Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm (5)

28 Tháng Tư 201607:05(Xem: 10558)
Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm (5)

Bài Thứ 5 
GÓP NHẶT NHỮNG VIÊN NGỌC CHÁNH NIỆM 

Quán Như Phạm Văn Minh

Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm


FAQ: Làm sao để biết ai là người hướng dẫn thực tập có khả năng?

Phong trào MBSR đào tạo được khoảng chừng 9 ngàn người hướng dẫn chánh niệm tốt nghiệp từ cơ quan phụ trách đào tạo Oasis, trung tâm huấn luyện các giáo thọ chuyên nghiệp. Có chừng 18 ngàn bệnh nhân đã theo học các khóa MBSR ở UMass và một số lớp khác tổ chức tại địa phương. Để bảo vệ chất lượng huấn luyện các cơ sở này có giáo chức huấn luyện và chương trình giảng dạy hoàn bị. Ngoài ra còn có các trung tâm nghiên cứu Chánh Niệm như ở đại học California- Los Angeles (UCLA) tổ chức một chương trình 6 tuần lễ dành cho những sinh viên hay nhân viên và giáo chức muốn trở thành giáo thọ Chánh Niệm. Các trung tâm nghiên cứu khác được thành lập rãi rác ở những nơi khác như Penn Program for Mindfulness ở Philadelphia. Phong trào phổ biến rộng rãi cho nên có các khóa huấn luyện cũng lan tràn Online. Các người tốt nghiệp được phát chứng chỉ Certified MBSR Teachers trước khi được nhận vào các bệnh xá hay bệnh viện trên toàn thế giới. Các kho dữ liệu Y tế như EBSCO, CINAHL, PSYCLINE và MEDI-LINE đều công nhận MBSR là một chương trình có chất lượng cao và hiệu quả đồng nhất trong việc chữa trị căng thẳnglo âu. Viện Y Tế Quốc Gia (Mỹ) đã tài trợ cho MBSR để tiếp tục nghiên cứu. Dù số tài trợ còn khiêm tốn nhưng đừng quên là 30 năm trước (1980) chưa ai (ở Mỹ) biết chánh niệm là gì!

Nhưng nghịch lý là mỗi khi thực hành chánh niệm quý vị là người đóng vai chánh, sống ‘đời mình’ không ai có thể thay thế quý vị được. Cho nên quý vị là người ‘Thầy’ giỏi nhất cho mình. Các nhà sư Tây Tạng dù đã bao năm tu tập trong các hang thâm cùng cốc khi được yêu cầu ‘dạy’ Chánh Niệm bao giờ cũng nhũn nhặn nói: “Tôi không biết gì cả! Lẽ ra quý vị nên học với người khác”. Đây không phải là lời khiêm nhượng giả vờ, nhưng các Đại Sư biết rằng mỗi lần thực niệm chánh niệm trong khoảnh khắc này là bắt đầu một cuộc hành trình ‘mới’, không giống hành trình trong khoảnh khắc trước. Các Thiền sư thường tự ví mình như một người bán thức uống gần bờ sông! Cần mà không cần!

Chánh niệm không phải chỉ là một ý tưởng tốt, một triết lý hoặc một tôn giáo theo nghĩa đen, mà là áp dụng một cách sống. Lúc ban đầu quý vị cần một người và các văn bản hướng dẫn cũng để sử dụng như bảng chỉ đường trí tuệ, để quý vị làm quen với kỹ thuật thực tập và có những tiến bộ sơ khởi. Giống như một đứa trẻ tập đi, phải té lên té xuống nhiều lần mới có ‘kinh nghiệm’ giữ thăng bằng. No pain no gain, nhưng chánh niệm không phải chỉ có pain. Khi quý vị đến mức hỷ xả, có những niềm vui xuất hiện, nhất là khi đạt được kết quả tích cực về thân tâm.

Nói một cách chính xác, không có người nào được gọi là Thiền Sư, ai cũng là thiền sinh, hành giả ‘sơ tâm’. Nhớ lời Phật thách thức đệ tử là, trước khi chấp nhận lời Phật dạy, phải tự tìm hiểu xem lời Phật có phải là vàng ròng hay không, rồi hãy áp dụng. Hay nhớ tới kinh Kalama chỉ chấp nhận giáo lý vì thấy giáo lý đó phục vụ được mục tiêu cứu khổ, không phải chỉ vì đó là giáo lý của Đức Thế Tôn truyền dạy. Lòng tin mù quáng không có chỗ đứng trong Phật giáo! Vì thế trong các bài tập chỉ dẫn các nhà khoa học bao giờ cũng nhấn mạnh tới thái độ uyển chuyển, ứng biến của ‘học viên’.

Các thiền sư dòng Tào Động thì ‘tuyển sinh’ khó hơn. Các hành giả thường là người Tây phương phải qua tận Nhật ‘hành hương’ và trình diện xem Sư phụ có chịu chấp nhận mình làm đệ tử hay không. Sau đó được giáo huấn trong một thời gian trung bình vài năm, khi Sư Phụ cho phép đệ tử trình kiến giải trong các cuộc tham vấn (dokusan) xem đệ tử có thực sự giác ngộ chưa, để tránh trường hợp đệ tử ‘quá’ tự tin, nghĩ là mình đã ‘giác ngộ’ (theo nghĩa satori)

Khi được chấp nhận đệ tử sẽ được ban danh hiệu Roshi và trên nguyên tắc có thể làm giáo thọ ở bất cứ nơi nào. Theo tôi được biết Thầy Phụng Sơnngười Việt duy nhất từ trước đến nay được phong danh hiệu Roshi. Có lẽ thầy Phụng Sơn nên kể lại quá trình Tầm Sư Học Đạo của mình cho quần chúng Phật tử biết.

FAQ: Có thầy, có văn bản hướng dẫn thực tập, nhưng liệu tôi ‘có thể’ thực hành Chánh Niệm được không?

Đây là một câu hỏi thông thường nhất. Người hỏi chưa đủ tự tin và còn hiểu lầm về chánh niệm. Ai có thân thể khỏe mạnh và óc não sáng suốt đều có thể thực hành chánh niệm, dĩ nhiên thực hành chánh niệm không phải dễ, nhưng nếu được hướng dẫn và với tinh tấnkiên trì, ai cũng có thể thực hành được!

Nghĩ mình không thể thực hành Chánh Niệm cũng giống như nghĩ mình không thể thở (thực ra cuống não tự động thở cho quý vị), hay không thể chú ý hay thư giãn. Khi đủ một số điều kiện hay biết cách vun xới, ai cũng có thể chú ý.

Thường người ta hay lẫn lộn giữa chánh niệm và thư giãn, hoặc nghĩ thực hành chánh niệm để đạt tới một tình trạng hay cảm tưởng ‘đặc biệt’ nào đó. Nếu họ thực hành chánh niệm một vài lần, họ cảm thấy không đi đến đâu, và không đạt được tình trạng mong muốn, họ nghĩ họ “không thể” thực hành chánh niệm được. Nhưng chánh niệm không nhằm mục đích nào hết, cũng không làm quý vị có cảm tưởng ‘đặc biệt’ nào. Nó cũng không có mục đích làm quý vị an tĩnh, mặc dù khi thực hành tới mức chín mùi, quý vị có thể có an lạcvui sướng của trạng thái “định” (Samadhi). Chánh niệm cũng không có mục đích làm Tâm rỗng không (vì tâm viên, ý mã, Tề Thiên không lúc nào chịu ngồi yên, lúc nào cũng nhảy nhót , khọt khẹt) quý vị càng đàn áp thì Tề Thiên càng ‘làm tới’. Khi niệm chú Chánh Niệm, Tề Thiên nhức đầu mới chịu thôi. Không tin quý vị có thể hỏi Đường Tăng! Chánh niệm là chú ý theo dõiđể Tâm xuất hiện như là just as it is (như nó là), không can thiệp hay áp đặt trên bất cứ một trãi niệm nào. Nhớ từ ngữ Let Be (giữ nguyên) và Let Go (buông xả), thái độ vô cầu như đã đề cập ở trên. Chánh niệm không nhắm tới đạt đến một chỗ nào như quý vị mong ước mà chỉ giúp quý vị biết mình đang ở đâu. Không hiểu điều này, quý vị sẽ nghĩ mình không thể thực hành chánh niệm! Thực hành chánh niệm dĩ nhiên đòi hỏi cố gắngkiên nhẫn, vì thấy mình không “đi tới đâu”, quý vị dễ bỏ cuộc. Vậy thì thay vì nói tôi “không thể” thực hành chánh niệm, quý vị nên nói là tôi không đủ ý chí kiên trì để thực tập! Khi quý vị cảm thấy “mất tự tin” quý vị nên ngồi xuống hay nằm, hay đi, hay ăn và lần này buông bỏ mong ước ‘đạt tới đâu’của mình! (Jon Kabat Zinn, Wherever You Go, Where you are, P 34).

FAQ: Chánh niệm khác với vô tác, vô vi ở chỗ nào?

Vô tác hay vô vi hoàn toàn khác với “không làm gì cả”. Vô vi nhưng vô bất vi. Vì chuyển qua Sensing Mind khi thực hành chánh niệm, nên quý vị dùng trực quan để mà sống. Khi giác quan còn lành mạnh, thì quý vị “thấy”, nghe thì quý vị thấy và nghe mà không cần cố gắng, ăn thì quý vị cảm thấy hương vị thức ăn, ngữi thì ‘thấy’ mùi thơm, đụng chạm thì thấy cảm giác đụng chạm (xúc), không cần một nổ lực nào miễn là quý vị duy trì chánh niệm. Vô vi có thể dịch là ‘Effortless Effort’ ‘cố gắng mà không cần cố gắng’, kiểu nói nghịch lý của Zen (như Vô Môn Quan, cánh cửa không cửa!). Chỉ có ý thứcý định là quan trọng ở đây. Trong lúc thực tập Formal Practice, quý vị cần ý thức về những gì mình đang làm. Khi quý vị chuyển được chánh niệm qua những sinh hoạt đời thường, lúc đó ăn thì quý vị biết mình đang ăn, khi đi thì biết mình đang đi, khi nằm ngồi, tắm, đọc báo, nói chuyện với người khác.. vân vân, cũng vậy. Quý vị không cần có một lịch trình gì ngoài việc ‘tỉnh thức’ trong khoảnh khắc hiện tại. Ngồi xuống, đừng làm gì cả, chỉ cần an trú trong chánh niệm, quan sát trãi niệm đang hé lộ ra trong Tâm just as it is.

FAQ: Định và Niệm khác nhau ra sao?

Định là một phần nền tảng quan trọng của Chánh Niệm. Không có Định, tấm gương soi giống như mặt nước nhấp nhô và không phản ảnh trung thực thế giới bên trong cũng như bên ngoài. Quý vị có thể thực tập Định và Niệm cùng một lúc hay riêng rẽ. Thực tập định bằng cách chú ý vào một đối tượng duy nhất, như hơi thở, một hình tượng tôn giáo hay niệm một câu thần chú vân vân… Tiếng Phạn Định là Samadhi (onepointedness). Khi tâm đi lạc quý vị chỉ nhẹ nhàng kéo Tâm trở lại hơi thở trong khoảnh khắc này, không phải hơi thở trong khoảnh khắc trước hay sau. Nếu kiên trì quý vị có thể duy trì chú ý trong một thời gian lâu hơn và quý vị có thể đạt tâm cảnh an lành, không có gì có thể quấy phá được. Nhưng cẩn thận, khi đạt tới mức Định, cảm giác an lạc (hỷ, xả) có thể tràn ngập Tâm và quyến rũ quý vị dùng đó làm nơi trú ẩn khỏi những khó khăn, bận rộn của đời thường, và có thể khiến quý vị nghĩ lầm là quý vị đã đạt tới ‘kết quả nào đó’. Quyến luyến với Định cũng giống như bất cứ một tham chấp nào khác, quý vị ôm chặt không chịu bỏ ra và sống trong tình trạng vô minh (delusion). Trong tình trạng Định, quý vị có thể quên cả thế giới bên ngoài, không nghe cả tiếng cửa đóng hay mở, và thế giới bên trong cũng có thể biến mất: ý tưởng, cảm giác, tình cảm ít xuất hiện. Sự an lạc này rất quyến rũ và làm quý vị “say” và quên đi mục đích Chánh niệmtỉnh thức, không phải để say, dù là say An Lạc! Tuy nhiên Định thiếu Niệm không thể đưa đến Tuệ (Giới, Định, Tuệ). An lạc của Định có thể làm quý vị thỏa mãn nhưng thiếu óc tò mò, điều tra, rộng mở của Chánh niệm.

FAQ: Nền tảng Đạo đức của Chánh niệm: Tâm và não là một (Mind cũng là Heart: Mindfulness cũng là Heartfulness)

Phần lớn trong các ngôn ngữ Á Châu, Mind cũng là Heart. Tâm cũng là Ý. Trong tác phẩm Nẻo về Của Ý , Nhất Hạnh có dùng một cụm từ rất thú vị “các cô gái ở Việt Nam được cha mẹ dặn dò là phải có ‘ý về tứ’, tcác các cô mới ‘đẹp trọn vẹn’! Hiện nay ai cũng có thể thực tập Chánh Niệm, bất kể nam hay nữ! Nhắc lại chuyện này để các cô các bà có thêm động cơ thực tập!

Nguyên tắc đạo đức căn bản của Đạo Phật là không làm hại bất cứ một chúng sinh nào, hữu tình hay vô tình. Dù trên thực tế không ai có thể hoàn toàn giữ được điều này, nhưng ít nhất Phật tử chúng ta lúc nào cũng trung thành với lý tưởng Ahimsa (giới sát), cố gắng không gây đau khổ cho người khác. Thực hành chánh niệm không phải là một trào lưu thời thượng của những người không có chuyện gì làm, chỉ ngồi im lặng ‘ngó rốn’,  như một số lời chỉ trích! Huấn luyện Tâm cũng là một cách vun xới một số tình cảm căn bản trong đạo đức Phật giáo như Từ bi, Độ lượng, Buông xả, Không tham chấp…Trước hết là quý vị áp dụng những tình cảm này cho chính mình. Không phải là chúng ta ích kỷ nhưng nếu không từ bi, độ lượng với chính mình là sao quý vị có thể từ bi, độ lượng với người khác? Quý vị phải nói ngược lại “thương thân như thể thương người” mới đúng!! Nhiều lúc quý vị đối xử nghiêm khắc với chính mình, lúc đó nên nhớ Ahimsa. Và buông xả tình cảm đó. Letting it go!

FAQ: Bảy thái độ cần thiết khi thực hành Chánh Niệm

1-  Thái độ căn bản: Không phán đoán (Let Be) Buông xả (Let go) 

Thái độ căn bản nhất là Let Be và Let Go. Let Be, chúng tôi dịch là bàng quan, không phán đoán hay can thiệp. Let Go là buông xả, như bàn tay mở ra để buông bỏ những gì đang nắm. Không phải bàn tay đang nắm mà Tâm quý vị đang nắm, nên còn chặt hơn cả bàn tay. Let Go là không bám chặt bất cứ điều gì, dù đó là một ý tưởng, một vật hay điều gì mà mình thích hay ghét bỏ, một quan điểm, niềm tin, ngay cả chính tín ngưỡng. Đây là một hành động có ý thức buông xả để chấp nhận những gì đang hé lộ chân nguyên (as it is) trong khoảnh khắc hiện tại. Buông xả nghĩa là không bám víu những gì mà quý vị yêu thích hay ghét bỏ. Chúng ta mắc kẹt trong tình cảm thương, ghét, thích & không thích. Chúng ta mang một cặp kính mầu, phân biệt những gì tốt hay xấu cho mình và theo thói quen chúng ta trở thành tù nhân của tình cảm thương ghét này. Nếu chúng giống với niềm tin hay triết lý của mình, thì chúng ta thích. Nếu khác với những gì mình nghĩ, chúng ta ghét. Những tình cảm này chế ngự tâm như là một gánh nặng, giống như quý vị đang mang cát đá trong đầu. Đến lúc quý vị phải bỏ gánh nặng này xuống cho nhẹ! Tưởng tượng Tâm của chúng ta nhẹ biết bao nhiêu khi buông xả được gánh nặng này! Buông bỏ những phán đoán này để trãi nghiệm just as it is tự hé lộ cho chúng ta thấy trong khoảnh khắc hiện tại. An lànhgiải thoát, phải không quý vị?

2 - Kiên nhẫn: Lúc nào chúng ta cũng nôn nóng muốn đến một nơi nào đó, muốn đạt điều gì đó cho mình, sống một khoảng đời khác hạnh phúc hơn ‘bây giờ’. Khi trẻ thì muốn học hành thành tài và lập sự nghiệp, tiết kiệm tiền cho thật nhiều, mới thấy hạnh phúc. Nếu gia đình không hạnh phúc thì đợi khi ly dị xong. Khi sinh con cái thì đợi chúng trưởng thành, ra ở riêng. Đồng cỏ bên kia lúc nào cũng xanh hơn.Tương lai mơ tưởng mới là hạnh phúc hơn là hoàn cảnh hiện tại. Hiện tại không bao giờ làm quý vị thỏa mãn. Giống như một threadmill, cứ chạy mà không có chỗ dừng! Quý vị không còn nhận biết là quý vị đang ở đâu. Quý vị quên là cái gì        cũng có ‘chu kỳ’ riêng, mùa xuân cây cỏ xanh tươi, hoa trái không thể nở trái mùa. Khi chúng ta nói khoảnh khắc hiện tại chúng ta muốn nói bây giờ, nghĩa là ngoài thời gian vật lý (Timeless). Thường chúng ta chỉ chú ý nhận biết hạnh phúc hay đau khổ hiện tại trong những hoàn cảnh hiếm hoi nhất (blue moon) như khi chinh phục được người tình hay khi bị phụ bạc, những lúc ecstasy hay tragedy, thường chúng ta để khoảnh khắc hiện tại qua đi trong thất niệm! Nếu quý vị duy trì được chánh niệm quý vị bước ra khỏi thời gian vật lý và sống trong chánh niệm, có nghĩa là quý vị có thêm nhiều thời gian để sống và sống trọn vẹn.

3-  Sơ tâm thiền (Beginners’s Mind) Thấy mọi sự như mới thấy lần đầu trong từng khoảnh khắc hiện tại. Khi mới gặp người tình, quý vị bị xúc động, để ý từng sợi tóc bay trong gió (có sợi tóc nào bay), nụ cười, lời ăn, tiếng nói. Nhưng khi sống chung trong một thời gian, quý vị nghĩ là mình đã biết kỹ người tình, nên không còn tò mò quan sát như lúc mới quen. Thái độ thấy một lầnthấy hết, sau đó dùng ký ức để ‘thấy’ người tình, không còn nhìn người này hiện giờ như lúc đầu tiên nữa! Sơ tâm Thiền rất cần thiết khi quý vị thực tập vì quý vị quan sát hơi thở vào hay hơi thở ra trong khoảnh khắc này, không phải là hơi thở trước hay hơi thở sau đó. Quý vị có thể cảm nhận khác nhau về từng hơi thở, không hơi thở nào giống hơi thở nào. Nhờ sơ tâm thiền quý vị có thể theo dõi hơi thở dễ dàng hơn.

4-  Vô Cầu (Non Striving) Khi học một kỹ năng trong đời như lái xe chẳng hạn, chúng ta mong muốn tới một lúc nào đó chúng ta có thể sử dụng kỷ năng này một cách tự động mà không cần chú tâm nữa. Tai nạn xe cộ xảy ra nhiều vì khi lái xe chúng ta quên mình đang lái xe, tâm trí để đâu đâu. Nên không có gì đáng ngạc nhiên khi tai nạn giao thông chết người vẫn tiếp tục xảy ra, dù luật lệ thắt chặt và cảnh sát được tăng cường! Khi thực hành chánh niệm, chúng ta thường mong muốn đạt tới một tình trạng nào đó, dù chỉ là một cảm giác khoan khoái, những mong muốn này rất ‘hợp lý’, hay nhiều khi mong muốn được áp suất máu hạ, hệ thống miển nhiễm tăng, trong một thời gian ngắn...Khi mong ước như thế, chánh niệm dễ bị mất. Tề Thiên rất nhanh nhẹn và thông minh. Lo âu này sẽ khiến chánh niệm biến mất và lạc qua thinking mind của Tề Thiên mà quý vị không để ý. Thực hành chánh niệm chỉ có mục đíchtỉnh thức, những kết quả khác chỉ tự nhiên đến. Công việc duy nhất của quý vị cần làmcảm nhận và theo dõi hơi thở! Giản dị nhưng không dễ dàng. Ngồi theo dõi hơi thở quý vị sẽ cảm nhận được những gì chúng tôi đang nói!

5-  Chấp nhận thực trạng (Acceptance)

Chúng ta nên xem bất cứ một ý nghĩ nào xuất hiện trong Tâm như những tâm hành khác, hiện đó, biến đó. Vì chúng ta mang cặp kính mầu, những phán đoán của chúng ta thường không chính xác. Thường chúng là những phản ứng thiếu nền tảng, méo mó do thiên kiến hay bị điều kiện hóa trong quá khứ. Nếu chúng ta bàng quan, không phán đoán, chỉ quan sát và chấp nhận những trãi nghiệm khi chúng xuất hiện, và tùy hoàn cảnh, chúng ta sẽ chọn lựa một phản ứng ý thức. Điều này không có nghĩa là chúng ta không phản ứng với những hành động sai trái hay vô đạo của người khác, mà chỉ có nghĩa là bất cứ một chọn lựa hay phản ứng nào cũng là chọn lựa ý thức dưới ánh sáng của chánh niệm. Nếu chúng ta phủ nhận thực trạng, chúng ta không biết chúng ta đang đứng chỗ nào để chọn lựa. Nếu chúng ta than thân trách phận, oán trời oán đất, chỉ làm tăng nỗi khổ niềm đau vì mũi tên thứ hai tự bắn. Giả sử chúng ta bị chẩn bệnh là mắc bệnh ung thư, chúng ta chấp nhận thực trạng này vì nếu tìm cách phủ nhận, chúng ta sẽ không chọn lựa một giải pháp thích ứng để đối phó, như đi chẩn đoán để xác nhận lại và bước tớitìm cách chữa trị. Khi chấp nhận hiện trạng, bệnh ung thư không tự nhiên thoái hóa hay biến mất, nhưng chúng ta có cái nhìn sáng suốt hơn những chuyện gì cần làm tiếp theo!

6-  Trust: (Tin tưởng)    

Tin tưởng phản ảnh cho lòng tự tin, khi thực hành chánh niệm: chúng ta phải tự tin là mình có thể quan sát, tâm có thể mở rộng và chú ý quán sát những gì đang hé lộ như chúng là just as it is trong khoảnh khắc này. Chỉ có chúng ta mới có thể sống đời mình, và những văn bản hay người hướng dẫn chỉ là những phương tiện đưa chúng ta đến cửa, chúng ta phải quyết định vào cửa Thiền, không ai có thể thay thế mình được.

7-  Generosity:  (Độ lượng)

Độ lượng là một đức tính tốt cũng như kiên nhẫn, buông xả, không phán đoán, tin cậy, là nền tảng thực tập chánh niệm. Và người cần được đối xử độ lượng trước tiên là không ai khác hơn là quý vị. Tự chấp nhận mình là món quà tặng quý giá không điều kiện, làm tăng sinh lực sống, tăng lòng tự tin, tấm lòng thêm rộng mở.

Nhiều khi thấy lòng độ lượng của mình không được đền đáp, quý vị có thể miễn cưỡng không muốn thực hành, nhưng nên nhớ chính quý vị là người đầu tiên hưởng “kết quả”. Độ lượng là một cách nuôi dưỡng lòng từ bi, không phải là một cách để góp nhặt ‘phước báu’ như nhiều người nghĩ. Nếu có phước báu chỉ là bonus thêm vào đó, không phải là động cơ chính của ‘bố thí’. Quý vị cảm thấy vui vẻ hạnh phúc ‘lên tinh thần’ vì đã làm những điều tốt (feel good when doing good!)  không phải vì áp lực bên ngoài (hay bên trên), không có Nam tào Bắc đẩu nào cầm sổ ghi chép những việc làm tốt (hay xấu) của quý vị, một hình thức cho mà không cần đền đáp, hành động một cách vô cầu. Đó chỉ là một ý định muốn chia xẻ với người khác tài nguyên hiện có của vũ trụ

Quán Như Phạm Văn Minh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10525)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11225)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12753)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10807)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16657)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10814)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22964)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12022)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11492)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10684)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12336)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11195)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10019)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10328)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11906)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10697)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12373)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9813)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11269)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13841)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9578)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12626)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9699)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10457)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10549)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10320)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9899)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11058)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12016)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10142)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10784)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9896)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8766)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9495)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14518)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8778)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12553)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10424)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9085)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10559)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9336)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8798)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10513)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9192)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8364)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12028)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9697)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10215)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10228)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19132)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9416)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8985)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9587)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9017)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14755)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10093)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8348)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8950)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8975)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8740)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9369)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14595)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9034)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8771)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9048)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10531)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8640)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9991)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24280)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10177)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11026)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8996)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9468)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8002)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9266)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15348)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10338)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9581)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17444)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21396)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12165)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26045)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7975)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14787)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10633)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11349)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9532)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18678)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12356)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11886)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10752)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13342)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10000)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9270)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9379)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15899)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25632)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant