời cần phất thức,
   Vật sử nhá trần ai.

Bản dịch của Tô Quế:

   Thân thiệt Bồ đề thọ,
   Lòng như minh cảnh đài,
   Hằng hằng lau phủi sạch,
   Chớ để vướng trần ai.

Bồ đề thọcây Bồ đề. Bồ đề còn chỉ tánh giác ngộ.

Minh cảnh đài là đài gương sáng. Minh cảnh còn chỉ tâm.

Khi ấy ngoài Ngũ Tổ ra chỉ có ngài Huệ Năng (lúc đó còn là một cư sĩ làm công việc giã gạo ở nhà bếp sau chùa) hiểu rằng bài kệ ấy chưa thấy Bổn Tánh. Lành thay chính bài kệ ấy lại làm xúc tác cho Huệ Năng ứng khẩu đọc bài kệ Kiến Tánh, nhờ quan Biệt Giá Trương Nhật Dụng viết giùm lên tường như sau:

   Kệ Kiến Tánh
   Bồ đề bổn vô thọ,
   Minh cảnh diệc phi đài,
   Bổn lai vô nhất vật,
   Hà xứ nhá trần ai?

Bản dịch của Tô Quế:

   Bồ đề đâu phải thọ,
   Minh cảnh có chi đài,
   Xưa nay không một vật,
   Nào chỗ vướng trần ai?

Nhờ bài kệ Kiến tánh này mà Huệ Năng được Ngũ Tổ truyền y bát cho làm Lục Tổ.

Thế giới đa đoan của vật chấttư tưởng thì sanh diệt biến đổi vô thường làm cho cõi đời vất vả gian truân. Trần ai là cõi đời vất vả gian truân. Tâm dính cảnh (tâm nhiễm ô vì vướng trần ai) thì gọi là còn ở bờ sanh diệt bên này. Tâm lìa cảnh (tâm thanh tịnh chẳng bợn trần ai) thì gọi là qua bờ bên kia. Tâm có thanh tịnh thì Trí Huệ mới phát sinh ra nhiều diệu dụng được.

Lục Tổ Huệ Năng giảng là để qua bờ bên kia cần dùng pháp "Đại Trí Huệ đáo bỉ ngạn" (người Tàu dịch từ tiếng Phạn "Ma ha Bát nhã Ba la mật đa"). Ma ha là lớn, diễn tả tâm lượng trống không thanh tịnh như hư không bao la (tâm thể trong sạch không có phiền não). Bát nhãtrí huệ niệm niệm chẳng mê, lui tới tự do, tâm thể trong sạch không chỗ nào trở ngại (trí huệ sáng suốt không mê muội không nhiễm ô). Trí Bát nhã là do Bổn Tánh mình sinh ra. Ba la mật đa là qua bờ bên kia thành Phật đạo (giác ngộ, an lạc). Bờ bên kia (bỉ ngạn) còn gọi  là Niết Bàn ( Niết Bàn diệu tâm). Nói Phật tại tâm vì Bổn tánh là Phật (1).

Xem bài kệ của Thần Tú thì hai câu đầu chấp thân như cây Bồ đề, chấp tâm như đài gương sáng tức là còn trước tướng không phải là  ý chỉ Ma ha. Hai câu sau cho thấy Thần Tú còn tốn nhiều công phu để dẹp dục dứt tình, thân căn chưa thanh tịnh nên Ngũ Tổ nói là chưa thấy Bổn tánh, chưa vào đặng cửa Đạo và không truyền y bát cho Thần Tú (theo Kinh Pháp Bảo Đàn).

Xem bài kệ của Huệ Năng,  lúc đó ngài đã minh tâm kiến tánhthân căn thanh tịnh không còn trước tướng nên không cầu cho thân như cây Bồ đề tâm như đài gương sáng giống Thần Tú. Vô trước nên tâm không bị ô nhiễm, không sanh vọng tâm.  Bổn lai tự tánh (còn gọi là Bổn lai Diệu giác Chơn tâm) vốn trong sạch, trống không. Bổn lai tự tánh không phải là một vật nên không thể đem ra lau chùi. Câu "Bổn lai vô nhất vật"  hay "xưa nay không một vật" là chỉ tâm lượng bao la không bị giới hạn, không bị mắc kẹt trong thế giới nhị nguyên của lành, dữ, thiện, ác, yêu, ghét, có, không... Còn "Hà xứ nhá trần ai" là chỉ tâm thể thanh tịnh không vướng trần ai.

Khi nghe Ngũ Tổ đọc tới câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" từ Phẩm "Trang Nghiêm Tịnh Độ" trong kinh Kim Cang chợt Huệ Năng ngộ được rằng tánh người vốn sẵn thanh tịnh, miễn là đừng sanh tâm chấp trước vào đâu cả (không chấp vào không, không chấp vào có, không chấp vào pháp) thì tâm hằng hằng thanh tịnh (2).

Theo Lục Tổ người học Tọa Thiền trước tiên phải thấy gốc tánh thanh tịnh, không bàn chuyện thị phi. Ngài còn chỉ rõ tập trụ tâm quán tịnh ngồi mãi không nằm để mong cầu đạo giác ngộsai lầm (3).

Ngài dạy đệ tử khi kiến tánh rồi thì phải khởi tu theo hạnh Bát Nhã. Vì nhất thời chưa thể trừ hết tập khí phiền não ô nhiễm lâu ngày nên người mới đốn ngộ (sơ cơ) cần tu theo hạnh Bát nhã chẳng ngừng trừ đi những lòng cố chấp để được thông suốt không ngăn ngại (triệt ngộ) (4).

Trên đường tu nếu tự tâm mình thường sanh trí huệ chẳng lìa tự tánh và khi gặp mọi cảnh giới tự mình có thể nhìn thấu để hóa độ tâm chúng sanh (tức là bỏ thói hư tật xấu và tâm bất thiện) nhà Thiền gọi là tự tánh tự độ (5).

Thiền phái Huệ Năng gọi là đốn ngộ do minh tâm kiến tánhnhập đạo để phân biệt với đường lối tiệm tu của Thần Tú vốn câu nệ nhiều về hình thức mà chưa minh tâm kiến tánh

Lục Tổ nói: 
" Phàm phu tức là Phật;
 Phiền não tức là Bồ đề.
niệm trước còn MÊ, tức là phàm phu, niệm sau được NGỘ, tức là Phật; niệm trước nương cảnh, tức là phiền não, niệm sau lìa cảnh, tức là Bồ đề."
(Theo phẩm Bát Nhã trong Kinh Pháp Bảo Đàn bản dịch của Tô Quế.)

Người trong thế giới Ta Bà thường bị phiền não, khó lìa sanh tử (sanh tử là chỉ khổ đau). Nếu chìm đắm trong tham, sân, si và không bỏ được những thói quen xấu thì ắt là nhiều phiền não. Then chốt của đốn ngộ chính là phải nắm bắt được thiền cơ chớp nhoáng để chuyển mê khải ngộ.  Người trí biết dùng phương tiện thiện xảo chuyển hoá được những khó khăn của mình làm hết phiền não hết khổ đau nên có câu: " Phiền não tức Bồ đề, Sanh tử tức Niết bàn."

Ghi chú: phương tiện thiện xảo là những phương pháp lành và khéo dựa theo chánh pháp để độ chúng sanh tùy theo căn cơhoàn cảnh của mỗi người.

Lục Tổ dạy đừng nghĩ đến cả thảy lành dữ tự nhiên tâm thể thanh tịnh, rồi diệu dụng vô cùng. "Cả thảy lành dữ đừng nghĩ đến" tức là tâm lượng bao la không mắc kẹt trong tư tưởng nhị nguyên chứ không phải là không biết gì cả.  Người tu tâm khi thấy tâm vừa khởi phân biệt thiện ác, thị phi, tham, sân, si mà biết buông bỏ (không theo) tâm phân biệt nghĩ lường này thì tự nhiên vào được tâm thể thanh tịnh, sanh ra trí huệ Bát nhã đầy diệu dụng (6).

Lục Tổ còn dạy muốn tu hành thì ở nhà tu cũng đặng, chẳng cần ở chùa. Người tu tại gia cũng có thể theo lời dạy của Lục Tổ dùng tánh mình mà độ lấy mình. Sau đây là kệ Vô Tướng ngài làm để đại chúng y theo đó mà tu tại gia trong Phẩm Quyết Nghi (Phẩm thứ ba) của Kinh Pháp Bảo Đàn theo dịch giả Tô Quế:

   Kệ Vô Tướng
   Lòng thẳng lo chi giữ giới,
   Nết ngay nào dụng tu thiền.
   Ơn kia khá nuôi cha mẹ,
   Nghĩa ấy hãy thương dưới trên
   Nhường thì lớn nhỏ hoà thuận,
   Nhịn lại các dữ dẹp yên.
   Bằng biết cưa cây lấy lửa,
   Bùn lầytrổ bông sen.
   Đắng miệng mới là lương dược,
   Trái tai hẳn thiệt trung nghiên.
   Chừa lỗi sanh ra trí huệ,
   Che chở lòng dạ đâu hiền.
   Hằng ngày mở lòng rộng lượng,
   Nên đạo đâu phải thí tiền.
   Bồ đề tự lòng tìm thấy,
   Nhọc chi ngoài tánh cầu huyền. (*)
   Nghe giảng tu hành theo đó,
   Thiên đường mắt thấy hiện tiền.

Đại ý: Nếu ai bền chí tu hành như biết cưa cây lấy lửa thì tu tại gia cũng giác ngộ được. Lòng thẳng là tâm bình đẳng không có tham sân si cũng giống như là trì giới rồi đó; nết ngay là tâm ngay thẳng không có vọng tưởng phiền não tức là thiền rồi đó. Phải hiếu dưỡng cha mẹ, kính trên nhường dưới, nhẫn nhịn xử thế. Người tại gia vẫn tu tâm dưỡng tánh được. Nếu biết sửa đổi các lỗi lầm của mình ắt sanh trí huệ. Người tu hành hằng ngày nên mở lòng rộng lượng độ tất cả chúng sanh chứ không phải cứ bố thí tiền là thành đạo. Muốn giác ngộ phải nhờ tự tánh tự độ mới minh tâm kiến tánh được chứ đừng hướng ngoại cầu huyền, đừng mê tín dị đoan. (Sách "Tu Tâm Dưỡng Tánh" giảng: Hàng Phật tử phải dẹp trừ "tà kiến"; như thế mới gọi là "Tu Tâm.") Biết y theo lời giảng này mà tu hành thì thiên đường (ý nói cõi an lạc, tự tánh thanh tịnh) sẽ hiện tiền.

Thật là Phật pháp bất ly thế gian giác!  Đạo Phật là đạo của Từ BiTrí Tuệ. Nếu người tại gia biết lấy tự tánh tự độ, bền chí tu hành theo bài kệ Vô Tướng này thì ví như bông sen mọc ở chốn bùn lầy.

Ghi chú: (*) Xem lời Huệ Năng chỉ giáo cho Huệ Minh trong Phẩm Hành Do trong sách Pháp Bửu Đàn Kinh của Minh Trực Thiền Sư: "Nếu ông trở soi vào trong (hồi quang nội chiếu), thì thấy chỗ mật nhiệm ấy ở bên ông." 

Đây là chủ trương tu tâm dưỡng tánh để giác ngộ chứ không mê tín không cuồng tín. Hồi quang nội chiếu để phá những vọng căn vọng trần thì thấy chỗ mật nhiệm ấy là Niết Bàn diệu tâm.

Tiếp theo đây xin bàn tới bài kệ thị tịch Lục Tổ làm khi về thăm chùa Quốc Ân ở Tân Châu là quê hương của ngài trước khi viên tịch ở đó. 

   Kệ Thị Tịch
   Ngột ngột bất tu thiện
   Đằng đằng bất tạo ác
   Tịch tịch đoạn kiến văn
   Đảng đảng tâm vô trước (7).

Có thể dịch "bất tu thiện" là "không chấp thiện" theo tinh thần phá chấp ở phẩm "Trang Nghiêm Tịnh Độ" trong kinh Kim Cang. Tôi tham khảo Từ Điển Thiều Chửu và xin tạm dịch lại bài kệ này như sau:

   Kệ Thị Tịch
   Ngơ ngơ không chấp thiện
   Lâng lâng không tạo ác
   Lặng lặng xả thấy nghe
   Thênh thênh chẳng bận lòng.

Ngơ ngơ không chấp thiện nghĩa là tu hànhkhông chấp bề ngoài, dùng tâm thanh tịnh mà tu các pháp lành (8).

Lâng lâng không tạo ác nghĩa là thản nhiên thư thái, thân khẩu ý trong sạch không nghĩ không làm chuyện tà ác (9).

Hai câu trên là chỉ phép vô niệm.

Không chấp thiện không tạo ác là tánh không hai là Phật tánh, nghĩa là tánh mình chẳng động nơi các cảnh giới lành, dữ; chẳng nghĩ lành chẳng nghĩ dữ, tự tại, thư thái không có gì phải lo nghĩ, phiền não. Mình thấy cả thảy các pháp thiện ác mà lòng chẳng nhiễm tới, không động tâm cũng chẳng còn tạp niệm thì giống như thiền định (10).

Lặng lặng xả thấy nghe: buông xả các căn, trần, thức thì được thanh tịnh (phép vô tướng). Ví dụ: dù thấy cảnh ăn chơi sa đọa cũng không hùa theo, không bắt chước, dù nghe ngoại đạo chỉ trích hay chê bai cũng không để tâm, không tranh luận hơn thua. Người tu hành lẳng lặng xả hết tà kiến tà văn nên dù ở đâu thân tâm cũng thường an lạc.

Ghi chú: Sáu căn gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đối tượng tiếp xúc của sáu căn là sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu căn làm cơ sở tiếp xúc với sáu trần để sinh ra sáu thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức là nói chung cho ý niệmtư tưởng

Theo âm thanh sắc tướng là theo tướng bên ngoài. Dùng phép vô tướng không phóng tâm theo âm thanh sắc tướng bên ngoài thì tự nhiên giữ được giới thanh tịnh. "Đoạn" là buông bỏ không bám víu, không phân biệt, không tranh luận, không tranh giành tức là "Xả" trong Tứ vô lượng tâm. (Tứ vô lượng tâm gồm có: Từ, Bi, Hỷ, Xả nhằm đem lại hạnh phúc cho chúng sanh.)

Sách "Tu Tâm Dưỡng Tánh" của Thích Thiện Hoa giảng thêm: "Cái xả ở đây không phải chỉ là sự tha thứ, khoan dung đối với những ai đã làm ta đau khổ, không phải chỉ là sự vứt bỏ ra khỏi lòng ta những bực bội, xót đau mà người khác đã gieo vào lòng ta; không phải chỉ là bỏ qua những gì trái tai gai mắt đối với ta. Xả ở đây có tánh cách tuyệt đối, nghĩa là bỏ ra ngoài tất cả, không chấp trước một cái gì, dù là vật chất hay tinh thần, dù là xấu xa hay tốt đẹp, dù là ở địa vị phàm phu hay đã chứng được quả thánh. Nếu còn chấp trước nắm giữ một cái gì là còn cái ngã, mà còn cái ngã là còn tất cả, nghĩa là còn chưa giải thoát.

Nói như thế không có nghĩa là người tu hành phải nhắm mắt bịt tai để không thấy, không nghe gì cả; không phải là dửng dưng trước mọi sự mọi vật như đá, như gỗ, không phải là không làm gì cả, đứng khoanh tay như tượng đá. Không! Người theo hạnh Xả vẫn thấy, vẫn nghe, nhưng không đắm sắc, mê thanh, không để cho lòng mình vương vấn vào cái thấy cái nghe ấy; người theo hạnh Xả vẫn làm việc, làm việc nhiều hơn ai cả, nhưng vẫn không thấy mình có làm gì cả, nhất là khi làm được những việc có kết quả tốt đẹp."

Thênh thênh chẳng bận lòng: tâm lượng rộng lớn, không vọng tưởng chấp trước, đến khi không còn  phiền não chướngsở tri chướng là có được trí huệ Bát Nhã (phép vô trụ). 

Phiền não chướng bao gồm: tham, sân, si, mạn nghi, ác kiến làm che lấp Chơn Tánh.
Sở tri chướng là những sự hiểu biết không chân thật làm che lấp trí huệ Bát Nhã. Ví dụ: tà thuyết, tà kiến, lòng cố chấp đều thuộc về sở tri chướng.
Không sanh tâm trụ nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì thênh thênh chẳng bận lòng.

Muốn qua được bờ bên kia  không phải chỉ nghĩ tới bàn tới là đủ mà còn phải biết nhờ vào tự tánh tự độ. Trong bài kệ cuối cùng này Lục Tổ nhắc nhở đệ tử nhờ vào tự tánh tự độ mà tiếp tục tu hành theo hạnh Bát Nhã. Không chấp thiện và không tạo ác: Tự tánh không hai tướng thiện ác, không lòng các việc trần lao ấy là vô niệm; dù thấy cả thảy pháp thiện ác mà lòng chẳng nhiễm tới bởi thế Chơn Tánh bao giờ cũng tự tại. Thường buông xả thấy nghe, ngoài lìa cả thảy tướng ấy là vô tướng; lấy vô tướng làm thể thì cái thể của các pháp tự nhiên thanh tịnh. Tâm thường thanh tịnh không tranh giành không thù hận ấy là vô trụ; lấy vô trụ làm gốc thì khỏi bị phiền não buộc ràng, lúc đó trí tuệ Bát Nhã hiện ra (11).

Lục Tổ nhờ nghe giảng Kinh Kim Cangngộ đạo nên dạy đệ tử phải trì tụng Kinh Kim Cang (12). Tinh hoa của Kinh Pháp Bảo Đàn không tách rời nội dung Kinh Kim Cang. Trong phẩm "Trang Nghiêm Tịnh Độ" trong Kinh Kim Cang có câu "Ưng Vô Sở trụ, nhi sanh kỳ tâm" tức là Vô Trụ. Còn " Lặng lặng xả thấy nghe" (Vô Tướng) tức là ý giống như bài kệ phá chấp trong phẩm "Pháp Thân Phi Tướng" trong Kinh Kim Cang:

   Nếu thấy ta bằng sắc tướng 
   Nghe ta bằng âm thanh
   Người này đi đường tà
   Không thấy được Như Lai.

Ngoài ra có thể xem thêm phẩm " Pháp Nầy Bình Đẳng Không Có Cao Thấp" (tức là: "Tịnh Tâm Hành Thiện") trong sách "Kinh Kim Cang Dịch & Giảng của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa" để hiểu ý Lục Tổ nói "Ngơ ngơ không chấp thiện" là dạy phải dùng trí huệ Kim Cang Bát Nhã phá trừ các chấp ngã chấp pháp mà tu các pháp lành. ("Pháp Nầy" chỉ Bổn Tánh.)

Sau khi Lục Tổ được giao phó y pháp chính ngài cũng nhờ vào tự tánh tự độ, dùng Ma ha Bát Nhã Ba la mật đa tức là Đại Trí Huệ qua được bờ bên kia vào cõi Phật thanh tịnh quang minh. Người đầu tiên được ngài truyền pháp đốn ngộHuệ Minh; ngài dạy Huệ Minh không để niệm thiện ác nhị nguyên làm khởi phiền não để thấy tự tánh thanh tịnhbước đầu kiến tánh, sau đó lại dạy Huệ Minh hồi quang nội chiếu tức là lấy tự tánh tự độ, tức là sau khi kiến tánh thì phải khởi tu, tự mình tu tâm dưỡng tánh mà không để ý đến chuyện thị phi ở đời nữa. Thuở sinh tiền Lục Tổ từng nhiều lần thí pháp cho đủ mọi hạng người và làm nhiều bài kệ dạy đệ tử tu hành còn lưu lại trong Đàn Kinh được giải thích trong các bản dịch của HòaThượng Tuyên HóaHòa Thượng Minh Trực Thiền Sư. Tu tâm dưỡng tánh theo Đàn Kinhphù hợp với tinh thần phá chấp của kinh Kim Cang.

Chú thích:
(1) Xem Phẩm Bát Nhã trong Lục Tổ Đàn Kinh của Hòa Thượng Tuyên Hóa:
"Chư Thiện tri thức! Ma ha Bát nhã Ba la mật là tiếng Phạn, có nghĩa là đại trí huệ đáo bỉ ngạn. Ấy là do nơi tâm làm, chớ chẳng phải do niệm nơi miệng. Miệng niệm và tâm không làm theo, tức như huyễn hóa, sương chớp; nếu miệng niệm, tâm hành theo thì tâm và miệng hiệp nhau. Bổn tánh là Phật, lìa tánh thì không có Phật nào khác.

...Tự tánh có thể bao hàm hết muôn pháp, ấy gọi là lớn. Muôn pháp đều ở trong tự tánh mỗi người. Nếu thấy cả thảy các điều dữ cùng các điều lành của người, mà chẳng chấp chẳng bỏ, cũng không nhiễm trước, tâm như hư không, ấy gọi là lớn, cho nên gọi là Ma ha.

...Tâm lượng quảng đại, châu biến pháp giới, có công dụng hiểu biết rõ ràng. Tâm lượng khi ứng dụng ra, tức biết hết tất cả sự vật. Tất cả tức quy về một, một tức gồm tất cả, tới lui tự tại, tâm thể suốt thông, không ngưng trệ, tức là Bát nhã vậy.

...Sao gọi là Ba la mật? Ấy là tiếng Tây Thiên Trúc, nhà Đường gọi là đáo bỉ ngạn, nghĩa là ra khỏi sự sanh diệt. Tâm dính cảnh, sự sanh diệt dấy lên, như nước nổi sóng, tức là thử ngạn (bờ bên này). Còn tâm lìa cảnh, không có sự sanh diệt, như nước thường lưu thông, tức gọi là bỉ ngạn (bờ bên kia). Cho nên gọi là Ba la mật.

...Các ngươi phải dùng đại trí huệ để phá tan năm uẩn và các sự phiền não trần lao. Tu hành như thế ấy, chắc thành Phật đạo. Phải biến ba độc thành Giới, Định, Huệ."

(2) Xem Phẩm Tự Tự (phẩm thứ nhứt) trong Kinh Pháp Bảo Đàn của Tô Quế:
"Huệ Năng nầy liền hội được ý Tổ, nên khi trống trở canh ba bèn vào thất. Tổ lấy áo cà sa choàng đắp cho Huệ Năng nầy, không cho người thấy , lại vì Huệ Năng mà nói kinh Kim Cang. Vừa tới câu "Ưng Vô Sở trụ, nhi sanh kỳ tâm", nghĩa là: Ưng không chỗ trụ, mà sanh thửa lòng.
Huệ Năng nghe qua câu đó liền ngộ, cả thảy muôn pháp chẳng lìa nơi tánh mình , bèn bạch với Tổ rằng :
Chẳng dè tánh mình vốn sẵn thanh tịnh;
Chẳng dè tánh mình vốn chẳng sanh diệt;
Chẳng dè tánh mình vốn sẵn đủ cả;
Chẳng dè tánh mình vốn không động lay;
Chẳng dè tánh mình hay sanh muôn pháp."

(3 Xem các Phẩm Tọa Thiền, Đốn TiệmĐịnh Huệ trong Pháp Bửu Đàn Kinh của Minh Trực Thiền Sư:
Phẩm Tọa Thiền:
"Pháp môn Tọa Thiền nầy nguyên là chẳng trước tâm (dính níu theo tâm), cũng chẳng trước tịnh (dính níu theo cảnh tịnh), cũng chẳng phải chẳng động."
"Chỉ bởi vọng niệm nên Thể Chơn như mới bị lấp che. Nếu khôngvọng tưởng thì tánh tự nhiên thanh tịnh (trong sạch)."
"Chư Thiện trí thức, người mê muội, thân tuy chẳng động mà khi mở miệng ra, thì nói chỗ phải quấy, hay dở, tốt xấu của người, thế làm trái nghịch với Đạo. Bằng trước tâm chấp tịnh, tức là làm ngăn lấp cái Đạo vậy."
Phẩm Đốn Tiệm:
"Sư nói: "Trụ tâm quán tịnh, ấy là bịnh, chẳng phải Thiền. Thường ngồi là câu thúc cái thân, đối với Đạo lý có ích chi đâu!"
Phẩm Định Huệ:
"Bằng nói rằng thường ngồi chẳng động, thì cũng như Xá Lợi Phất ngồi im lặng trong rừng, mà bị Duy Ma Cật quở vậy.
Chư Thiện trí thức, lại có người dạy ngồi xem cái tâm, quán tưởng tâm cảnh vắng lặng, ngồi yên chẳng dậy, bảo y theo đó mà lập công phu. Người mê chẳng hiểu, cố chấp làm theo, rồi thành điên dại. Số người lầm như thế chẳng phải là ít. Truyền dạy nhau như vậy, thiệt là lầm to!"

(4) Xem trong Phẩm Bát Nhã bản dịch của Tô Quế: 
"Miệng chớ trọn ngày luống nói KHÔNG, mà trong lòng chẳng tu theo hạnh BÁT NHÃ ấy, giống như một kẻ phàm nhơn kia, tự xưng mình là vị Quốc vương, mà trót chẳng làm đặng: ấy chẳng phải đệ tử của ta.
...Bằng tỏ ngộ được PHÉP ĐỐN GIÁO này, thì không chấp giữ sự tu theo bề ngoài, chỉ nơi lòng mình hằng dấy chỗ thấy chánh; những điều phiền não, trần lao thường không nhiễm được, mới gọi là KIẾN TÁNH.
Thiện tri thức! Trong ngoài chẳng ngừng, lui tới thong thả, hay trừ những lòng cố chấp, thông suốt không ngăn ngại. Tu được hạnh này thì theo kinh BÁT NHÃ, vốn không sai khác."

(5) Xem Phẩm Hành Do  và Phẩm Sám Hối trong Lục Tổ Đàn Kinh của Hòa Thượng Tuyên Hóa.
Phẩm Hành Do:
Tổ đưa ta thẳng đến trạm Cửu Giang, bảo ta lên thuyền, rồi Ngũ Tổ tự cầm chèo mà đưa. 
Huệ Năng nầy nói: “Thỉnh Hòa Thượng ngồi, để cho đệ tử chèo mới đúng.” 
Ngũ Tổ nói: “Ta độ ngươi mới phải.” 
Huệ Năng nầy nói: “Lúc mê thì Thầy độ, ngộ rồi thì tự độ.” “Độ” tuy tên là một nhưng chỗ dùng không đồng. Huệ Năng nầy sanh nơi biên địa, giọng nói không đúng, nhờ Thầy truyền pháp, nay đã được tỏ ngộ, thì chỉ nên ngay tánh mình mà độ mình mới phải.” 
Phẩm Sám Hối:

"Chư Thiện tri thức! Chúng sanh trong tâm mình tức là: lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các tâm nầy đều gọi là chúng sanh. Mỗi người phải tự tánh tự độ, mới gọi là thiệt độ.
Sao gọi dùng tánh mình mà độ lấy mình (tự tánh tự độ)? Nghĩa là các chúng sanh trong tâm là tà kiến, phiền não, ngu si, nên phải đem chánh kiếnhóa độ các tánh xấu ấy. Đã có sẵn chánh kiến thì phải dùng trí Bát nhã để đánh dẹp các chúng sanh ngu si, mê vọng. Mỗi mỗi mình phải độ lấy mình: Tà đến lấy chánh độ; mê lại, dùng ngộ mà độ; ngu đến, lấy trí mà độ; dữ lại dùng lành mà độ. Độ như thế, mới gọi là thiệt độ.

Lại nữa, phiền não vô tận thệ nguyền đoạn, nghĩa là đem Trí Bát nhã của tánh mình mà dứt bỏ lòng nghĩ tưởng giả dối. Thế mới gọi là thiệt độ.
Lại còn, pháp môn vô lượng thệ nguyền học, nghĩa là tự mình phải thấy tánh, thường thực hành chánh pháp. Thế mới gọi là thiệt học.
Phật Đạo vô thượng thệ nguyền thành, tức thường hay hạ tâm (khiêm cung), làm việc chơn chánh, lìa mê lìa giác, thường sanh Bát nhã, bỏ chơn trừ vọng, tức khắc thấy tánh Phật. Ấy là nghe nói pháp rồi, liền thành Phật đạo. Thường thường tưởng đến việc tu hành tạo nên pháp nguyện lực vậy."

(6) Xem Phẩm Hộ Pháp trong Kinh Pháp Bảo Đàn bản dịch của Tô Quế nói về tánh Bổn lai: " ...Ngươi bằng muốn biết chỗ tâm yếu, thì cả thảy lành, dữ đều chớ nghĩ đến, tự nhiên vào được cái tâm thể thanh tịnh, trong trẻo bằng lặng , rồi diệu dụng nhiều như cát sông Hằng." 

(7) Tô Quế dịch như sau:
   Trơ trơ không tu lành;
   Hằm hằm chẳng làm ác;
   Lặng lặng dứt thấy nghe;
   Thinh thinh lòng không chác.
Tôi tra cứu Từ Điển Thiều Chửu để tạm dịch lại bài kệ thị tịch. Đằng đằng tôi dịch là lâng lâng, giống ý chữ dùng trong câu thơ " Đằng đằng thanh mộng nhiễu yên ba " của Nguyễn Trãi nghĩa là giấc mộng thanh lâng lâng xoay vần trên khói sóng.
Tinh thần vô trước hay phá chấp: Tinh thần không câu chấp, không nô lệ vào các hình thức, ngôn ngữ

(8) Xem Phẩm Bát Nhã trong Pháp Bửu Đàn Kinh của Minh Trực Thiền Sư:
"Chư Thiện trí thức, cả thảy trí Bát Nhã đều do trong tánh mình mà sanh, chớ chẳng phải do nơi ngoài mà vào. Chớ lầm dùng cái ý thức. Ấy gọi là Chơn tánh tự dụng ...
...Cái Trí Bát Nhã vốn không lớn nhỏ, chỉ vì cái tự tâm của chúng sanh mê ngộ chẳng đồng mà thôi.  Lòng mê chỉ thấy bề ngoài, tu hành tìm Phật mà chưa tỏ sáng Bổn Tánh của mình, tức là người tiểu căn.  Hiểu rõ pháp Đốn Giáo tu hànhkhông chấp bề ngoài, trong tâm mình thường khởi chánh kiến, những sự phiền lao thường chẳng nhiễm Bổn tâm mình tức là người thấy tánh."

(9) Xem lời giảng của Hòa Thượng Tuyên Hóa ở Phẩm Nghi Vấn trong Lục Tổ Đàn Kinh:
"Thập ác gồm ba điều ác của thân (sát sanh, trộm cắp, tà dâm), ba điều ác của ý (tham, sân, si 'tà kiến') và bốn điều ác của khẩu, là những điều tệ ác nhất tức ỷ ngữ (nói lời ô trọc không thanh tịnh, chuyên nói về vấn đề nam nữ); vọng ngôn: nói láo, đặt điều; ác khẩu: tức chửi mắng người; lưỡng thiệt: chuyên bới móc, ly gián, nói chuyện thị phi."

(10) Xem Phẩm Tự Tự, Phẩm Bát Nhã, Phẩm Diệu Hạnh và Phẩm Sám Hối trong Kinh Pháp Bảo Đàn của Tô Quế:
Phẩm Tự Tự:
" cái tánh không hai tức là Phật tánh."
Phẩm Bát Nhã:
" Dẹp bỏ lòng tà quấy,
 Đánh phá phiền não ấy.
 Ghét thương chẳng bận lòng,
 Giuỗi cẳng nằm an nghỉ. "
(Có thương ghét thì có phiền não, vọng niệm tức là chưa giải thoát sanh tử; điều này sẽ làm đạo tâm suy sụt.)
Phẩm Diệu Hạnh:
"Sư tỏ cùng chúng rằng: cácThiện tri thức! Sao gọi là TOẠ THIỀN? Trong pháp môn ấy, không lấp không ngăn, ngoài nơi cả thảy cảnh giới lành, dữ mà chỗ TÂM NIỆM chẳng dấy tưởng, ấy gọi là TOẠ. Trong thấy tánh mình chẳng động, ấy gọi THIỀN.
Thiện tri thức! Sao gọi là THIỀN ĐỊNH? Ngoài lìa tướng là THIỀN, trong chẳng loạn là ĐỊNH. Bằng ngoài còn trước tướng, thì trong lòng ắt loạn; bằng ngoài lìa tướng thì trong lòng ắt chẳng loạn. Gốc tánh mình TỰ TỊNH TỰ ĐỊNH; chỉ vì thấy cảnh, tưởng cảnh mà phải rối loạn. Ví bằng thấy các cảnh mà lòng chẳng rối loạn ấy mới thiệt là CHƠN ĐỊNH vậy.
Thiện tri thức! Ngoài lìa TƯỚNG tức là THIỀN, trong chẳng loạn tức là ĐỊNH; ngoài THIỀN trong ĐỊNH, ấy là THIỀN ĐỊNH. Trong kinh BỒ TÁT GIỚI có câu rằng: " Gốc tánh ta vốn sẵn thanh tịnh".
Thiện tri thức! Trong niệm niệm mình, mình thấy gốc tánh thanh tịnh, mình tu, mình hành, mình thành PHẬT ĐẠO."
PHẨM SÁM HỐI:
"...nơi lòng mình không theo chỗ leo chuyền, chẳng nghĩ lành, chẳng nghĩ dữ, tự tại không chỗ ngăn trở, danh là GIẢI THOÁT HƯƠNG."

(11)  Xem bản dịch của Tô Quế.
Phẩm Bát Nhã: "Sao gọi là VÔ NIỆM? Bằng thấy cả thảy phép, mà lòng chẳng nhiễm tới, ấy là VÔ NIỆM; dùng tới thì khắp cả thảy chỗ, cũng chẳng chấp cả thảy chỗ. Nhưng sạch lòng mình, khiến SÁU THỨC ra SÁU CỬA, ở trong SÁU TRẦN không nhiễm không xen, thì tới lui thong thả, thông dùng không ngăn trở, tức là BÁT NHÃ TAM MUỘI vậy; tại mình GIẢI THOÁT gọi là HẠNH VÔ NIỆM. Bằng trăm việc chẳng nghĩ đến, hằng khiến dứt niệm, tức là PHÁP PHƯỢC (Phép trói) gọi là BIÊN KIẾN (thấy một bên)."
Phẩm Định Huệ: "...VÔ TRỤ ấy: là bổn tánh của người thế gian, lành, dữ, tốt, xấu, cho đến kẻ thù, người thân, cùng  khi lời nói xúc phạm, dối giành, đều coi như không có, chẳng lo trả oán hại người. Trong lúc niệm niệm chẳng nhớ cảnh trước. Ví bằng trước niệm, nay niệm, sau niệm; niệm niệm nối nhau chẳng dứt, gọi là trói buộc. Nơi trên các pháp, niệm niệm chẳng trụ, tức là không trói buộc vậy. Ấy thiệt lấy VÔ TRỤ làm gốc.
Thiện tri thức! Ngoài lìa cả thảy TƯỚNG gọi là KHÔNG TƯỚNG. Hễ lìa được tướng thời pháp thể thanh tịnh, ấy thiệt lấy VÔ TƯỚNG làm vóc.
Thiện tri thức! Gồm cả các cảnh, lòng chẳng nhiễm tới mới rằng VÔ NIỆM...
...Thiện tri thức! Sao gọi lập VÔ NIỆM làm chủ? Chỉ vì người mê, miệng nói thấy tánh theo TRÊN cảnh mà có niệm, trên chỗ niệm mà dấy lên thấy tà, cả thảy trần lao vọng tưởng theo đó mà sanh ra; tánh mình vốn không một pháp khá đặng. Nếu có chỗ đặng, thì chạ nói điều phước họa, tức là trần lao tà kiến, cho nên PHÁP MÔN này lập KHÔNG NIỆM làm chủ.
Thiện tri thức!
KHÔNG ấy, KHÔNG việc gì?
NIỆM ấy, NIỆM vật gì?
KHÔNG ấy : là KHÔNG HAI TƯỚNG, KHÔNG LÒNG các việc trần lao.
NIỆM ấy: là NIỆM BỔN TÁNH CHƠN NHƯ, tánh chơn như tức là cái vóc của sự niệm, mà niệm tức là chỗ dụng của tánh chơn như. Chơn như tự tánh mình dấy niệm, chẳng phải mắt, tai, mũi, lưỡi hay niệm được; chơn như có tánh, để dùng dấy niệm...
... Thiện tri thức! Chơn như tự tánh mình khởi niệm, sáu căn tuy có thấy, nghe, rõ, biết, muôn cảnh chẳng nhiễm, mà tánh chơn thường tự tại."
Tra Từ điển Thiều Chửu chữ Chơn như:
如 - như: Nguyên như thế, trong kinh Phật cho rằng vẫn còn nguyên chân tính không nhiễm trần ai là như.
Chơn như là chỉ cái đạo thật đời đời không đổi. 

(12) Xem Phẩm Bát Nhã trong Kinh Pháp Bảo Đàn của Tô Quế:
"...niệm niệm chẳng MÊ, hằng theo TRÍ HUỆ, tức là HẠNH BÁT NHÃ.
...muốn vào đến PHÁP GIỚI rất sâu thâm cùng TRÍ BÁT NHÃ chánh định, phải tu theo HẠNH BÁT NHÃ trì tụng kinh Kim cang Bát nhã, bèn đặng thấy tánh."

Tài liệu tham khảo:
1) Kinh Pháp Bảo Đàn bản dịch của Diên Sanh Cư Sĩ Tô Quế. Ấn tống ở Hoa Kỳ.
2) Lục Tổ Đàn Kinh Hòa Thượng Tuyên Hóa Lược Giảng. Bản Việt Ngữ in lần thứ nhất 2004.
3) Pháp Bửu Đàn Kinh Huệ-Năng Lục-Tổ của Hòa Thượng Minh Trực Thiền Sư. Phật Giáo Hòa Hảo San Jose ấn tống 1987.
4) Từ Điển Thiều Chửu. Nguồn từ Internet.
5) Kinh Kim Cang Dịch & Giảng của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa. Chùa Khánh Anh ở Pháp ấn tống.
6) Tu Tâm Dưỡng Tánh của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa. Trung Tâm Phật Giáo Hayward ấn hành 2001.

Quảng Trí Nguyễn Bỉnh Quân.
27/12/2015.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10505)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10124)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20348)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11642)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13780)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19093)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46688)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12085)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11655)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23046)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17826)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10140)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17746)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13910)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14034)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15107)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20270)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18260)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17375)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18162)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12703)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12828)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13402)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17009)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11463)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18270)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18575)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21353)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22116)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16841)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12552)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15322)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24572)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14215)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11632)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19686)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13409)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22794)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18991)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18451)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21611)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20526)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20005)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14053)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15004)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13785)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15097)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17228)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15288)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12811)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15873)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12975)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13129)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15017)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22624)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7145)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19356)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37656)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9159)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8650)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17872)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14865)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27023)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19914)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15256)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15475)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26780)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14556)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19679)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14618)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18651)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15917)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16335)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19352)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19722)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19890)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18600)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29786)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14559)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17746)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32401)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15260)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17291)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29741)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31515)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64681)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32787)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20219)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18500)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30789)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19901)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45884)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32576)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39336)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40427)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50107)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19089)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18544)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20688)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19400)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant