Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 3: Tu thiền là gì?

26 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7632)
Chương 3: Tu thiền là gì?

CHÁNH NIỆM CƠ BẢN

Thiền sư: Henepola Gunaratana
Dịch Việt: Lương Thanh Bình

Chương 3: Tu thiền là gì?

Thiền tập là một từ ngữ, mà từ ngữ thì được dùng bởi nhiều người và bằng nhiều cách khác nhau. Điều này dường như là một điểm rất thông thường, nhưng thật ra thì không phải vậy. Rất ư là quan trọng để xác định người nói đang muốn nói về điều gì. Mỗi phong tục đều có phương pháp tu tập tâm linh mà người bản xứ đều dùng từ ngữ “thiền định” để gọi. Đó là tuỳ thuộc vào sự hời hợt của cái định nghĩa mà con người gán cho cái từ ngữ đó. Mọi người trên thế gian đều làm việc đó, từ Phi châu cho đến người Bắc cực. Phương pháp thì khác biệt rất to lớn, và chúng tôi không có ý định mổ xẻ vấn đề này vì có nhiều quyển sách đã làm việc đó. Ở đây, chúng tôi chỉ giới hạn sự thảo luận của chúng ta trong phạm trù của những người Tây phương về từ ngữ này.

Theo truyền thống Cơ đốc giáo, chúng tôi thấy hai cách tu tập trùng lặp lên nhau được gọi là “Lời yêu cầu khẩn thiết” và “Sự trầm ngâm.” “Lời yêu cầu khẩn thiết” là hướng thẳng đến một vài vị thần thánh nào đó. “Sự trầm ngâm” là kéo dài ý nghĩ về điều gì đó cho nó dài ra trong một khoãng thời gian, thường thì là một quan niệm hay một đoạn kinh nào đó. Từ quan điểm tâm linh của từng tập quán, cả hai hành động trên đều là sự huấn luyện cho khả năng tập trung tâm ý. Những tư tưởngý thức thông thường khi lan tràn thì sẽ bị câu thúc, hạn chế, và được đưa vào một vùng hoạt độngkiểm soát. Kết quả của cáp pháp này là: sự bình tĩnh sâu lặng, sự chuyển hóa sinh lý thật chậm, và trạng thái bình an, thoải mái

Thiền Yoga phát sinh từ truyền thống Ấn độ giáo, chỉ chuyên nhất cho tính tập trung. Sự huấn luyện cơ bản theo truyền thống này bao gồm tập trung tâm vào một đối tượng: một viên đá, ngọn lửa của một cây nến, một âm giai hay bất cứ gì, và giữ không cho tâm đi lung tung. Có được kỷ năng căn bản, hành giả Yogi sẽ phát triển sự huấn luyện tới nhiều đối tượng phức tạp hơn: tụng kinh, hình tượng tôn giáo có nhiều màu sắc, những nguồn năng lượng trong thân thể vv… Mặc dù vậy, không cần biết đối tượng có phức tạp ra sao, phương pháp vẫn đơn thuần là huấn luyện tập trung.

Trong truyền thống Phật giáo, sự tập trung cũng có giá trị rất cao. Nhưng cộng thêm vào đó, còn quan trọng hơn nữa là “sự Tỉnh giác.” Tất cả pháp môn tu thiền trong Phật giáo đều hướng về phát triển Tỉnh giác, chỉ dùng sự tập trung tâm ý như là một phương tiện. Truyền thống Phật giáo thì rất rộng rãi, bằng bất cứ cách nào, chỉ có vài cách thuận tiện để đi tới mục đích. Thiền tông có hai hướng đi khác nhau. Cách thứ nhất là “lao thẳng vào sự chú tâm bằng tất cả mọi năng lực (khán thoại đầu).” Bạn ngồi xuống đó, quăng bỏ tất cả ra khỏi tâm, chỉ đơn thuần ngồi đó với sự chú tâm. Nghe qua thì rất đơn giản, nhưng thật không đơn giản chút nào cả. Một cuộc trắc nghiệm ngắn ngũi sẽ chứng minh sự khó khăn ra sao. Cách thứ hai, thì được dùng theo phái Lâm tế là, “lừa dối tâm ra ngoài tư tưởng ý thức để đi vào sự tỉnh giác đơn thuần.” Để làm được điều này, thiền sinh sẽ được cho một Công án để giải, nó sẽ đưa thiền sinh vào một tình trạng huấn luyện rất ư là khủng khiếp. Bởi vì, thiền sinh không thể nào thoát ra khỏi cơn thống khổ của điều kiện, người ấy phải vượt thoát vào trong kinh nghiệm đơn thuần của phút giây hiện tại. Không có nơi nào khác để đi. Thiền tông thì rất là khó khăn. Nó thì rất hiệu nghiệm cho một số người, nhưng nó rất ư là khó.

Một phương pháp khác trong Phật giáo thì gần như trái ngược, đó là Mật tông. Tư tưởng ý thức, ít nhất cũng là phương cách chúng ta thường hay làm, là sự biểu lộ của cái Ngã, cái “Ta” mà bạn thường nghĩ bạn là. Tư tưởng ý thức thì liên đới chặt chẽ với quan niệm Bản ngã. Quan niệm bản ngã hay Ngã thì không gì hơn là một chuỗi phản ứnghình tượng tâm linh đã được trùm lên dòng vận hành của sự chú tâm thuần khiết. Mật tông tìm kiếm để đạt được sự chú tâm thuần khiết bằng cách hủy hoại đi cái hình tượng “Ta” này. Đây là sự huấn luyện qua quá trình hình dung. Thiền sinh nhận được một hình tượng tôn giáo nào đó để chú tâm vào, ví dụ như, một trong những vị thần trong đền thờ Mật tông. Thiền sinh sẽ thâm nhập cho đến khi nào mình trở thành vị thần ấy. Thiền giả lấy ra cái định danh riêng của mình và thay thế cái khác vào. Bạn có thể tưởng tượng ra là cần bao lâu thời gian để làm trọn vẹn việc này, nhưng nó lại có kết quả. Trong suốt quá trình, thiền giả có thể xem xét cái đường lối mà cái Ngã được tạo nên và tồn tại. Thiền giả rồi sẽ nhận ra bản chất tùy tiện của các Ngã, ngay cả “cái Ngã” của chính mình, để rồi thiền giả không còn chấp chặt vào cái Ngã đó nữa. Thiền giả sẽ rơi vào trạng thái mà người đó có thể chọn cái Ngã của chính mình, hay cái Ngã của bất cứ ai mà mình muốn, hay là không chọn cái Ngã nào cả. Kết quả là: Sự chú tâm thuần khiết. Mật tông thì không phải là một đường lối tu tập dễ dàng gì.

Thiền quánphương pháp tu tập xưa cũ nhất trong Phật giáo. Phương pháp này được ghi lại trong Kinh Đại niệm Xứ đã được dạy bởi chính đức Phật. Thiền quán là trực tiếp và vun trồng từ từ Chánh niệm hay Tỉnh giác. Nó phát triển từng bước một theo thời gian. Sự quan tâm của thiền sinh là trực diện với sự xem xét cao độ về mọi mặt trong đời sống của mình một cách cẩn thận. Thiền sinh tập sự nhận ra càng nhiều hơn dòng kinh nghiệm về cuộc đời mình. Thiền quán là một phương phát rất tinh vi, và cũng rất ư là thâm sâu. Nó tuy là một hệ thống rất xưa cũ và có qui chế trong lối tu tập sự bén nhạy, là một bộ môn tập tành cho thiền giả trở nên nhạy bén hơn đối với những kinh nghiệm cuộc đời. Có chú tâm lắng nghe, thấy toàn diện, và cẩn thận tra vấn. Chúng ta học cách ngữi chính xác, chạm hoàn toàn, thật sự để ý tới những gì chúng ta đang cảm giác. Chúng ta học nghe tư tưởng của mình mà không dính mắc vào chúng.

Đối tượng tu tập thiền quán là học cách chú ý. Chúng ta hay nghĩ rằng đó là những gì chúng ta đang luôn luôn làm, nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Nó đến từ sự thật là, chúng ta chỉ chú ý rất ít đối với mọi kinh nghiệm đời sống của mình đang xảy ra, giống gần như chúng ta đang ngủ. Chúng ta chỉ đơn giản không chú ý đủ để nhận ra rằng chính mình không có chú tâm. Đó là một tình trạng tiến thoái lưỡng nan khác.

Xuyên qua quá trình tu tập Chánh niệm, chúng ta dần dần trở nên nhận biết ra về những gì mình thật-sự-là ở phía dưới cái hình tượng “Ngã” của mình. Rồi chúng ta tỉnh mộng ra, thật sự cuộc đời là ra sao. Nó không chỉ là một cuộc diễn hành đi lên đi xuống, một que kẹo đập mạnh vào cổ tay. Đó chỉ là một ảo tưởng. Cuộc sống có sự cấu tạo rất sâu xa, thâm thúy hơn nhiều nếu chúng ta chịu bận tâm nhìn và nhìn một cách đúng đắn.

Thiền quán là một dạng thể huấn luyện cho tâm, nó dạy bạn biết thế nào để kinh nghiệm thế gian theo một chiều hướng mới. Bạn sẽ học lần đầu trong đời mình về những gì thật sự xảy ra cho thân-tâm của mình, đối với chung quanh và bên trong. Nó là một tiến trình của sự khám phá tự thân, một phương pháp mang tính cách điều trathiền sinh phải quan sát những kinh nghiệm riêng của mình, trong khi tham dự và cùng chúng diễn tiến. Sự tu tập phải luôn được thực hiện với thái độ tích cực.

“Hãy quên đi những gì tôi đã dạy. Quên hết những học thuyết, sự phán xét, và khuông mẩu. Tôi muốn hiểu bản chất thật sự của đời sống. Tôi muốn biết những gì mà cái kinh nghiệm của sự sống thật sự ra sao. Tôi muốn hiểu rõ sự thật và những chất lượng sâu sắc của đời sống, mà tôi không muốn chỉ chấp nhận sự giải thích của người khác. Tôi muốn tự mình thấy nó.” Nếu bạn theo đuổi sự tu tập của mình với thái độ này, bạn sẽ thành công. Tự bạn sẽ thấy mình quan sát sự vật một cách khách quan, đúng như-nó-là — vận hành và thay đổi trong mỗi sát na thời gian. Cuộc sống rồi sẽ trở nên phong phú không thể ngờ và không thể nào diễn tả hết được. Nó chỉ có thể kinh nghiệm mà thôi. 

Theo ngôn ngữ Pali thì Thiền Tuệ Vipassana Bhavana. Bhavana bắt nguồn từ chữ gốc “Bhu”, có nghĩa là lớn lên hay trở thành. Do đó, Bhavana có nghĩa là vun trồng, và từ ngữ này luôn luôn dùng để chỉ cái Tâm. Bhavana có nghĩa là “vun trồng tâm.” 'Vipassana' thì được chuyển hóa từ hai chữ gốc. 'Passana' nghĩa là thấy hay nhận thấy. 'Vi' là tiếp đầu ngữ với nghĩa bao hàm ý chính. Nghĩa căn bản là “theo một cách thật đặc biệt”, nhưng cũng bao hàm của cả hai ý “đi vào” và “xuyên qua”. Toàn nghĩa của chữ là “nhìn vào một việc gì với sự trong sángchính xác”, thấy mỗi một bộ phận theo từng phần, phân biệt, và xuyên thủng qua tất cả, để nhận thấy những sự thật cơ bản nhất của vật ấy. Quá trình này dẫn đến sự thấu hiểu sâu sắc cái bản chất thật của bất cứ sự vật gì đang được xem xét. Rốt cuộc, ‘Vipassana Bhavana’ có nghĩa là sự vung trồng tâm, với mục đích thấy theo một cách đặc biệt để đưa đến sự thấu hiểu và nhận thức một cách đầy đủ. 

Trong thiền Minh Sát, chúng ta vun trồng phương pháp nhìn mới về cuộc đời. Chúng ta tự huấn luyện mình lối nhìn sự vật một cách chính xác như-nó-là, và trạng thái nhìn đặc biệt này theo thiền ngữ được gọi là “Chánh niệm.” Tiến trình Chánh niệm này rất khác biệt với những lề lối mà con người thế gian thường hay làm hàng ngày. Thông thường ta không nhìn vào những gì thật sự đang diễn ra trước mặt, mà nhìn cuộc đời qua lăng kính của tư tưởng và khái niệm. Do đó, chúng ta luôn lầm lẫn những “tâm ảnh” này rồi cho nó là sự thật. Từ đó, chúng ta bị trói buộc bởi dòng tư duy vô tận trong khi sự thật thì cứ lững lờ đi qua mà không nhận biết ra. Chúng ta hoang phí phần lớn thời gian vào những công việc bận rộn, bấn loạn đeo đuổi theo dục lạc, thỏa mãn, và sự trốn lánh đau đớn, khó chịu. Tất cả bao nhiêu năng lượng đã bị tiêu hao để mong làm cho chúng ta cảm giác tốt hơn, để che dấu sự sợ hãi của mình. Chúng ta không ngừng tìm cầu sự an toàn. Trong thời gian đó, cả một trời kinh nghiệm thật sự luôn xảy ra mà ta không hề hay biết tí nào cả. Tu tập thiền Minh Sát là ta học biết làm ngơ đối với những cảm hứng bất chợt nổi lên mong muốn thoải mái, mà là lao thẳng vào sự thật. Điều mỉa mai là, sự an bình thật sự chỉ xuất hiện khi nào bạn không còn đeo đuổi theo nó nữa. Đây cũng là một điều tiến thoái lưỡng nan khác nữa. 

Khi không bị căng thẳng, lòng ham muốn rất dễ tác động để phát sinh sự đòi hỏi. Còn khi buông xả đi những dính mắc khát vọng thì nét đẹp chân chính của cuộc đời lại xuất hiện. Khi bạn tìm biết sự thật mà không còn vướng mắc vào ảo tưởng, ôm trọn tất cả niềm đau và hiểm họa của nó (sự thật), thì đó chính là lúc sự giải thoát chân chính hiện hữu với bạn. Đây không phải là một chủ thuyết mà chúng tôi muốn nhồi sọ bạn. Đây là một sự thật có thể quan sát, một sự kiện mà bạn có thể và nên tự mình kiểm chứng.

Hơn 2,500 năm tồn tại, hệ thống tư tưởng Phật giáo có đủ nhân duyênthời gian để phát triển nhiều từng lớp trên phương diện chủ thuyết và nghi thức tôn giáo. Tuy thế, quan điểm cơ bản của Phật giáo vẫn khuyến khích về lãnh vực thực nghiệm và phản đối lại chủ thuyết độc đoán. Đức phật Thích Ca là người không chủ xướng truyền thống nào cả và không chấp nhận chủ nghĩa lập khuôn. Ngài không đề ra pháp tu như là một hệ thống giáo điều; mà là đề cương ra một phương pháp để cho mỗi cá nhân có thể tự mình thẩm xét. Cũng như lời của ngài đã nói, mời bạn đến để “thấy”. Một điều mà ngài có nói với các môn đệ rằng “đừng đặt thêm chiếc đầu khác trên đầu của mình.” Ở đây, ngài muốn nhắc nhở mọi người là, đừng bao giờ chấp nhận tin lời của bất cứ một ai. Hãy tự mình thấy.

Chúng tôi muốn bạn hãy trang bị cho mình cái tác phong trên khi đọc từng chữ trong quyển sách này. Chúng tôi không hứa hẹn rằng bạn sẽ chấp nhận tất cả những gì trong đây, vì nghĩ rằng chúng tôi là những kẻ có thẩm quyền trong lĩnh vực này. Tin mù quáng không có dính dáng gì ở đây cả. Đây chỉ là những kinh nghiệm thực tại. Học để điều chỉnh quan niệm của mình cho phù hợp với cái tinh thần đã được dẫn giải trong đây, rồi bạn sẽ tự mình thấy ra. Duy nhất điều đó mới tạo cho bạn những căn bản gầy dựng niềm tin chân chính. Trí tuệ trực quán là quá trình tu tập quán sát cho sự khám phá cá nhân một cách rất thuần khiết.

Đã từng có nói qua, chúng tôi sẽ trình bày một bản tóm tắt những điểm quan yếu trong triết học Phật giáo. Chúng tôi không có ý đi sâu vào chi tiết vì có nhiều sách khác đã làm việc này. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn diễn giải về sự hiểu biết đúng đắn về Thiền quán mà thôi.

Từ quan điểm Phật giáo, con người sống theo một lề lối rất là lạ lùng. Chúng ta cho những thứ không bền là những gì thường hằng, dù cho tất cả mọi hiện tượng và sự vật luôn luôn thay đổi chung quanh ta. Tiến trình thay đổi thì liên tục và bất tận. Đang khi đọc những dòng chữ này, thân thể của bạn thì đang già đi, nhưng bạn nào có quan tâm gì về vấn đề này. Cuốn sách trên tay của bạn đang bị phân hóa, mực chữ thì mờ phai dần và giấy thì trở nên giòn hơn. Những bức tường chung quanh chúng ta cũng đang cũ đi; những phân tử bên trong nó đang rung chuyển ở tốc độ to lớn và từng bộ phận đang xê dịch, rã rời và tan ra một cách từ từ, thế mà bạn cũng đâu có để ý đến điều này. Rồi một ngày kia, bạn bất chợt nhìn lại chung quanh mình. Bạn nhận thấy ra da thịt của mình nhăn nhíu, xương cốt kêu rin rít và cảm thấy đau đớn. Cuốn sách ngã màu và các trang dính vào nhau. Vách tường thì bị mòn khuyết vào. Rồi bạn buồn bã vì đánh mất tuổi thanh xuân, và khóc than khi những tư hữu bị mất đi. Những khổ đau này từ đâu đến? Nó bắt nguồn từ sự lơ là của chính mình. Bạn đã không để ý gì đến cuộc đời mình; không quan sát sự thay đổi không ngừng của thế giới hiện tượng khi nó đi qua. Bạn chỉ chọn lọc một số kiến trúc tâm linh, “Ta”, “cuốn sách”, “căn nhà” và rồi giả định rằng chúng sẽ tồn tại mãi mãi. Chúng sẽ không bao giờ thế. Còn bạn thì khác, bạn có thể hòa nhập vào dòng thay đổi liên tục kia. Bạn có thể học cách nhận thức cuộc đời mình như là một chuỗi thay đổi không ngừng, giống như lối hòa hợp của tiếng nhạc giao hưởng và điệu vũ. Bạn học được niềm vui trong sự hoại diệt của những hiện tượng, và hòa sống với dòng đời, hơn là liên tục kình chống với tự nhiên. Bạn có thể học, vấn đề là ở thời gianphương pháp mà thôi.

Thói quen tri giác của loài người thì ngu xuẩn một cách rõ rệt trên một số phương diện. Chúng ta bỏ đi 99% những kích thích của cảm xúc giác quan mà ta thật sự có được, mà chỉ bắt nắm 1% kia như là đối tượng tâm linh mà thôi. Để rồi chúng ta phản ứng với những đối tượng này theo thói quen đã được huân tập của mình. Ví dụ: Bạn ở đó; đang ngồi một mình trong sự vắng lặng của một đêm thật êm ả. Có một con chó nào đó sủa vang vọng từ xa. Nếu mà chúng ta chịu quan sát thì sẽ thấy rằng, tự thân của sự nhận thức thì thật không thể nào diễn tả được vẻ đẹp của tình huống này. Nhưng từ vô thức một đợt sóng gợn lên và phá tan đi sự tĩnh lặng. Bạn bất chợt nghe cái giai điệu quen thuộc từ muôn thưở và biến dần thành một chất liệu kích thích vào hệ thần kinh như một dòng điện mạnh. Cả một tiến trình thì thật đẹp và hoàn hảo, nhưng con người thì lại có chiều hướng lờ hẳn đi. Thay vì, chúng ta ghi nhận cái nhận thức ấy như là một đối tượng tâm, ta lại làm khác đi, chúng ta áp đặt một bức tranh lên trên nó và tạo ra một chuỗi cảm xúcphản ứng vào nó. “Lại con chó đó nữa, luôn luôn sủa vào giờ này, thật là phiền, đêm nào cũng vậy. Cần phải có ai đó làm một điều gì. Hay là mình nên gọi cảnh sát? Không! Nên gọi sở bắt chó. Có lẽ mình nên viết một lá thư cảnh cáo người chủ của con chó kia. Không! Nhiều rắc rối lắm. Ta nên có nút bít tai vậy.” Tất cả những thứ này chỉ là thói quen tâm lýcảm xúcchúng ta đã huân tập từ thưở còn bé bằng cách bắt chước những người chung quanh. Những phản ứng theo khái niệm này vốn không có hiện hữu trong hệ thần kinh, nhưng khốn nỗi đó không phải là một cách duy nhấtchúng ta dùng tâm trí của mình. Những gì đã được huân tập có thể quên đi hay thay đổi, mà việc đầu tiên là nhận thức ra những gì chúng ta đang làm trong khi mình đang làm nó, để rồi lùi lại một bước đứng yên lặng để quan sát nó. 

Từ góc độ nhìn của Phật giáo, con người có lối nhìn trái ngược về cuộc đời. Chúng ta nhìn vào những sự kiện tạo ra khổ đau mà lại cho nó là hạnh phúc. Nguyên nhân của khổ đau là những bệnh chứng của Tham lamSân hậnchúng ta đã nhắc ở phần trước. Xuất phát từ khái niệm, bất cứ vấn đề gì cũng có thể xảy ra — một người con gái đẹp, một gã đẹp trai, chiếc du thuyền cao tốc, một tên côn đồ với khẩu súng, xe tải chạy bừa lên bạn… Bất cứ là điều gì, chúng ta luôn phản ứng với sự kích thích về cảm giác đó.

Chúng ta lo lắng quá nhiều. Thực chất của sự lo lắngvấn đề. Lo lắng là một tiến trình có nhiều giai đoạn. Bồn chồn thì không chỉ là một trạng thái mà là một trình tự. Những gì bạn nên làm, là quan sát sự diễn tiến từ lúc phát sinh, chính ở giai đoạn sinh khởi này trước khi nó phát triển đến mức cao độ. Mối liên hệ trước tiên của chuỗi lo lắng là hành động của sự chấp thủ/phản kháng. Khi có sự kiện phát sinh trong tâm, chúng ta có khuynh hướng bám níu vào hay đẩy nó ra. Điều đó tạo nên sự tác động của lo âu. May mắn là có thiền Minh Sát giúp cho bạn làm bộ phận máy móc này mất đi tác dụng.

Thiền Minh Sát dạy cho chúng ta cách khảo sát tiến trình khái niệm của chính mình với sự chính xác rõ ràng. Chúng ta học cách nhìn sự phát sinh của tư tưởng và khái niệm cảm giác buông bỏ chân thành; học nhìn những phản ứng của mình phát khởi bằng sự trong sángtrầm tĩnh. Chúng ta bắt đầu thấy mình phản ứng mà không bị lôi cuốn vào sự phản ứng đó, để rồi tư tưởng tự thị ám kỷ dần dần bị diệt đi. Chúng ta vẫn có thể lập gia đình, vẫn có thể tránh lối xe chạy, nhưng chúng ta không cần phải trải qua những nỗi đớn đau do tự mình gây ra.

Vượt thoát sự ám ảnh của tư tưởng tạo nên một quan kiến hoàn toàn mới mẻ về sự thật. Đây là một sự chuyển hướng to lớn, thay đổi toàn diện về cơ cấu khái niệm. Nó mang theo cảm giác bình anlẽ phải, nét hứng khởi của đời sống và hương vị hoàn thiện của từng sinh hoạt. Cũng chính vì thế, lối nhìn sự vật của đạo Phật theo quan điểm này được gọi là Chánh kiến, nhìn sự vật như-nó-là. 

Thiền Minh Sát là một quá trình huấn luyện để mở ra dần dần cho chúng ta một lối nhìn vào sự thật như-nó-là. Bên cạnh cách nhìn mới về sự thật này còn có điều quan yếu nhất là sự thật về cái “Ta”. Sự quan sát cặn kẻ sẽ làm sáng tỏ về cái “Ta” thì cũng tương tự như cách chúng ta quan sát những ý niệm khác. Những cơn xoáy tư tưởng, cảm giáccảm xúcchúng ta luôn đối diện, củng cố, và bồi đắp cho chúng trở thành một khối trong tâm, để rồi dán cho nó một giả danh là “Ta”. Rồi từ đó, chúng ta xem nó như là một cá thể bất biến và thật có; đặt nó biệt lập hẳn với mọi thứ khác. Chúng ta tách mình ra khỏi dòng vận hành liên tục của vũ trụ vạn hữu, để rồi buồn rầu là tại sao mình cảm thấy cô đơn quá. Chúng ta đã thờ ơ đối với mối tương quan vốn có với nhân loại và cho rằng “Tôi” phải có thêm hơn cho “mình”; rồi sau đó chúng ta lấy làm kinh ngạc là tại sao loài người quá ư là vô tình và tham lam… Mỗi một hành động bất thiện hay tàn nhẫn trên thế gian đều phát sinh từ cái “Ta” không thật có này, đã làm cô lập một cá nhân ra khỏi thế giới ngoài kia.

Khi cái ảo tưởng của khái niệm bị bùng vỡ, thì toàn bộ nhân sinh quan của bạn sẽ lập tức thay đổi. Đừng bao giờ kỳ vọng rằng tiến trình này sẽ xảy ra sau một đêm. Bạn đã dùng gần cả một đời mình để tạo dựng cái khái niệm này, và củng cố nó trong từng tư tưởng, lời nói, hành động trong bao năm qua, thì nó không thể nào tan biến trong giây phút. Nhưng nó sẽ ra đi nếu bạn cho nó đủ thời gian và sự chú ý. Thiền Minh Sát là một quá trình làm cho nó bị phân hóa. Từng chút một, bạn sẽ làm cho nó bị bào mòn đi bằng cách quan sát nó. 

Khái niệm tự ngã cũng là một quá trình mà chúng ta đang luôn làm. Trong thiền Minh Sát, chúng ta học cách thấy ra là mình đang làm thế trong lúc chúng ta đang làm, và làm nó như thế nào; để rồi thấy nó biến dạng và tan dần như một đám mây trôi ngang qua bầu trời trong xanh. Chúng ta sẽ ở vào trạng thái, mà ta tùy thuộc vào hoàn cảnh thích nghi nhất để quyết định có làm hay không làm một điều gì đó, mà không còn có tính bị ép buộc trong lúc đó. Chúng ta luôn có sự lựa chọn.

Dĩ nhiên đây là những đặc thù của Trí tuệ tự chứng. Mỗi một nét là một lãnh vực hiểu biết thâm sâu của từng vấn đề cơ bản của đời sống, và nó không bao giờ xảy ra nhanh chóng nếu khôngcông phu sâu dày. Đây là một tiến trình rất ư là gian nan, khó khăn nhưng kết quả cũng rất là tương xứng, một chuyển biến toàn diện đời sống của bạn cho đến cuối cuộc đời. Hành giả sẽ khổ công đi suốt quá trình tu tập để đạt đến lãnh vực tâm linh toàn thiện, sống với một tình yêu thương không điều kiện mà không còn đau khổ. Đây vốn là một mục tiêu vĩ đại trong đời người. Nhưng chúng ta không phải đợi chờ thành quả ở cuối con đường; những lợi ích này lập tức sản sinh và được tích lũy theo thời gian. Càng tu tập, bạn càng học được nhiều hơn về bản chất của đời mình; khả năng quán sát một cách bình thản những cơn cảm xúc, tư tưởng, cảm giác đang lúc phát sinh trong tâm. Thành quả của sự giải thoát tùy thuộc vào mức độ tu tập của bạn; và bạn có thể dừng lại bất cứ lúc nào nếu bạn cảm thấy đủ. Không có một hệ thống đo lường nào ngoài mức độ khát khao thấy được chân lý cuộc đời mà bạn có, chỉ có trí tuệ này mới có thể giúp ích cho mình và người chung quanh.

Thiền Minh Sát vốn dựa vào kinh nghiệm chứ không thuộc về phạm vi lý thuyết. Khi tu thiền, bạn trở nên bén nhạy hơn đối với kinh nghiệm đời sốngđiều kiện chung quanh. Bạn không phải ngồi loanh quanh để kiến tạo nên những tư tưởng hoàn mỹ về cuộc đời, mà là sống với nó. Thiền Minh Sát không gì khác hơn là một phương pháp học để sống ra sao.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25635)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37862)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19578)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18656)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14254)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20091)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9495)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14361)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35558)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10647)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19694)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23194)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13356)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10740)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20199)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10597)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9954)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14864)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17649)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17591)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13184)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31153)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25740)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13974)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17499)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10967)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12286)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10462)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12264)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11755)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9610)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12349)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9194)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8490)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9949)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9755)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12028)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14411)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9897)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11203)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8293)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10964)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14080)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9905)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15200)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13033)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23074)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23970)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12565)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15420)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17771)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15045)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16544)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16087)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17633)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11582)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11616)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17821)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10773)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10516)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11319)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12075)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11034)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36400)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8956)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9672)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34705)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17259)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10235)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10466)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12196)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13629)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14648)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9143)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24797)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11629)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10308)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15933)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15563)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14512)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12995)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12439)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14568)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18349)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9565)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18511)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18577)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19009)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18827)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11826)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13332)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47976)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11061)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13544)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13031)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11056)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12546)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11046)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31764)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11657)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant