Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cáo Phó Tang Lễ Đh Thiện Mẫn Nguyễn Minh Cần

19 Tháng Năm 201621:20(Xem: 9670)
Cáo Phó Tang Lễ Đh Thiện Mẫn Nguyễn Minh Cần


VĨNH BIỆT NHÀ BIÊN SOẠN TỪ ĐIỂN NGA VIỆT

 

Chúng tôi sang Liên Xô vào đầu những năm 70 của thế kỷ trước. Để học tiếng Nga, ngoài mấy tập giáo trình in roneo có thêm phần từ vựng ở Hà Nội ra, chúng tôi hầu như không hề có một tập sách tra cứu nào. Quyển Từ điển Nga - Việt của soạn giả Nguyễn Năng An lúc đó không phải ai cũng có, mặc dù số lượng từ chưa nhiều, chưa đủ đáp ứng được các yêu cầu cao mà nhà trường đòi hỏi.

Chúng tôi đã cố gắng rất nhiều, rất vất vả để tiếp thu được bài giảng trên giảng đường và tự nghiên cứu, học hỏi các Thầy, Cô và bè bạn người Nga ở nhà mới có thể tra cứu được những tác phẩm tham khảo.

Sau năm năm, chúng tôi tốt nghiệp về nước, và may mắn thay, năm 1978, chúng tôi có trong tay quyển Từ điển Nga Việt hai tập của ba tác giả Alikanov, Inna Mankhanova và Ivanov. Đối với  những giáo viên tiếng Nga như chúng tôi ở Trường Đại học, đây là một món quà vô giá. Chúng tôi rất dễ dàng tìm ra từ mới để soạn bài và giảng dạy. Những sinh viên của chúng tôi trong năm học dự bị, dù ai hoàn cảnh khó khăn đến đâu cũng cố mua được hai tập từ điển Nga - Việt, như là một loại sách công cụ gối đầu giường không thể nào thiếu được.

Hai tập từ điển này liên tục được Nhà Xuất bản Tiếng Nga tái bản mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của tầng lớp trí thức Việt Nam, những người học tiếng Nga tại các Trường Đại học và cho hàng trăm ngàn lao động Việt Nam sang Nga làm việc. Sách được bày bán ở tất cả các Hiệu sách Ngoại văn Hà Nội và các Hiệu sách Nhân dân trên cả nước.

Khi sinh viên từ Việt Nam sang Nga du học, ngoài hành trang đơn sơ gồm mấy vật dụng được Bộ Đại học chu cấp, bất cứ ai cũng cho vào va ly hai tập từ điển, vì mọi người đều hiểu rằng, nếu thiếu nó thì khó lòng vượt qua được những kỳ thi tiếng Nga và chuyên môn ở nước bạn.

Tôi dám khẳng định rằng, không một ai ở Việt Nam nghiên cứu tiếng Nga, văn học Nga, các ngành khoa học liên quan tới tiếng Nga mà không sử dụng hai tập từ điển này.

Khi đó, dù chưa biết tác giả là ai, nhưng chúng tôi đều nghĩ rằng, họ là những nhà bác học, am tường không chỉ tiếng Nga mà hiểu biết rất tinh tế về tiếng Việt, văn hóa Việt Nam.

Mãi sau này, khi sang Nga Nghiên cứu sinh trở lại, tình cờ tôi mới được biết, được gặp các tác giả tại một Hội thảo của Viện Phương Đông, đó là ông Nguyễn Minh Cần và bà Anna Mankhanova, những người am tường Đông Tây Kim Cổ. Ông bà sống trong một căn hộ nhỏ gần khu vực Tây Nam thành phố Matxcơva, sinh hoạt, ăn mặc đạm bạcbình dị. Ông bà không có ô tô, không có nhà nghỉ, chỉ có những vật dụng cổ lỗ thời Xô Viêt, nhưng bù lại, chất bốn quanh nhà là những giá sách khổng lồ nhiều thứ  tiếng. Trong thời gian viết Luận án, khi cần tra cứu một từ khó nào không có trong Từ điển, chúng tôi gọi điện hỏi ông, và lúc nào cũng vậy, ông đều giải đáp một cách tận tình và thấu đáo.

Tôi cũng được làm quen với tác giả Ivanov, được ông chia sẻ, kể về quá trình xây dựng kế hoạch và cùng viết hai tập Từ điển với ông Alikanov và bà Mankhanova.

Còn nhớ vào năm 2006, một Giáo sư người Nga đặt vấn đề với chúng tôi về việc bổ sung, làm lại quyển Từ điển Nga Việt cho phù hợp với tình hình mới, bởi vì số lượng từ không ngừng tăng lên, các thuật ngữ khoa học kỹ thuật cần được đưa vào để đáp ứng yêu cầu của những người nghiên cứu. Hơn nữa, gần hai chục năm sau khi Liên Xô sụp đổ, số lưu học sinh Việt Nam sang Nga lên tới con số bảy ngàn, nhưng hai quyển Từ điển này không được tái bản, trừ một số cơ sở in ấn in lậu, in chui, đưa sang bán trong các Trung tâm Thương mại người Việt. Chúng tôi đến gặp ông Nguyễn Minh Cần và bà Anna Mankhanova; ông bà cho biếttoàn bộ bản quyền quyển Từ điển đã thuộc và Nhà Xuật bản Tiếng Nga từ thời Liên Xô cũ, ông bà không đủ tư cách pháp nhân để đứng ra giúp cho việc tái bản.

Chúng tôi lại tìm đến Nhà Xuất bản Tiếng Nga, bà Giám đốc trả lời rằng, Nhà Xuất bản sẵn sàng cho tái bản, nhưng có một điều cần nói thật là nó đã cũ tính về mặt thời gian, nên nếu làm một cách khoa học thì phải rà soát lại và bổ sung thêm một khối lượng từ mới. Còn nếu tái bản không sửa chữa, thì phải trả cho họ tới 40% giá bìa. Điều này không thể nào thực hiện được, vì tira chỉ khoảng 2000, bán hết cũng chưa trả đủ tiền in. Chỉ có một cách duy nhất, đó là phải viết bổ sung được trên 25% số từ, như thế về mặt luật xuất bản của Nga, chúng tôi sẽ được toàn quyền sử dụng in ấn. Dĩ nhiên điều đó vượt quá khả năng của chúng tôi về mặt thời gian cũng như về mặt kiến thức.

Anh bạn Giáo sư người Nga và chúng tôi cùng bàn bạc và cho rằng, để thực hiện được yêu cầu này thì phải xây dựng một dự án, cần có thêm một số người tham gia làm việc trong vài ba năm, cần có một nhà tài trợ. Về sau, bởi nhiều lý do khác nhau không thuận lợi, chúng tôi đành gác lại, nói đúng hơn là không dám nghĩ đến việc tái bản lại công trình đồ sộ này.

chúng tôi vô cùng ngạc nhiên đến sửng sốt, khi sau đó ba năm, năm 2007, Quyển Từ điển Nga Việt mới gần 50 ngàn từ được ấn hành, tác giả không ai khác là ông Nguyễn Minh Cần và bà Anna Mankhanova. Cầm quyển TỪ ĐIỂN NGA – VIỆT MỚI trong tay mà bản thân chúng tôi cũng không dám nghĩ đó là một sự thật. Chúng tôi vô cùng khâm phục sức lao động không mệt mỏi, trí tuệ mẫn tiệp của hai tác giả khi tuổi tác đã ngoại tám mươi. Đáng khâm phục hơn nữa khi được biết, ông bà làm việc này với một khoản thù lao, nhuận bút vô cùng ít ỏi vì số lượng in ra chỉ vỏn vẹn 2000 cuốn, không hề một ai tài trợ và giúp đỡ về mặt tài chính.

Cầm quyển từ điển trong tay, chúng tôi muốn nói với các bạn rằng, chúng ta đã mất đi một nhà khoa học, một người đã có công lao rất lớn đối với nhiều thế hệ nghiên cứu tiếng Nga, mà cho đến nay chưa ai có thể vượt qua được. Con người đó đã yên nghỉ đời đời.

Trong giây phút đau thương này, cho phép tôi bày tỏ sự sẻ chia niềm mất mát lớn lao đối với toàn thể gia quyến của người đã khuất; đồng thời tôi cũng muốn thay mặt  tất cả  những ai đã học tiếng Nga, nghiên cứu tiếng Nga, đã từng cầm trong tay hai tập Từ điển Nga – Việt, bày tỏ sự kính trọngbiết ơn đối với một nhà trí thức bậc nhất của chúng ta tại Nga: Nhà soạn từ điển Nga Việt Alikanov- Nguyễn Minh Cần.

Chúng tôi rất muốn rằng, khi có điều kiện, công trình cao quý đó  sẽ được tiếp tục tái bản để góp phần vào việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu tiếng Nga cho nhiều tầng lớp và nhiều lứa tuổi người Việt Nam kể cả trong nước và ở nước Nga. Đây là việc làm rất thiết thực, là nhịp cầu nối hai nền Văn hóa Nga Việt và góp phần giúp cho chúng ta tiếp cận, học hỏi và tiếp thụ những kiến thức khoa học, kỹ thuật của nước Nga vĩ đại.

 

Matxcova ngày 25/5/2016

Tâm vững chãi Thiện Phương

 



cao-pho-cu-ong-nguyen-minh-cannguyen-minh-can-60
Bác Thiện Mẫn Nguyễn Minh Cần & Hiền thê, Đạo hữu Thiện Xuân Inna Malkhanova (xem bài)

Cam_Ta
Nguyễn Minh Cần sống mãi

Ngô Nhân Dụng

Nguyễn Minh Cần sống như một dòng suối trong veo. Anh theo mẫu người nhà nho tráng sĩ những thế kỷ trước. Như Thủ Khoa Nguyễn Hữu Huân hai lần khởi nghĩa, hai lần bị quân Pháp bắt, thong dong dặn dò vợ con trước khi chịu tử hình. Như Giải Nguyên Nguyễn Cao khi bị bắt và được dụ hàng, đã khẳng khái từ chối rồi tự mổ bụng ném vào mặt quân giặc, nói: “Ruột gan tôi như thế này, ai cũng biết cả rồi!”

Năm 17 tuổi, Nguyễn Minh Cần đã tham dự cuộc Cách Mạng Tháng Tám giành độc lập ở Huế, quê hương ông. Năm sau ông đã vào đảng Cộng Sản vì tưởng đây là con đường duy nhất để cứu nước, làm tới ủy viên Thường Vụ Tỉnh Ủy Thừa Thiên. Rồi ra Bắc hoạt động ở ngoại thành Hà Nội, sau năm 1954 làm ủy viên Thường Vụ Thành Ủy Hà Nội, kiêm phó chủ tịch Ủy Ban Hành Chính thành phố. Trong khi ông đang học Trường Đảng Cao Cấp ở Moskva, Cộng Sản Việt Nam thanh trừng nội bộ bằng chiến dịch Chống Chủ Nghĩa Xét Lại. Năm 1964 Nguyễn Minh Cần ra khỏi đảng, xin tị nạn chính trị ở Liên Xô, làm nghề dạy học, phiên dịch và viết sách, có khi ký tên là Alikanov để qua mắt công an Việt Cộng. Ông và vợ là bà Inna Malkhanova đã tham dự các cuộc biểu tình vào Tháng Tám năm 1990, khi chế độ Cộng Sản Liên Xô đang sụp đổ. Ông thường kể trong đời mình đã dự hai lần “Cách Mạng Tháng Tám!” Từ năm 1990, ông tham gia tích cực vào cuộc vận động tự do dân chủ của người Việt Nam khắp thế giới. Ông tham dự các tập họp chính trị, viết sách viết báo cho đồng bào trong nước và hải ngoại đọc, lúc nào cũng lo gây dựng tình đoàn kết giữa những người cùng lý tưởng dân chủ tự do.

Nếu được gặp anh Nguyễn Minh Cần thì mình sẽ làm gì? Tôi mới tự hỏi. Mấy năm rồi tôi vẫn tính đi Nga thêm một chuyến; để có cơ hội được gặp anh Nguyễn Minh Cần. Gặp một lần nữa trước khi anh ra đi. Khi cùng đi với Lan Hương đến thăm anh ở Moskva lần chót, đã thấy anh rất yếu, sau đó lại có tin anh phải vào bệnh viện mấy lần. Mỗi lần ở nhà thương ra, anh lại viết thư ngay, báo tin anh vẫn khỏe để giúp mọi người bình tĩnh! Và anh bàn bạc ngay những vấn đề đất nước, xin mọi người phải chú ý theo dõi, loan báo tin tức và bày tỏ ý kiến công khai.

Con người Nguyễn Minh Cần chứa một tấm lòng nhiệt thành, tận tụy vì lý tưởng; một tâm hồn ngay thẳng, đĩnh đạc, bộc trực gần như nóng nảy. Anh giản dị, chân thành, lo lắng cho công việc chung, cho tất cả bạn bè anh em. Hỏi tới chuyện nào anh cũng sẵn sàng nói và anh biết rất nhiều; không thấy anh ngần ngại hay tỏ ra muốn giữ kín một điều gì bao giờ. Anh và chị Inna là những con người trong suốt.

Tôi chưa thấy anh chị nói nặng lời về một ai bao giờ, trừ hai nhân vật, với chị Inna là Stalin, với anh Cần là Hồ Chí Minh. Nhưng thực ra họ cũng không nói nặng lời. Họ chỉ kể lại những tội ác của các lãnh tụ Cộng Sản bằng giọng nói bình thản, khách quan, với những câu chuyện cụ thể, các con số, mà hai người đã để tâm nghiên cứu. Khi Vladimir lên cầm quyền được hai, ba năm anh Cần đã báo động với tôi rằng chế độ độc tài đang được tái lập, Putin sẽ là một “đại đế” mới! Khi tôi đề nghị anh viết một bài cho báo Người Việt về tình trạng này, anh đồng ý. Nhưng khi tôi ngỏ ý đưa trả tiền trước nhuận bút, anh gạt tay tôi rất mạnh, từ chối. Anh bảo khi nào viết, đăng rồi hãy trả tiền!

Lần đầu Lan Hương đưa bố con chúng tôi tới ở nhà anh chị tại Moskva trước đây hơn 20 năm, anh chị đã đưa tôi và Bão Phác đi thăm trang trại cũ của nhà văn Tolstoi, một thần tượng của chị. Anh dạy tôi trong tiếng Nga cái tên Tolstoi phải đọc chữ “o” vần đầu như chữ “a.” Cũng như Moskva vần đầu đọc “Mo” là “Ma,” tên cháu Lan Hương là Tonia cũng vậy. Anh chị cho biết vào cuối đời nhà văn đã khám phá ra giáo lý “hiện pháp lạc trú” (an trú trong hiện tại) của Phật Thích Ca; nhưng chắc không có duyên thực tập. Trên con đường hơn 300 cây số, đi mất 6, 7 giờ, xe taxi lâu lâu dừng lại. Có lúc tôi hỏi lý do, anh Cần lắc đầu, vừa cười vừa nhăn mặt: Bà ấy thấy mấy con chó hoang là phải cho chúng ăn. Đi đâu cũng mang theo bọc thức ăn cho chó! Nhìn ra, quả nhiên thấy chị Inna đang đứng giữa một bầy chó nhẩy nhót chờ đón quà! Chị Inna lập ra hội những người bảo vệ chó, đi đâu thấy chó hoang là chị đưa về nhà nuôi.

Sau khi tham ngôi nhà cũ, khu vườn mà hai ngôi mộ của Lev và Sophia Tolstoi, chúng tôi bước ra về trên con đường ra cổng trang trại, hai bên cây xanh che phủ. Anh Cần đi trước, chị Inna và tôi đi sau. Đang bước đi tôi trông thấy một con sâu róm đang bò ngang đường, lủi thủi một mình. Tôi đi chậm lại, chú ý bước qua không để vô tình giẫm chân lên con sâu. Nhưng bỗng chị Inna dừng lại. Chị cúi xuống, đưa hai ngón tay phải nhắc con sâu lên, để nó trên bàn tay trái. Rồi chị bưng con sâu đi chậm chậm sang một bên đường, cẩn thận đặt con sâu đi lạc trên một cành lá xanh. Xong, chị lại tiếp tục bước đi, nói tiếp câu chuyện đang nói dở.

Đó là cung cách trong cuộc sống của anh chị Inna Malkhanova và Nguyễn Minh Cần. Sau nửa thế kỷ sống bên nhau, hai người giống nhau trong tư tưởng, trong cách nói năng bằng tiếng Nga và tiếng Việt, trong cách cư xử với mọi người. Cách đây sáu, bảy năm, tôi tới Moskva muốn đến thăm anh chị, anh nhất định tới đón tôi tận khách sạn. Năm đó đã thấy anh phải chống gậy. Anh và chị đã quy y với Thầy Như Điển ở Đức, nhận pháp danh Thiện Mẫn và Thiện Xuân. Anh chị đã lập một thiền đường và một hội Phật học ở Moskva.

Tuổi già giọt lệ như sương. Nhưng sáng nay mở email ra đọc tin anh Nguyễn Minh Cần qua đời, bao nhiêu bạn bè và các em của anh không thể cầm được giọt lệ. Chị Quản Mỹ Lan ở Pháp viết: “Nay anh Nguyễn Minh Cần ra đi là một sự hụt hẫng, là nỗi mất mát kinh khủng nhất!” Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ ở New Zealand viết: “Nguyện cầu vong linh anh Nguyễn Minh Cần được an nhàn nơi cõi phước.”

Tôi đọc mấy thư anh chị em trao đổi tỏ lòng thương tiếc anh Nguyễn Minh Cần, nghẹn ngào đứng dậy đi ra ngoài đường, vừa đi vừa tự hỏi: Nếu năm ngoái, năm kia, được đến thăm anh Nguyễn Minh Cần và chị Inna thì mình sẽ làm gì nhỉ? Chắc cũng không làm một điều gì quan trọng. Chắc tôi chỉ ngồi uống trà với anh và chị Inna, nhìn nhau cảm thông trong hơi thở và nụ cười. Gặp anh chị, trò chuyện với anh chị, giống như được tắm gội trong một dòng suối ấm áp trong trẻo của hai con người đáng yêu và đáng kính trọng.

Tôi chợt nhớ câu thơ Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê. Rồi đọc lại bài thơ Thanh Tâm Tuyền viết cho Quách Thoại: “Còn người thi sĩ đi vào miền đất lạ - không nhớ mảy may biển gió cát muôn trùng.”

Chắc giờ này anh Nguyễn Minh Cần đang “được an nhàn nơi cõi phước” như Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ cầu nguyện. Anh sẽ được quên những chuyện trần gian, “không nhớ mảy may biển gió cát muôn trùng.” Anh đã chứng kiến bao nhiêu cảnh khổ đau của đồng bào, của đất nước. Một lần cùng đi xe qua Đại lộ Arbat ở Moscow, anh Nguyễn Minh Cần chợt chỉ tay lên, nói với tôi: “Anh Văn Doãn đã tự tử từ lầu sáu ngôi nhà này.” Sau gần 40 năm, anh Cần vẫn chưa quên người đồng chí đã từng làm tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân, từng quyết định tị nạn ở Nga với anh, và đã tuyệt vọng khi mất cả quê hương lẫn lý tưởng. Riêng anh vẫn còn nghị lực sống thêm gần nửa thế kỷ, tiếp tục theo đuổi lý tưởng cuộc đời mình. Anh đã hiến dâng cả cuộc đời chỉ mong quê hương được độc lập, tự do, dân chủ
Bây giờ mong hương hồn anh Nguyễn Minh Cần không còn bị trói buộc trong “biển gió cát muôn trùng” này nữa. Những người còn ở lại sẽ tiếp tục con đường anh đã cùng đi qua, mỗi người mang trong mình bầu máu nóng, đức trong sáng của Nguyễn Minh Cần. Anh sẽ sống mãi trong lòng đồng bào, trong phong trào phục hưng tổ quốc. Cầu nguyện anh “an nhàn nơi cõi phước.”


nguyen-minh-can-2
Thêm một người đi xa


Tôi gặp anh chỉ một lần. Mười sáu năm trước, rất dễ nhớ vì năm đó là năm 2000. Bác Sĩ Lâm Thu Vân đề nghị tôi đến Montreal để góp phần trong một chương trình nhiều diễn giả thuyết trình chung quanh chủ đề “Hướng đi nào cho dân tộc Việt Nam”. Một diễn giả đến từ Nga là nhà báo Nguyễn Minh Cần.

Bên cạnh các thế hệ đàn anh, lớp trẻ chúng tôi tham dự chương trình này khá đông. Ngoài tôi còn có Ls Nguyễn Xuân Phước và một số luật sư trẻ từ California. Phước bay từ Dallas sang Boston và từ Boston chúng tôi lái xe qua Canada.

Sau phần thuyết trình buổi sáng, Phước bảo tôi, “Chiều nay ông và tôi sẽ gặp riêng anh Nguyễn Minh Cần. Buổi sáng đông người nói không hết ý, ai cũng thận trọng quá đáng. Tôi lấy hẹn với ảnh rồi”. Phước gặp ai và ở đâu cũng bắt chuyện dễ dàng nhưng hôm đó lấy hẹn chẳng qua vì lòng kính trọng dành cho anh.

Chúng tôi ngồi trong phòng nhỏ. Phước ra ngoài đóng cửa lại để không bị quấy rầy. Thái độ cẩn thận của Phước làm anh Nguyễn Minh Cần cũng có chút ngạc nhiên, có gì bí mật chăng. Thật ra không có gì cả. Chúng tôi đều đã đọc nhau trước và Phước rất vui tính nên cuộc hẹn diễn ra rất thoải mái dù chỉ mới gặp nhau lần đầu. Khác với buổi sáng nói năng rào đón, ba anh em nói chuyện không kiêng cữ. Anh kể khá nhiều về hành trình từ Hà Nội sang Nga từ 1962 cho đến năm 2000.

Cuối cuộc hẹn, Phước nhìn anh và hỏi một cách trân trọng “Anh có gì để lại cho bọn em không?” Anh Nguyễn Minh Cần biết đó không phải là câu hỏi dành cho người sắp chết mà là câu hỏi chân thành của những người thuộc thế hệ sau nhìn lên thế hệ trước.

Anh không trả lời trực tiếp nhưng nói rất thâm trầm về đời sống tinh thần của anh, về đạo Phật, về Niệm Phật Đường Thảo Đường vừa được hoàn thành. Anh chỉ muốn để lại kinh nghiệm, kiến thức nhưng tương lai Việt Nam sẽ đặt nặng trên vai của các thế hệ hôm nay. Anh thuộc về quá khứ. Anh sẽ tiếp tục viết những nhận định chính trị và về chế độ CS nhưng không phải với tư cách là người hoạt động mà để giúp tăng thêm hành trang kiến thức cho các thế hệ đang đấu tranh cho tự do dân chủ.

Tôi và Phước không dám nói gì về đời sống tinh thần của anh nhưng mong anh cố gắng tiếp tục đóng góp cho công cuộc vận động dân chủ còn nhiều khó khăn và cũng bởi vì đảng CS ngày nay cũng chính là đảng CS mà anh đã đương đầu mấy mươi năm trước. Anh đồng ý và từ đó giữ liên lac, đọc nhau và không quên nhau như mới đây anh còn nhắc trong bài viết về Gs Nguyễn Ngọc Bích. Anh rất buồn khi nghe tin anh Nguyễn Ngọc Bích ra đi. Anh mất đi một người bạn đã nhiều lần gặp gỡ. Qua anh Nguyễn Ngọc Bích, anh cảm nhận được giá trị của nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam trước 1975.

Tôi ngậm ngùi đọc bài anh viết về Gs Nguyễn Ngọc Bích và rồi ngậm ngùi hơn khi biết tin anh cũng vừa ra đi.

Cả ba người trong chuyến xe lịch sử mà tôi gặp, anh, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích và Luật sư Nguyễn Xuân Phước đều lần lượt qua đời. Rồi ai nữa, không ai biết, nhưng có một điều mà tôi, và chắc nhiều người cũng đồng ý, vì đời người vô cùng ngắn ngũi hãy sống hết lòng với nhau như mình sẽ không còn sống ngày mai.

Xin chia buồn cùng tang quyến và cầu nguyện hương linh cư sĩ Thiện Mẫn Nguyễn Minh Cần siêu thăng Tịnh Độ.

Boston, Hoa Kỳ 16-5-2016
Trần Trung Đạo
----------------------------

LỊCH SỬ LẠI MẤT THÊM MỘT NHÂN CHỨNG

Nhà văn Vũ Thư Hiên hiện đang sống tại Pháp đã viết bài đặng trên trang facebook của mình để nói lên những cảm xúc của mình khi nghe tin chú Nguyễn Minh Cần vĩnh viễn ra đi. Hiện đã có trên 900 lời chia buồn của bè bạn khắp nơi gửi qua facebook của chú để chia buồn cùng gia đình chú Nguyễn Minh Cần.Dưới đây chúng tôi xin đọc một số đoạn trong bài viết của nhà văn Vũ Thư Hiên.

Thế là Nguyễn Minh Cần đã đi xa.
Đành rằng đã 88 tuổi trời, ông có chia tay với chúng ta âu cũng là lẽ thường. Nhưng mới hôm nào còn được nghe tiếng ông sang sảng bên kia đầu dây, mà hôm nay không còn có thể trò chuyện với ông nữa, thì tin ông mất vẫn cứ làm tôi choáng váng, như thể tin không thực. Cảm giác của con người là vậy - chúng ta quen thấy mọi vật như một cái gì đó vĩnh hằng, cho đến khi không thấy nữa mới biết là không còn.
Cuộc đời Nguyễn Minh Cần gắn liền với lịch sử Việt Nam cận đại. Rõi theo những khúc quanh của cuộc đời ông bằng con mắt chăm chú ta có thể thấy những bước dịch chuyển của tư duy hướng Thiện của những người như ông trong bối cảnh cái Ác lộng hành.
Nguyễn Minh Cần tham gia cuộc đấu tranh cho giải phóng dân tộc rất sớm. Trong phong trào này ông trở thành đảng viên cộng sản cũng rất sớm. Năm 18 tuổi ông đã được bầu làm uỷ viên thường vụ thành uỷ thành phố Huế. Năm 25 tuổi đã là uỷ viên thường vụ thành uỷ Hà Nội, kiêm phó chủ tịch thành phố. Những người được đảng cộng sản tín nhiệm như ông không phải hãn hữu, nhưng cũng không nhiều. Nói tóm lại, Nguyễn Minh Cần được đảng đánh giá cao, được đặt vào hàng những đảng viên ưu tú. Để bồi dưỡng cho hàng ngũ kế cận, năm 1962 ông được cử đi sang Liên Xô (cũ) học tại Trường đảng cao cấp ở Moskva. Đảng không tin tưởng Nguyễn Minh Cần còn tin tưởng ai.
Thế mà đùng một cái, người đảng viên ưu tú ấy, cùng với một số đảng viên cũng ưu tú không kém, vào một ngày đẹp trời bỗng trở thành “phản động”. Cứ thông đồng bén giọt, trên chính trựờng Việt Nam ắt ta gặp một Nguyễn Minh Cần ở tầng cao nhất trong hệ thống cai trị, chứ không phải Nguyễn Minh Cần mà ta quen biết. Không biết đảng có ngạc nhiên với sự thay đổi đột ngột trong người đảng viên ưu tú của mình không, chứ dân thường ngạc nhiên lắm. Từ ngạc nhiên đến tò mò, từ tò mò đến tìm hiểu là những bước ngắn. Tìm hiểu rồi, người ta mới ngộ ra: Thay vì phải sùng bái đảng, coi đảng là lý tưởng, họ lại coi đảng không hơn bộ quần áo, cần thì mặc, thấy nó chật, nó rách, thì vứt.
Nguyễn Minh Cần là một trong số người này.
Bộ quần áo cộng sản thấy chật rồi, rách rồi, thì ông quẳng đi. Chỗ thích hợp cho nó, theo ông, là thùng rác lịch sử.
Bộ máy mật thám của đảng toàn năng đã làm việc rất tốt. Tôi vào tù. Nguyễn Minh Cần sống lưu vong.
Năm 1992 chúng tôi gặp lại nhau. Lần gặp gỡ này đáng nhớ. Nó là lần gặp lại của hai người trước sơ, nay đã thành thân - chúng tôi giờ có chung một con đường.
Ngày trước tôi chỉ biết một Nguyễn Minh Cần, thường vụ thành uỷ, phó chủ tịch thành phố Hà Nội, phụ trách mảng nông thôn, và cũng chỉ gặp ông trong những cuộc họp báo.
Khi ấy Nguyễn Minh Cần là quan, tôi là dân. Chúng tôi có vài cuộc trò chuyện bên lề, là hết. Sơ là sơ thế thôi, có biết nhau, nhưng không hề là bạn.
Giờ đây, chúng tôi có nhiều chuyện để hàn huyên - nhiều nhất là những chuyện thâm cung bí sử mà trước đây mỗi người chỉ được biết một mảng, biết mà không nói ra, không dám nói ra, vì… bộ quần áo đang mặc. Nay vứt nó đi rồi, chúng tôi bàn luận thoải mái, thênh thang. Chẳng hạn như chuyện cái chết thương tâm của bà hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn… Ái Quốc. Cùng sống ở Moskva, chúng tôi gặp nhau thường. Từ những chuyện trò tâm sự tôi hiểu ông: Nguyễn Minh Cần đã tìm được con đường đúng cho mình nhờ lý trí thì ít mà nhờ trái tim thì nhiều.
Bước ngoặt đến, đảng không thuyết phục được ông thì đảng bắt ép ông phải tuân theo. Ông không còn lựa chọn nào khác là phải vạch trần những sai trái của đảng, rồi đến lúc ông phải tuyên bố ly khai nó.
Cuộc sống lưu vong, lại ở trong một nước cũng vẫn là cộng sản, không hề dễ dàng. Nhất là đối với những người không chỉ ly khai đảng của họ, mà còn ly khai với cả lý thuyết mác-xít mà Đảng cộng sản Liên Xô vẫn còn coi là kinh thánh. Người ta cho nhóm đảng viên cộng sản Việt Nam ly khai được tị nạn chính trị trong bối cảnh giữa hai đảng có những bất đồng. Một khi những bất đồng được dàn xếp xong, hiểm hoạ bị trục xuất về Việt Nam vẫn như thanh gươm Damocles lủng lẳng trên đầu Nguyễn Minh Cần và những người bạn ông. Chuyện này dài, nhiều chi tiết đau lòng, không biết Nguyễn Minh Cần có ghi lại đâu đó không?
Năm 1993, ông lập Hội “Phật giáo Thảo đường” đầu tiên ở Moskva. “Ở mọi nước cộng sản ta đều thấy hiện tượng xã hội xuống cấp, suy đồi - ông tâm sự - Nguyên nhân là mọi con đường dẫn tới cái Thiện tâm linh đã bị huỷ hoại tận gốc. Mọi xã hội cộng sản rồi sẽ tiêu vong, điều đó tất yếu, nhưng cái còn lại sau sự sụp đổ của nó mới là cái đáng sợ hơn hết - sự trống vắng mọi niềm tin. Phật giáo là một minh triết tâm linh, không phải một tôn giáo có tổ chức, nó là phương thuốc tốt cho một xã hội tan nát”.
Để lập Hội “Phật giáo Thảo đường” nhỏ bé, chỉ là một căn hộ bình thường, đủ chỗ cho một số không nhiều những tín hữu đầu tiên đến tu tập, ông không có một xu dính túi. Tôi đưa ông một số tiền nhỏ. Ông nói đây là tiền vay và ông sẽ trả. Quả nhiên, năm sau ông đem trả tôi số tiền tôi ủng hộ, nói thế nào ông cũng không chịu. “Khi tôi trả được, có nghĩa là “Phật giáo Thảo đường” đã hoạt động, đã có sự đóng góp của các tín hữu đồng đạo. Ông mừng cho chúng tôi đi”.

Mỗi con người đi xa (tôi không muốn, tôi buồn khi phải đặt bút viết chữ “mất”) bao giờ cũng để lại trong tôi một ấn tượng, như món quà cuối cùng.
Ấn tượng về Nguyễn Minh Cần là hình ảnh một con người trong sáng. Có được lương tâm trong sáng ấy là do ông có một trái tim rất Thiện.
Chả thế mà ông chọn cho mình pháp danh Thiện Mẫn.
----------------------

Lời Phân Ưu của quý Thân Hữu đối với Hương Linh Bác Thiện Mẫn Nguyễn Minh Cần & Tang Quyến


(Chị My Loan đọc phần này)


Chú Nguyễn Minh Cần là Chủ Tịch, sáng lập viên Hội Phật Giáo Thảo Đường,

Bình luận gia chính trị về tình hình thế giớiViệt Nam cho nhiều đài và báo.

Thành viên sáng lập tổ chức Họp Mặt Dân Chủ,

Phóng viên đài RFI, RFA trong nhiều năm.

Với tính cách chân thật, cởi mở và dễ gần, chú Nguyễn Minh Cần được anh em, bè bạn cùng làm việc ở khắp nơi yêu quý, kính trọng coi như người anh cả. Trước sự ra đi của chú, tất cả bè bạn ở khắp nơi trên thế giới đều vô cùng thương tiếc, chỉ trong vòng 3 ngày sau khi chú Nguyễn Minh Cần ra đi, đã có 650 lời chia buồn gửi vào facebook của một thân hữu.

 

(Khôi đọc phần này)

 

Từ Washington, ông Nguyễn Mậu Trinh viết:

 

Từng giai-đoạn, anh Nguyễn Minh Cần đã sống với thái-độ tỉnh-táo và hành-động dứt khoát hiếm thấy, đáng quý : hăng say với tuổi trẻ, chín chắn khi đã lớn và nhẹ-nhàng lúc về già.

Anh là tấm gương sáng cho thanh-niên hôm nay, cho người lạc lối bên kia và cho tuổi cao-niên vẫn loay-hoay về mình.

 

(Chị My Loan đọc phần này)

 

Từ Hoa Thịnh Đốn  nhà văn Trương Anh Thụy gửi lời chia buồn như sau:

Anh Nguyễn Minh Cần trọng kính,
Sự nghiệp đấu tranh giành Tự Do, Dân Chủ cho Quê Hương của một người yêu nước như Anh thì chẳng bao giờ là đủ hay là hết, vì thế cho nên xin Anh cứ thanh thản ra đi để lại cho đàn em kế tiếp...  Cuốn sách “ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUA NHỮNG BIẾN ĐỘNG TRONG PHONG TRÀO CỘNG SẢN QUỐC TẾ” mà Anh là tác giả vừa được đưa vào nhà in, xin Anh phù hộ cho nó được vào tràn ngập trong nước, ….!

Xin chia sẻ nỗi đau buồn cùng chị Inna, các cháu Tịnh-Hằng cùng toàn thể thành viên Ban Quản Trị Hội Phật Giáo Thảo Đường. Cầu xin hương linh Anh sớm đươc vãng sinh nơi đất Phật.

 

(Khôi đọc phần này)

 

Từ Boston ông Trần Trung Đạo đã gửi đến những dòng chia xẻ như sau:

 

Tôi gặp Anh chỉ một lần ở Canada năm 2000 nhưng vẫn còn nhớ rõ. Hôm đó, Anh, Ls Nguyễn Xuân Phước và tôi ngồi trong một phòng nhỏ và nói chuyện suốt mấy tiếng đồng hồ. Chúng tôi cần học hỏi và Anh cũng cần san sẻ tấm lòng, chuyển giao ước vọng chung của đất nước cho thế hệ sau.  Cuối cuộc hẹn, Nguyễn Xuân Phước nhìn Anh và hỏi một cách trân trọng “Anh có gì để lại cho bọn em không?” Anh Nguyễn Minh Cần biết đó không phải là câu hỏi dành cho người sắp chết mà là câu hỏi chân thành của những người thuộc thế hệ sau nhìn lên thế hệ trước. Anh không trả lời trực tiếp nhưng nói rất thâm trầm về đời sống tinh thần của Anh, về đạo Phật, về Niệm Phật Đường Thảo Đường vừa được hoàn thành. Anh chỉ muốn để lại kinh nghiệm, kiến thức nhưng tương lai Việt Nam sẽ đặt nặng trên vai của các thế hệ hôm nay. Anh thuộc về quá khứ. Anh sẽ tiếp tục viết những nhận định chính trị và về chế độ cộng sản nhưng không phải với tư cách là người hoạt động mà để giúp tăng thêm hành trang kiến thức cho các thế hệ đang đấu tranh cho tự do dân chủ. Chúng tôi cám ơn Anh. Cám ơn tấm lòng của Anh dành cho đất nước. Yêu nước không bao giờ quá trễ. Anh chọn đúng thời điểm để đứng về phía tự do, dân chủ và từ đó Anh đi cùng dân tộc. Mười sáu năm sau, chúng tôi “gặp” lại nhau khi làm kỷ yếu tưởng niệm Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, một người bạn thân thiết của Anh và là người anh kính quý của tôi. Tôi ngậm ngùi đọc bài Anh viết về Anh Bích và rồi ngậm ngùi hơn khi biết tin Anh cũng vừa ra đi. Cả ba người trong chuyến xe lịch sử mà tôi gặp, Anh, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích và Luật sư Nguyễn Xuân Phước đều lần lượt qua đời. Rồi ai nữa, không ai biết, nhưng có một điều mà tôi,  và chắc nhiều người cũng đồng ý, vì đời người vô cùng ngắn ngũi hãy sống hết lòng với nhau như mình sẽ không còn sống ngày mai. Kính cầu nguyện hương linh cư sĩ Thiện Mẫn Nguyễn Minh Cần siêu thăng Tịnh Độ.

 

Chị My Loan đọc đoạn này:

 

Từ California nhà văn Nhật Tiến gửi lời chia buồn như sau:

Xin phân ưu cùng tang quyến.

Xin cầu chúc hương linh người quá cố sớm tiêu diêu miền cực lạc.

Ước mong các Đảng viên đương nhiệm của Đảng CSVN sớm noi gương Chí sĩ  Nguyễn Minh Cần để góp phần đem lại Tự Do, Dân ChủNhân Quyền cho Việt Nam.

 

KHôi đọc phần này:

 

Từ Hoa Thịnh Đốn, nhà văn Uyên Thao viết:

 

 "Hết sức đau buồn trước tin anh Nguyễn Minh Cẩn đã vĩnh viễn rời xa chúng ta.

Xin được chia xẻ cùng tòan thể tang quyến sự mất mát lớn lao này .

Chân thành cầu chúc hương linh anh Nguyễn Minh Cần sớm về cõi Tây Phương Cực Lạc."

 

Chị My Loan đọc đoạn này:

 

Từ Niu Dilân (New Zealand) Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ gửi đến những lời thương tiếc  dưới đây:

 

Anh Nguyễn Minh Cần đúng là hình ảnh tiêu biểu cho một Kẻ Sĩ Của Thời Đại.

Tôi không bao giờ quên được lần đầu gặp anh tại nhà của anh Trần Quốc Bảo ở Arcaida. Cali năm nào.

 

Hôm đó, chúng tôi ngồi nói chuyện suốt buổi chiều dưới bóng cây trước sân nhà anh Bảo. Đêm đó anh em ngồi bên ấm trà nói chuyện đến quá nữa đêm. Anh Nguyễn Minh Cần nhận được trọn vẹn sự thương mến và kính phục của tôi.

 

Tôi xin thành kính chia buồn với gia đình và tang quyến. Cầu xin cho anh sớm được an nhàn nơi cõi phước. Một người như anh Nguyễn Minh cần thì Phật cũng đón và Chúa cũng rước.

 

Thương tiếc anh

 

Lm Nguyễn Hữu Lễ

 

Khôi đọc đoạn dưới đây:

 

Từ Hoa Kỳ Ông Đỗ Trọng Linh gửi đến lời chia buồn như sau:

 

Xin chia buồn cùng tang quyến chí sĩ Nguyễn Minh Cần, người can đảm dấn

thân tranh đầu cho dân tộc khi còn rất trẻ và tiếp tục đấu tranh cho dân tộc

đến cuối đời, mất mát này không chỉ với gia đình ông mà còn là một mất

mát lớn cho những người cùng chí hướng

Xin được nghiêng mình tưởng nhớ ông

 

Chị My Loan đọc đoạn này:

 

Không chỉ có bè bạn từ nước ngoài gửi lời chia buồn trước sự ra đi của chú Nguyễn Minh Cần, rất nhiều nhà hoạt động xã hội, nhà văn, nhà thơ từ trong nước cũng gửi đến đây những lời phân ưu

 

Từ Đà Lạt ông Mai Thái Lĩnh đã viết:

 

Xin chuyển lời chia buồn của các bạn ở Đà Lạt đến gia đình anh Nguyễn Minh Cần và các bạn hữu của anh Cần. (Vợ anh Cần là người Nga nên có lẽ chỉ có các anh chị ở ngoại quốc mới có điều kiện liên lạc và phân ưu với gia đình).

Dù sao thì anh Cần cũng đã sống khá thọ (88 tuổi, theo âm lịch là 89 tuổi). Tôi cũng không hiểu bản thân mình có thể sống đến từng ấy tuổi hay không, và đến lúc đó thì chế độ này có thay đổi hay không? Nhưng thay đổi được một chế độ toàn trị kiểu châu Á như Việt Nam  thì không phải chỉ muốn là được. Cần phải biến điều đó thành ý chí của một số đông người, đủ đông để có thể làm thay đổi chế độ.

Chúng ta đều là người đã có tuổi (thất thập cổ lai hy), vì vậy chỉ có thể tâm niệm một điều: không bao giờ rời xa con đường đã chọn, và cố giữ cho đến hơi thở cuối cùng. Điều ấy xem ra cũng rất khó chứ không phải dễ dàng…

Anh Nguyễn Minh Cần đã hoàn tất hành trình của mình - một sự lựa chọn không thỏa hiệp. Đó là điều đáng trân trọng đối với một trí thức. Và đó cũng là tấm gương đáng cho những người khác noi theo.

 

Khôi đọc đoạn dưới đây:

 

Từ trong nước, ông Hà Sĩ Phu gửi đến những dòng sau:

 

Làm ơn chuyển giúp chúng tôi lời chia buồn thiết tha đến gia đình bác Nguyễn Minh Cần, một chứng nhân lịch sử về sự lựa chọn lịch sử, về sự phân ly tất yếu giữa những người trí thức chân chính với cái con đường Cộng sản ảo tưởng, bậc thầy về lừa mỵ.

Bác Minh Cần vừa mới ký vào một văn bản phản đối nhân vụ Cá chết miền Trung mới đây thôi mà bác đã từ biệt chúng ta! Chúc linh hồn bác Minh Cần bất tử, bác sống mãi trong lòng những người Việt Nam yêu nước..

Kính thư

Hà Sỹ Phu

 

Chị My Loan đọc đoạn này:

 

Từ Pháp bà Quản Mỹ Lan đã viết:

 

Ông Nguyễn Minh Cần  (1928-2016) sinh sống tại một nước Cộng Sản (Liên Xô) nhưng được cộng đồng người Việt hải ngoại biết đến như một nhà báo. Trước khi là nhà báo ông là một nhà chính trị ( Uỷ viên Thường vụ Thành uỷ Hà Nội, kiêm phó chủ tịch Uỷ ban Hành chính thành phố Hà Nội.) nhưng trước khi là một nhà chính trị ông là một người Việt Nam, một người Việt Nam yêu nước. 

Con người chính trị Nguyễn Minh Cần khi đang ở vị trí sáng chói trong đảng CS đã tỉnh ngộ khi sang học tại trường đảng cao cấp của Liên Xô​ và ông đã dứt khoát từ bỏ cái đảng (1964) mà ông đã góp phần hình thành.

​Chính lương tâm của một con người trung thực đã đưa ông đến quyết định này.

Ông mất khi được mọi ngừi quý trọng, thương yêu.​

Ông mất khi sứ mạng tìm tự do, dân chủ, nhân quyền cho đất nước chưa hoàn tất.​

Thế hệ sau ông phải lãnh nhận sứ mạng cao quý này, tiếp nối con đường ông đã đi dở dang..

 

Khôi đọc đoạn dưới đây:

 

Ông Tiêu Dao Bảo Cự gửi lời chia buồn như sau:

Xin chia buồn cùng chị Cần, gia đìnhthân hữu của anh Cần.

Anh Cần là người CS "giác ngộ" sớm và đã đóng góp nhiều vào việc vạch trần sai lầm của chế độ CSVN.

Anh cũng đã lớn tuổi rồi nên theo mệnh trời thôi. Nhưng chúng ta luôn hi vọng vào triết lý cũng là thực tiễn "tre già măng mọc".

 

Chị My Loan đọc đoạn này:

 

Từ Hà Nội, bác sĩ Phạm Hồng Sơn viết:

 

Vâng. Không tránh được, các thế hệ con người cứ lần lượt ra đi trong khi vận nước trầm luân. Buồn quá!

 

Không hiểu gia đình, thân hữu của một người en exil lâu như thế sẽ tổ chức tang lễ ra sao (?). 

 

Nếu có chia buồn được với gia đình, mong chị giúp chuyển lời chia buồn của em nhé. Cảm ơn chị!

 

Khôi đọc đoạn dưới đây:

 

 

Nhà  thơ Bùi Minh Quốc gửi đến những lời phân ưu như sau:

 

Xin chuyển giùm lời chia buồn của tôi đến gia đình anh Nguyễn Minh Cần. Sự nghiệp đấu tranh giành tự do, dân chủ, nhân quyền trên đất nước VN mà anh Nguyễn Minh Cần là một trong những người tiêu biểu đi tiên phong luôn được các thế hệ tiếp nối và không ngừng phát triển, tôi thấy rõ thế và tin ở sức mạnh tất thắng của chính nghĩa; với niềm tin này, tôi tiễn đưa anh Cần thong dong về cõi vĩnh hằng.
=----------------------

Một đời người  đầy ý nghĩa

(Những lời tiễn biệt chú Nguyễn Minh Cần)

Kính bạch chư Tôn Đức Tăng, Ni đã từ  xa  tới đây chứng minh cho tang lễ của chú Thiện Mẫn

Kính thưa quý bà con phật tử cùng toàn thể các cô, bác, anh,chị, em bè bạn xa gần  đến đây chia tay với chú Nguyễn Minh cần.

Lần cuối cùng gặp chú, ngày 25-4, chú Nguyễn Minh Cần chuyển cho tôi tập giấy tờ của chùa và nói rằng, đây chú chuyển cho cháu toàn bộ giấy tờ của chùa nhé. Chú hoàn thành nhiệm vụ rồi đấy. Nhẹ cả người! Nói rồi chú cười rất thoải mái, ngồi ngả người trên ghé, đúng dáng vẻ nhẹ cả người thật.

Hóa ra đó là những lời cuối cùng tôi được nghe chú nói. Đó cũng là lời chốt lại cho một đời người, một đời người đầy ý nghĩa của chú. Chú đã hoàn thành sứ mệnh mà cuộc đời trao cho chú với đầy đủ cả Dũng, Trí và Bi.

Cả cuộc đời chú đã hoàn thành chữ “Dũng” thật hoàn hảo. Năm 1945 khi chưa được 17 tuồi, vẫn còn là một  học sinh, chú Nguyễn Minh Cần đã tham gia khởi nghĩa ở quê nhà, góp phần dành lại độc lập cho đất nước. Tuổi 17, cái tuổi mà con người tưởng như chỉ biết ăn, biết chơi, chú đã là một chiến sỹ, không sợ hiểm nguy, tham gia những công việc của các bậc cha chú. Suốt 6 năm trường kỳ tham gia kháng chiến, chú đã không hề nản lòng nhụt chí.

 Chú đã sống với chữ Dũng của một đấng nam nhi như thế.

Năm 1962, lúc đó đã là phó chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, chú sang Liên Xô du học tại trường đảng cao cấp. Với lứa tuổi đó, với cương vị đó, nếu chú coi trọng địa vị thì chú sẽ đi rất xa. Thế nhưng những năm tháng học trong trường đảng, được tiếp xúc với những tài liệu về Stalin, chú đã dám nói lên quan điểm riêng của mình, ủng hộ đường lối chống tệ sùng bái cá nhân của Liên Xô lúc đó, ủng hộ những gì mà chú thấy nhân bản hơn, công bằng hơn.

Sau này khi Liên Xô bắt đầu quá trình cải tổ, đổi mới với khẩu hiệu Perestroika của Tổng bí thư Gorbachov, chú đã tích cực ủng hộ đường lối dân chủ của Liên Xô, và sau này là nước Nga. Những ngày chế độ dân chủ của nước Nga bị nguy hiểm, chú không ngần ngại đi biểu tình, tham gia phòng tuyến của phong trào dân chủ ở Nga, tham gia bảo vệ nước Nga.

Rất nhiều năm chú không xin vào quốc tịch Nga, chú vẫn mong có ngày được trở về Việt Nam đóng góp công sức cho Tổ quốc thân yêu của mình. Sau này khi có điều kiện chú đã dành tất cả nhiệt huyết, thời gian cho công cuộc vận động dân chủViệt Nam. Chú là một chứng nhân của một thời kỳ lịch sử nhiều sự kiệnViệt Nam. Thời gian trôi qua những nhân chứng sống này rồi sẽ lần lượt ra đi, chú biết như vậy nên mấy chục năm qua cho đến tận trước ngày vào viện và ra đi vĩnh viễn, chú đã miệt mài làm việc không kể ngày đêm để viết lại những gì chú đã là nhân chúng, nhữnggì chú đã biết. Đây cuốn “công lý đòi hỏi” được in năm 1997 để nói lên bao chuyện oan trái, bao nhiêu nỗi đau của những nạn nhân các vụ án oan khiên từ vụ nhân văn giai phẩm những năm 50 đến vụ án xét lại chống đảng những năm 60 thế kỷ trước. Đây cuốn “chuyện nước non” in năm 1999 chú đã dành bao nhiêu tâm trí để viết lên những suy nghĩ về những chính sách mới hiện nay của đất nước, để bàn về phong trào dân chủ trong nước. Nhưng cuốn sách quan trọng nhất của chú là cuốn “đảng cộng sản Việt Nam qua những biến động của phong trào cộng sản quốc tế” để viết về 70 năm hình thành và phát triển của đảng cộng sản. Một cuốn sách vô cùng quan trọng về những gì chưa được viết, về những gì chưa được nói, để thế hệ mai sau biết những gì đã xảy ra chân thực và đầy đủ. Như chú viết trong lời tựa của cuốn sách, “Người viết tự thấy 
mình có trách nhiệm nói lên SỰ THẬT về những vấn đề này thay cho 
bạn bè thân mến của mình cùng chí hướng, cùng tư tưởng, cùng quan 
điểm đã nằm xuống mà không có điều kiện nói ra.”

 Chính vì cảm nhận được trách nhiệm của lương tâm mình với lịch sử, với bè bạn với những thế hệ mai sau, Chú đã bắt đầu viết cuốn sách này từ năm 2000, suốt mười mấy năm qua chú đã làm việc ngày đêm, tiết kiệm từng phút để kịp hoàn thành cuốn sách.  Và chú đã vừa kịp hoàn thành cuốn sách trước khi ra đi ít lâu. Hiện nay cuốn sách đã được lên khuôn, và ít ngày nữa sẽ được ra mắt độc giả. Chú đã thực hành hoàn hảo chữ Dũng của lương tâm như thế đấy.

Chú Cần là người một nhà khoa học với đúng nghĩa của từ cao quý này. Chú làm việc cẩn thận, có hệ thống, có trách nhiệmđặc biệt với lương tâm của một người cầm bút, chỉ viết những gì mình biết, những gì đã được kiểm chứng.

Yêu ai thì bảo là yêu.

Ghét ai thì bảo là ghét.

Dù ai ngon ngọt nuông chiều, cũng không nói yêu thành ghét.

Dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu.

Chỉ nhìn danh mục sách chú dịch, viết thôi cũng đủ hình dung được khối lượng khổng lồ công việc chú đã làm: 125 cuốn sách dịch, 6 cuốn sách nghiên cứu, hàng ngàn bài báo.

 Nhưng công trình đáng giá nhất của chú là cùng với cô Inna tìm ra đạo Phật, con đường tu tập tâm linh cho chính mình. Chú không chỉ tìm ra con đường tâm linh cho mình, mà còn dành hết hơn 20 năm cuối đời mình cho việc tổ chức, hoằng dương đạo Phật ở Moskva này. Nếu không có sự hy sinh hết lòng, tận tụy hết lòng của chú thì không thể có Hội Phật Giáo Thảo Đường và ngôi chùa Thảo Đường ngày hôm nay. Suốt hơn 20 năm, chú không hề bỏ một ngày rằm, ngày mồng 1 nào không lên chùa tụng kinh. Chùa dù vắng, dù đông, dù mưa, dù nắng chú đều có mặt đầy đủ, đúng giờ, làm lễ cho mọi người. Chú vui với chùa, buồn với chùa, lo lắng cho ngôi chùa như cho ngôi nhà yêu quý  của mình. Chỉ 2 tháng trước khi  ra đi, dù còn rất yếu sau cơn nhồi máu cơ tim hồi tháng 11 năm trước, chú vẫn nhận trách nhiệm điều hành Chùa khi mọi người đề nghị. Chú nói, chú đã phát nguyện phục vụ chùa đến hơi thở cuối cùng nên dù rất mệt chú vẫn cố gắng cáng đáng.

Chú đã là sống một cuộc đời của người đầy trí tuệ như thế đấy.

Hôm chú ra đi về cõi vĩnh hằng, tôi đến nhà để mang cho chú một bộ quần áo. Tìm cả tủ, tôi không thấy một chiếc áo nào còn tươm tất. Tất cả đều đã sờn vải, bạc mầu. Vậy mà hôm cuối cùng gặp chú, chú vừa tươi cười đưa cho tôi 5000 rúp, tiền tiết kiệm từ số lương hưu ít ỏi để cúng cho quỹ xây chùa. Đã mấy chục năm nay, chú vẫn luôn tiết kiệm tiền lương hưu của mình để ủng hộ chùa như thế. Toàn bộ tiền tiết kiệm của hai cô chú cho lúc tuổi già, chú đã cúng dường cho việc mua đất và xây dựng chùa Thảo Đường. Chú nói, chết là hết, có gì phải lo đâu, hãy để những đồng tiền này mang lại lợi ích cho những người còn sống. Trong mấy năm qua Chú đã ủng hộ cho quỹ xây chùa 100000 rúp và 8760 đô la mỹ.

Rất nhiều năm qua chú cùng vợ là cô Inna đã luôn tích cực làm các hoạt động từ thiện. Chú và cô quyên góp quần áo, đồ dùng cho nạn nhân động đất ở Armenia,nạn nhân phóng xạ ở Chernobyl, nạn nhân chiến tranh ở Chechnya, người vô gia cư ở Moskva. Mỗi người nghèo chỉ viết một mảnh giấy rất nhỏ để cám ơn cô, chú, vậy mà túi chứng từ làm từ thiện của chú và cô đã nặng gần chục kg giấy.  Không chỉ giúp người nghèo, chú còn cứu giúp chó, mèo hoang, nuôi chim, nuôi sóc trong rừng khi mùa đông hiếm thức ăn. Trong nhà chú luôn luôn có 2 thùng rác. Một thùng rác để vứt vào thùng rác chung, và 1 thùng rác dễ phân hủy để mang bỏ vào rừng nuôi đất.

Chú đã học được hạnh từ bi rộng lớn của đạo Phậtthực hành chữ Bi thật chuyên cầnhoàn hảo như thế.        

Sáng hôm 13-5, khi vừa được báo chú Cần đã không còn nữa, tôi đã đến gặp bác sỹ trực và hỏi điều gì xảy ra với chú những giờ phút cuối cùng. Bác sỹ nói rằng tối hôm đó mọi việc diễn ra bình thường, an ổn, chú không đau đớn gì, đột nhiên đến 4 giờ sáng chú khó thở và đến 5 giờ thì trút hơi thở cuối cùng. Chú ra đi trong sự tỉnh táo và bình yên, không đau đớn gì.  Những gì cần làm đã làm xong, những gì phải làm đã hoàn thành. Không còn gì phải nuối tiếc.

Chú Cần ơi, chúng cháu sẽ thay chú chăm sóc cô Inna, tiếp tục công việc hoàn thành ngôi chùa Thảo Đường, xin chú hãy yên tâm CAO ĐĂNG PHẬT QUỐC, trở về trong vòng tay yêu thương của Phật, trở về nơi cõi an vui vĩnh hằng và tiếp tục con đường tu tập của mình cho đến ngày viên thành đạo quả.
--------------------

LỜI CUỐI CHO CHÚ

Kính thưa chư Tôn Đức,

Thưa toàn thể anh chị em đạo hữu, bằng hữu và tang quyến.

 

Không hiểu vì sao khi chú mất, tôi lại nghĩ mình cần phải viết điều gì đó cho chú, và chính tôi mới hợp nhất trong vai trò người viết này. Có lẽ vì trong quan hệ giữa tôi và chú có cả hai cực Dương và Âm thuần tịnh nhất để tạo nên một khối chân thực. Chính tôi là người chống và phê bình chú nhiều nhất và cũng chính tôi đã thấu được lòng yêu thương chân thành của chú đến người Việt ở đây và nỗi khát khao đem Phật pháp đến cho họ.

Và tôi viết những dòng này cho chú.

 

Chú ơi!

Vậy là chú đã rời bỏ chốn này, kiếp này!

Nhiều người nói chú mất đi mà còn nhiều việc dở dang, nhiều hoài bão chưa thành. Nhưng con không nghĩ vậy, hãy tin con, chú đã đến cuộc đời này và chú hoàn thành trách nhiệm một cách tốt đẹptrọn vẹn.

Dở dang chi khi Hội Phật Giáo Thảo Đường càng ngày càng lớn mạnh. Hội chúng ta dưới sự dẫn dắt của chú trở thành Hội có nhiều Phật tử am hiểu sâu về Phật Pháptinh tấn trong tu tập.

Hoài bão nào chưa thành khi tâm nguyện lớn nhất của chú là thấy được ngôi chùa trên đất Nga đã trên đường hoàn tất và quá trình hoàn thiện sẽ tiến hành và kết thúc trong nay mai.

 

Nhớ khi xưa chú run run đưa tất cả số tiền dành dụm của hai cô chú cúng dường cho việc xây chùa mà chúng con học tinh thần BỐ THÍ.

Nhớ đến những hoạt động thường nhật của chú và sự kính cẩn trước chư Tôn Đức của chú mà chúng con học được TRÌ GIỚI.

Nhớ hình bóng xiêu vẹo của chú, dáng đi nghiêng nghiêng mà vẫn cố đảnh lễ chư Phật, vẫn cố làm chủ lễ, chúng con thấy mình cần phải TINH TẤN.

Nhớ những ngày Tết Nguyên Đán về mà chú cháu mình vài mống người vẫn kiên trì tụng kinh, niệm Phật, quyết không lơ là với Phập pháp, chúng con được thử thách đức NHẪN NHỤC.

Nhớ những tháng năm mùa đông giá lạnh, chú rét mướt mang thức ăn đi nuôi chim, sóc, mang rác phân huỷ được vào rừng để làm tốt đất, chẳng có việc gì hữu ích mà chú không làm; sống tỉnh giác trong từng hành động, từng hơi thở, chúng con có niềm tin vào THIỀN ĐỊNH.

Nhớ bao nhiêu năm trời giữa những khởi sắc mạnh của các tôn giáo tại nước Nga sau chiến tranh lạnh, chú bền bỉ đi tìm con đường tâm linh và đạo giải thoát thật sự, rồi quyết định nương vào Tam Bảo, vào Phật, Pháp, Tăng, và chọn được hai vị lãnh đạo tinh thần hoàn hảo cả trí tuệtừ biHòa thượng Thích Minh TâmHòa thượng Thích Như Điển, chúng con như được tưới mát bởi suối nguồn của TRÍ TUỆ.

Và bao nhiêu công trình chú để lại cho đời thật đúng là tấm gương soi trong sáng, thánh thiện nhất cho việc trả một cách hoàn hảoTỨ TRỌNG ÂN.

 

Vâng, vậy thì chú hỡi, chú đã mang đến cho đời này nhiều NIỀM VUI, NIỀM THƯƠNG YÊU, NIỀM CHIA SẺ và NIỀM HẠNH PHÚC. Và CHÚ ĐÃ HOÀN THÀNH TRÁCH NHIỆM CỦA KIẾP NHÂN SINH NÀY MỘT CÁCH TỐT ĐẸP, CHÂN THÀNHTRỌN VẸN.

Giờ chú hãy yên lòng ra đi.

Con không khóc cho chú đâu. Tại sao khóc? Khi người đạo hữu của chúng con đã sống một cuộc đời có ý nghĩa?!!

Con không khóc cho chú đâu. Tại sao khóc? Khi người cha, người chú của chúng con đã chiến đấu cho cuộc đời thêm đẹp hơn?!!

Con không khóc cho chú đâu. Tại sao khóc? Khi người lãnh đạo của chúng con đã hoàn tất trách nhiệm của mình một cách xuất sắc.

Giờ chú hãy vui vẻ mà ra đi.

 

Chúng con sẽ không khóc đâu mà sẽ ngồi đây bên chú để hướng dẫn và cùng đồng hành với chú để đưa chú về chốn Cực Lạc nơi không còn khổ đau nữa.

Bước vào thế giới vong linh một thế giới tràn ngập tâm thức, những vong linh vẫn còn vất vưởng chắc chú sợ hãi lắm phải không? Những ngọn gió nghiệp quật xuống quật lên làm chú kinh hoàng phải không? Đừng sợ, chú thương mến, chư Tôn Đức củng các đạo hữu khác đang cùng ngồi đây cầu nguyện cho chú.

Chú đang thấy người thân khóc thương, và nghĩ có thể bấu víu cầu cứu họ. Không đâu chú, đã bước vào thế giới tâm thức thì không ai ở cõi trần này còn giúp chú được nữa. Hãy định tâm để nghe những lời kinh kệ, cầu nguyện người khác đang tụng niệm cho chú. Và cố gắng tụng niệm theo.

Chú đang thấy đâu đó những ánh sáng chói rực, nóng bỏng phải không? Đừng sợ! Chính những ánh sáng chói chang, rực rỡ nhất đó lại là ánh sáng của hào quang các chư Phật. Khi nghe tiếng niệm Phật của chúng con, chú cố niệm theo hồng danh của Đức Phật A Di Đà rồi phóng hết sức bình sinh như tên bắn vào đó. Và...

CHÀO MỪNG CHÚ ĐẾN VỚI CÕI TỊNH ĐỘ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC QUỐC.

Vâng con tin chắc chú sẽ ra đi trong tư thế của người dũng cảm, trong trí huệ của người con Phật và trong tinh thần “HOA KHAI KIẾN PHẬT”.

Nguyện cho chú vãng sinh Cực Lạc Quốc!

Nguyện sẽ gặp lại chú trên cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà.

Nam Mô A Di Đà Phật

Quảng Thiện

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10525)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11225)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12754)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10807)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16657)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10814)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22965)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12022)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11492)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10684)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12336)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11195)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10019)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10328)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11907)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10698)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12373)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9813)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11269)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13841)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9578)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12626)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9699)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10458)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10550)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10320)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9900)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11058)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12016)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10143)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10785)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9896)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8766)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9495)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14518)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8779)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12553)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10424)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9085)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10559)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9337)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8799)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10513)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9192)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8364)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12028)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9697)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10215)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10228)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19132)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9416)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8985)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9588)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9017)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14755)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10093)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8349)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8950)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8975)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8740)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9370)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14596)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9036)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8773)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9048)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10532)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8641)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9991)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24280)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10177)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11026)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8997)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9468)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8002)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9267)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15349)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10339)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9583)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17444)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21396)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12165)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26046)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7975)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14806)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10633)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11349)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9532)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18678)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12357)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11886)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10752)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13343)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10000)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9270)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9379)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15900)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25633)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant