Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 10: Đối diện với khó khăn

26 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8386)
Chương 10: Đối diện với khó khăn

CHÁNH NIỆM CƠ BẢN

Thiền sư: Henepola Gunaratana
Dịch Việt: Lương Thanh Bình

Chương 10: Đối diện với khó khăn

Rồi bạn sẽ phải gặp nhiều khó khăn trong sự tu tập của mình. Ai cũng thế. Khó khăn xảy ra ở muôn ngàn dạng khác nhau, và điều bạn có thể tin chắc là, bạn sẽ phải gặp không ít thì nhiều mà thôi. Điều khuyên chính để đối diện với những trở ngại là, nên có một thái độ đúng đắn. Khó khăn là phần cần thiết phải có, để làm cho sự tu tập trở nên trọn vẹn. Chúng không phải là những gì cần phải tránh, mà là những thứ được dùng như là những cơ hội quí giá cho sự học hỏi.

Nguyên nhânchúng ta bị đắm ngập trong bãi bùn đời sống, là không ngừng chạy trốn những khó khăn và kiếm tìm những ham muốn của mình. Tu thiền như là cái phòng thí nghiệm, cho chúng ta có được một hoàn cảnh để khám nghiệm những hội chứng và chế ra những phương thức đối trị từng khó khăn một. Những khó khăn bất ngờ, chật vật phát sinh trong suốt buổi tọa thiền giống như là lúa trong máy xoay. Chúng là những vật liệu cho chúng ta làm việc. Sẽ không có hạnh phúc nếu không có khổ đau và ngược lại. Cuộc sống được cấu thành bởi niềm vui và sự khốn khổ. Chúng cùng tồn tại và song hành. Tu thiền cũng không ngoại lệ. Bạn sẽ kinh nghiệm qua lúc tốt, lúc xấu, khi mê ly, khi sợ hãi.

Cho nên đừng bao giờ ngạc nhiên khi bạn kinh nghiệm được cái cảm giác như gặp phải một bức tường dày không lối qua. Đừng nghĩ là mình đặc biệt. Mỗi thiền sinh lão luyện đều có bức tường riêng của họ. Nó xuất hiện rất nhiều lần. Nên sẵn sàng, chuẩn bị để đương đầu với bức tường của chính mình. Và khả năng đương đầu với khó khăn còn tùy thuộc vào thái độ lúc ấy của bạn. Nếu bạn học cách để ý tới những sự chật vật này như là những cơ hội, vận may để phát triển trong tu tập thì bạn sẽ có được nhiều tiến bộ. Khả năng trực diện với những vấn đề nóng bỏng khởi sinh trong tu thiền sẽ đi vào cả cuộc đời của bạn, và giúp bạn xử lý trôi chảy những vấn đề to tát đã từng làm khó khăn bạn. Nếu bạn trốn tránh những mảnh tâm thô thiển xấu xa trong tu thiền lúc nó trổi dậy, đó là bạn làm cho những thói quen mạnh thêm lên. Những thói quen này đã làm cho cuộc đời bạn không ra gì cả và rồi sẽ gây tệ hại thêm hơn.

Rất ư quan trọng khi học cách chạm trán với những lãnh vực khiếm khuyết của đời mình. Công việc của thiền giả là học sao kiên nhẫn với chính mình, nhìn tự thân theo chiều hướng khách quan, toàn bộ với tất cả những điều bất hạnh và nhược điểm của bản thân. Chúng ta phải học cách dịu dàng với chính mình. Nhìn xa sẽ thấy rằng, trốn tránh những gì mình không thích là một hành động tàn nhẫn cho bản thân. Nói một cách nghịch lý, lòng nhân từ đòi hỏi phải đối diện với sự ghét bỏ khi nó phát sinh. Một chiến lược phổ thông của con người khi đối diện với nghịch cảnh là tự kỷ ám thị: khi những gì xấu xa phát sinh, bạn tự thuyết phục lấy mình là tránh xa nó đi để tìm những gì tốt hơn. Còn sách lược của đạo Phật thì trái ngược lại. Thay vì giấu diếm hay cải trang cho nó, lời Phật dạythôi thúc bạn nghiên cứucho đến tận cùng. Đạo Phật khuyên bạn đừng nên khắc sâu những cảm giác mà bạn không thật có hay trốn tránh những tình cảm mà bạn thật sự có. Nếu bạn đang bị khốn khổ thì hãy cứ khốn khổ đi; đây là một sự thật, nó đang xảy ra, hãy đối diện với nó. Nhìn thẳng vào nó mà không một chút gì nao núng. Khi bạn gặp cảnh trạng không tốt, kiểm nghiệm sự không tốt kia, quan sát nó trong chánh niệm, nghiên cứu hiện tượng và học cái lý lẽ cấu tạo ra nó. Phương pháp vượt ra khỏi một cái bẫy là học xem cấu trúc và sự hoạt động của cái bẫy ra sao. Bạn làm việc này bằng cách tháo rỡ nó ra thành từng phần nhỏ. Cái bẫy không còn giam giữ bạn được nữa khi nó bị bạn rã nó ra thành từng mảnh. Kết quả là sự tự do.

Đây là điểm quan yếu, nhưng nó lại là điểm hời hợt nhất trong triết lý Phật giáo. Những ai nghiên cứu giáo lý Phật giáo một cách theo hình thức bên ngoài sẽ vội vàng kết luận là một giáo lý bi quan, chỉ nhấn mạnh về những điều không tốt như là khổ đau, luôn luôn thôi thúc chúng ta đối diện với những cảnh trạng khó chịu của cơn đau, chết, và bệnh hoạn. Người Phật tử không nghĩ rằng mình là người bi quan — mà trên sự thật còn là trái ngược nữa. Đau khổ luôn tồn tại trong đời sống và là điều không thể nào tránh được. Học cách đối xử với nó thì không thể nào gọi là bi quan được, mà còn là lạc quan thực dụng. Bạn sẽ phải hành xử ra sao khi người hôn phối của bạn qua đời? Bạn sẽ cảm thấy thế nào nếu có người mẹ sẽ từ trần vào ngày mai? Hoặc là em gái hay là người bạn thật thân? Giả sử bạn bị thất nghiệp, mất số tiền trong trương mục tiết kiệm, tàn tật một cánh tay trong một ngày; và đối diện với cái viễn ảnh sẽ phải sống trọn chuỗi ngày còn lại trên chiếc xe lăn? Bạn sẽ ra sao khi đối diện với nổi đau khi mắc phải bệnh ung thư và xử thế ra sao khi tử thần đang kề cận? Bạn có thể vượt qua một vài bất hạnh trên nhưng không thể nào tránh hết tất cả được. Phần lớn chúng ta đây đều có bạn bè, người thân đã vĩnh viễn ra đi. Tất cả chúng ta thỉnh thoảng lâm bệnh; và rồi cũng sẽ có một ngày không sớm thì muộn ta sẽ chết đi. Bạn có thể khổ đau vật vã khi nó đến hay là đối diện bằng trí tuệ — sự lựa chọn là của bạn mà thôi.

Cơn đau thì không thể nào tránh, còn khổ đau thì tránh được. Cơn đau và khổ đau là hai điều khác biệt. Nếu bất kỳ một trong những thảm họa kia giáng xuống đầu của bạn trong trạng thái hiện giờ thì bạn sẽ khổ đau. Theo thói quen sẳn có hiện đang khống chế tâm sẽ đưa bạn vào cơn thống khổ mà không có cách nào thoát ra. Chỉ một ít thời gian học những phương pháp thay thế cho các thói quen này thì thật là đáng giá. Phần lớn đời người đã bỏ ra biết bao năng lực để chế ra phương cách tăng thêm khoái lạc và giảm đi cơn đau. Đạo Phật cũng không có khuyên bạn đừng làm việc này. Tiền tài và sự bảo đảm là điều tốt. Cơn đau thì nên tránh nếu có thể được. Không có ai bảo bạn phải từ bỏ những gì bạn sở hữu hay tìm ra những cơn đau không cần thiết, nhưng đạo Phật khuyên bạn nên bỏ chút thời giannăng lực để học cách đối diện với sự khó chịu, bởi vì có những cơn đau không thể nào tránh khỏi.

Khi bạn thấy một chiếc xe đang đà cán lên người mình, thì bằng mọi phương cách và nổ lực bạn phải cố gắng tránh nhanh. Dành thời gian cho tu thiền cũng như thế. Học cách chạm trán với phiền muộn là cách duy nhất để xử sự với những chiếc xe mà bạn không thể thấy.

Nhiều vấn đề sẽ phát sinh trong tu tập. Một số là ở dạng sinh lý, một phần ở dạng tâm lý, và phần khác qua quan điểm của thiền giả. Tất cả đều phải đương đầu, có cách hành xử riêng biệt, và đều là cơ hội để cho bạn tự vượt qua chúng.

Vấn đề 1: Cơn đau sinh lý

Không ai thích cơn đau cả, nhưng dù muốn hay không mỗi người đôi khi đều có cơn đau. Nó là kinh nghiệm chung và có chiều hướng xảy ra trong lúc tu tập ở dạng này hay thể khác. Xử lý cơn đau phải qua hai giai đoạn. Một là thoát ra khỏi cơn đau nếu được, bằng không thể thì giảm thiểu nó được phần hay phần ấy. Kế tiếp, nếu cơn đau còn xót lại, dùng nó như là một đề mục thiền. 

Bước đầuđối phó với cơn đau sinh lý. Có thể, cơn đau là một cơn bệnh chẳng hạn như nhức đầu, nóng lạnh, vết bầm, hay bất kỳ thứ gì tương tự. Trong trường hợp này, hãy dùng những dược liệu trước khi ngồi tọa thiền: uống thuốc, thoa bóp dầu, hay làm những gì thường hay vẫn làm. Có những cơn đau do tư thế ngồi gây ra. Nếu bạn chưa từng ngồi lâu trong thế kiết già trên sàn nhà, thì cần phảithời gian điều chỉnh. Những nỗi khó chịu gần như không thể nào tránh được. Tùy theo nơi đau mà có cách đối trị tương ưng. Nếu đau nơi ống quyển hay đầu gối, thì xem xét lại quần của bạn. Có thể nó chật trội quá hay làm bằng vật liệu dày, nên thay đổi nó. Xét lại cái tọa cụ nữa. Nó nên cao khoảng ba phân tây khi ngồi lên. Nếu đau nơi thắt lưng, hãy nới lõng giây lưng quần. Nếu đau nơi eo lưng, thì tư thế ngồi chắc là không đúng. Nghiêng ngã thì không bao giờ dễ chịu cả, hãy ngồi thẳng lên. Đừng nên cứng đơ dù cho đang giữ cho cột sống thẳng. Đau nơi vùng vai và cổ thì do nhiều nguyên do. Thứ nhất, cách đặt tay không đúng. Hai bàn tay nên nằm yên trên vế. Đừng khép chúng lên ngang eo. Cánh tay và gân cổ nên thả lỏng. Đừng để đầu rũ xuống phía trước. Giữ nó thẳng lên theo chiều cột sống.

Sau khi bạn đã điều chỉnh những thể loại khác nhau mà vẫn còn bị cơn đau tồn tại, thì thử bước thứ hai. Xem cơn đau như là đối tượng thiền. Đừng lúc lắc, xoay chuyển, chỉ đơn thuần quan sát cơn đau trong chánh niệm. Khi cơn đau trở nên khốc liệt, bạn sẽ nhận ra là sự chú tâm không còn ở với hơi thở nữa. Đừng chống chọi lại. Cứ để cho sự chú tâm nhập theo cảm giác đó. Hòa nhập trọn vẹn vào cơn đau, chứ đừng xen vào kinh nghiệm đang có. Hãy kiểm tra cảm giác này. Vượt qua cái phản ứng tránh né để đi thẳng vào thực chất của cảm giác nằm tiềm ẩn phía bên dưới kia. Bạn sẽ khám phá ra vốn có hai phần đang hiện hữu. Một là cảm giác đơn thuần — cơn đau. Hai là sự kháng cự của bạn đối với cảm giác đó. Phản ứng kháng cự thì một phần ở thân và một phần ở tâm. Phần sinh lý bao gồm sự căng thẳng các cơ bắp ở vùng có cơn đau xảy ra. Hãy thả lỏng các cơ bắp này, từng phần nhỏ một cho đến bao giờ tất cả không còn căng nữa. Chỉ mỗi bước này có lẽ làm giảm bớt phần lớn cơn đau rồi. Kế tiếp là đuổi theo sự kháng cự của phần tâm lý. Cũng giống như sự căng thẳng sinh lý, tâm lý cũng bị ảnh hưởng theo. Tâm lý của bạn bị cột cứng bởi cảm giác của cơn đau, đang cố gắng tự vệ và đẩy nó ra khỏi Ý thức. Sự chối bỏ là một dạng của thái độ “Tôi không thích cảm giác này” hay “đi chỗ khác chơi” mà không cần nói thành lời. Nó rất vi tế, nhưng nó đang ở đấy, và sẽ được thấy nếu bạn thật sự quan sát. Hãy tìm ra nó để thư giãn nó. 

Phần sau cùng thì rất tế nhị. Không có ngôn ngữ nào của loài người có thể diễn đạt hành động này một cách chắc chắn được. Cách tốt nhất là dùng lối suy diễn. Kiểm soát những gì bạn làm đối với những cơ bắp đang gồng cứng kia, dùng cách ấy đối với tâm căng thẳng của mình, thả lỏng từng phần. Kinh điển thừa nhận rằng thân và tâm có mối liên hệ mật thiết. Điều này đúng đến nỗi nhiều người không nhận ra sự khác biệt của hai phần khác nhau. Đối với họ, nới lỏng thân là nới lỏng tâm và ngược lại. Họ kinh nghiệm sự thả lỏng thân và tâm là một tiến trình. Dù theo cách nhìn nào đi nữa, cứ thả lỏng hoàn toàn cho đến khi nào sự chú tâm chậm xuống để vượt qua cái chướng ngại (cơn đau) đang gặp. Có một vùng xám giữa cái Ngã và những thứ khác. Có một ranh giới giữa “tôi” và “cơn đau.” Làm tan biến cái chướng ngại này thì sự phân cách kia biến mất. Bạn dần dần đi vàođồng hóa với cơn đau. Bạn trở thành cơn đau. Bạn chăm chú nhìn thấy sự suy giảm của nó (cũng như cái Ta) và bám theo nó, để rồi sẽ có điều kỳ diệu đến với bạn. Nó không còn đau nữa. Khổ đau cũng mất đi. Chỉ còn lại cơn đau ở đó, một kinh nghiệm gần đó, ngoài ra không còn gì cả. Con người “tôi” bị đau đã biến mất. Kết quả là sự giải thoát cơn đau.

Đây là một tiến trình từng phần. Giai đoạn ban đầu, bạn mong vượt qua được những cơn đau nhỏ và bị quật ngã bởi cơn đau lớn. Cũng giống như những kỹ năng khác, nó sẽ tăng tiến theo thời gian thực hành. Càng thực hành nhiều hơn thì khả năng xử lý cơn đau lớn sẽ khá hơn. Nên hiểu rõ ràng điều này vậy. Chúng tôi không ủng hộ việc hành hạ thân xác ở trong lãnh vực này. Tự sĩ nhục bản thân không phải là điều muốn nói ở đây.

Đây là buổi tập luyện trong tỉnh giác chứ không phải chịu đựng cơn hành hạ. Nếu cơn đau trở nên khủng khiếp thì cần phải dời chuyển tư thế, nhưng phải làm thật chậm và trong chánh niệm. Quan sát sự di chuyển, cảm cái cảm giác trong khi di động. Quan sát xem nó tác động ra sao đối với cơn đau, xem xét cơn đau giảm xuống. Cố gắng đừng di chuyển nhiều. Thay đổi càng ít thì càng dễ giữ trọn vẹn chánh niệm chừng bấy nhiêu. Nhiều thiền sinh mới nói rằng họ không thể nào giữ chánh niệm được trong khi cơn đau đang hiện diện. Sự khó khăn này xuất phát từ ý niệm sai lầm. Những thiền sinh này quan niệmchánh niệm thì khác biệt với trạng thái kinh nghiệm cơn đau. Thật ra thì không phải. Chánh niệm không bao giờ hiện hữu đơn độc. Nó luôn luôn có đối tượng. Cơn đau là trạng thái của tâm. Bạn có thể chánh niệm về cơn đau giống như về hơi thở.

Ở chương 4 chúng tôi đã nhắc qua những qui tắc ứng dụng vào cơn đau giống như vào những trạng thái tâm khác. Bạn nên cẩn trọng đừng để vượt quá mức chịu đựng và cũng đừng quá giải đãi cho có lệ. Đừng bao giờ áp đặt thêm mà cũng đừng nên để bỏ xót chi tiết nào cả. Đừng khõa lấp kinh nghiệm đơn thuần với những khái niệm tương đối hay những ý tưởng xa xôi nào đó. Giữ sự tỉnh giác vào giây phút hiện tại, ngay nơi cơn đau, để không bỏ xót bất cứ gì từ đầu cho đến cuối. Cơn đau không được nhìn dưới ánh sáng của chánh niệm, sẽ tạo nên sự đề kháng tâm lý như là sợ hãi, hồi hộp, hay giận dữ. Nếu nhìn nó một cách đúng đắn, chúng ta không có phản ứng như thế. Nó chỉ là cảm giác, luồng năng lực đơn giản mà thôi. Một khi bạn đã học được cách thức này rồi đối với cơn đau sinh thể, thì bạn có thể ứng dụng nó cho hết khoảng đời còn lại của mình. Bạn áp dụng nó vào bất kỳ cảm giác khó chịu. Những gì giải quyết được cơn đau thì sẽ công hiệu với sự bất an và sự trầm cảm. Phương pháp này là một kỹ năng ích lợiphổ biến nhất trong đời sống con người. Nó là tính kiên nhẫn.

Vấn đề 2: Chân bị tê dại đi

Rất phổ biến cho những thiền sinh mới là hai chân bị tê dại trong buổi tọa thiền. Chẳng qua là họ không quen với tư thế ngồi kiết già. Một vài người lo âu về vấn đề này. Họ cảm thấy cần phải đứng lên và di động một chút. Số ít khác thì cho rằng họ sẽ bị chứng hoại thư vì máu không thể tuần hoàn. Tê cứng nơi chân thì không có gì đáng lo ngại cả. Nó xảy ra do sự xiết chặc vào nhau chứ không phải do máu không tuần hoàn. Bạn không thể nào làm tổn hại các tế bào chân do ngồi. Cho nên đừng căng thẳng. Khi chân của bạn bị tê trong lúc tọa thiền, chỉ quan sát hiện tượng ấy trong chánh niệm là đủ. Kiểm soát xem nó cảm thấy như thế nào. Nó là một dạng khó chịu, nhưng nó không đau đớn nếu bạn không căng gồng lên. Hãy bình tĩnhxem xét nó. Nó sẽ không sao cả dù cho hai chân của bạn bị tê suốt cả buổi thiền tọa. Sau một thời gian tu tập, hiện tượng này dần dần biến mất. Thân thể của bạn dần dần điều chỉnh theo thời gian tu tập. Rồi đây bạn sẽ không còn bị tê chân nữa dù cho bạn có ngồi trong suốt một thời gian thật dài.

Vấn đề 3: Cảm xúc lạ

Thiền giả kinh nghiệm đủ loại hiện tượng khác nhau trong tu thiền. Một số người bị ngứa ngáy. Có người bị rùng mình, thoải mái sâu xa, cảm thấy bay bổng hay bềnh bồng. Bạn cũng có thể cảm thấy mình to lớn lên hay thu nhỏ lại, hoặc là tung lên không. Những thiền sinh mới thường hay mừng rỡ khi gặp những cảm giác này. Trong sinh hoạt đời sống, phần lớn của cảm xúc giác quan luôn bị hạn chế mà không thể truyền thông trọn vẹn tới ý thứcchúng ta đã quen với phối cảnh ấy rồi. Khi sự thư giãn được thiết lập, cả hệ thống thần kinh thu nhập những cảm xúc giác quan trở nên có năng xuất cao hơn, mang đến những trạng thái cảm xúc khác lạ hơn bình thường, chứ không biểu hiện bất cứ ý nghĩađặc biệt cả. Nó chỉ đơn thuầncảm giác như những cảm giác khác mà thôi. Cho nên cứ giữ vững phương pháp hành trì, xem xét nó trổi dậy và tan biến đi chứ đừng can thiệp vào.

Vấn đề 4: Trạng thái mơ màngHôn trầm

Hôn trầm hay trạng thái mơ màng thường hay xảy ra trong buổi tọa thiền. Khi bạn trở nên yên lặng và thoải mái, lại chính là lúc nó dễ dàng xảy ra nhất. Điều oái oăm là, thông thường kinh nghiệm trạng thái này khi chúng ta chập chờn đi vào giấc ngủ, giờ thì lại gặp nó trong tiến trình tu tập. Cho nên chúng ta dễ dàng bị buông trôi (vào giấc ngủ gục). Khi nhận ra vấn đề này xảy ra, bạn phải áp đặt chánh niệm vào chính cái trạng thái hôn trầm này. Hôn trầm có nét đặc trưng riêng và rõ ràng. Nó có chừng mức ảnh hưởng đến quá trình tư tưởng của bạn. Tìm xem đó là những gì. Cảm giác nơi thân cũng cùng hoạt động với nó, xem xét ở những nơi nào.

Sự tỉnh giác muốn tìm hiểu này là khắc tinh của hôn trầm, và sẽ phân hóa nó đi. Nếu sự tỉnh giác không mang lại kết quả, thì bạn nên xét lại nguyên nhân sinh lý của cơn buồn ngủ. Tìm ragiải quyết nó. Nếu bạn vừa ăn xong và hơi no thì có thể đó là nguyên nhân. Tốt nhất là ăn nhẹ trước khi tọa thiền hay là đợi khoảng chừng một giờ sau bữa ăn no. Đừng bỏ qua những điều hiển nhiên khác. Nếu bạn làm việc nặng nhọc quần quật cả ngày, thì dĩ nhiên là bạn bị mệt mõi. Tương tự thế, nếu bạn chỉ ngủ vỏn vẹn vài giờ đêm qua. Chăm sóc phần yêu cầu căn bản cho thân thể, rồi đến tu tập. Đừng chịu đầu hàng cơn buồn ngủ. Tỉnh biết trong khi ngủ là kinh nghiệm hoàn toàn trái ngược với tỉnh biết trong khi thiền định. Bạn sẽ không có được trí tuệ trong khi ngủ nhưng sẽ có được trong tu thiền. Nếu bạn cảm thấy quá buồn ngủ thì hãy hít vào một hơi thở thật dài và giữ đó càng lâu càng tốt; rồi thở ra từ từ. Lập đi lập lại cho đến khi thân thể nóng bừng và cơn buồn ngủ ra đi. Sau đó, trở về lại với hơi thở.

Vấn đề 5: Không thể tập trung

Sự chú tâm quá tích cực hay nhảy chuyền là trạng thái ai cũng có khi này hay khi khác. Thông thường thì áp dụng phương pháp được đề ra ở chương 11 và 12 nói về Vọng tâm. Bạn sẽ được chỉ dẫn về những nhân tố tác động từ bên ngoài đối với hiện tượng này. Điều chỉnh thời khóa biểu có thể là giải pháp tốt nhất cho vấn đề này. Chủng tử tâm có sức mạnh siêu nhiên, chúng có thể tồn tại trong tàng thức qua nhiều kiếp. Những hình ảnh nghệ thuật đã được thêu dệt, uốn nắn bằng những chất liệu, được diễn đạt một cách tài tình qua ngòi viết của nhà văn tài hoa qua những chi tiết và diễn cản có khả năng tiềm ẩn trong tâm mà ta không hay biết. Nếu bạn có xem cuốn phim hay nhất trong năm, thì buổi tọa thiền sau đó sẽ đầy dẫy những hình ảnh trong cuốn phim ấy. Nếu bạn đang xem dở dang quyển tiểu thuyết kinh dị nhất, thì buổi tọa thiền của bạn sẽ đầy ắp những quái vật kinh khiếp. Cho nên bạn cần phải hoán chuyển lịch trình của mình. Tọa thiền trước rồi mới đọc sách hay xem phim sau.

Yếu tố có tính thuyết phục khác là trạng thái cảm giác của bạn. Nếu đời sống của bạn đang có xung đột, sự dao động đó sẽ đi vào buổi tọa thiền. Cố gắng giải quyết hay ít nhất dàn xếp những va chạm cho ổn thỏa, nếu có thể, trước khi ngồi thiền. Cuộc sống sẽ suôn sẻ hơn và bạn không phải suy nghĩ một cách vô ích trong lúc tu tập. Đừng dùng lời khuyên này như là một nguyên cớ để bỏ qua buổi tọa thiền. Đôi khi bạn không thể nào giải quyết từng vấn đề trọn vẹn được trước khi ngồi xuống, thì cứ ngồi thiền đã. Dùng pháp tu thiền để buông xả tất cả những xử thế vị kỷ đã nhốt bạn vào trong quan điểm giới hạn của mình. Rồi đây vấn đề của bạn sẽ được cởi mở dễ dàng hơn. Cũng có những ngày chừng như cái tâm không chịu lắng yên mà bạn lại không thể nào tìm ra lý do tại sao. Nên nhớ lại tính lưu chuyển luân phiênchúng tôi đã nói qua. Tu thiền cũng đi theo tuần hoàn, có ngày tốt và cũng có ngày xấu.

Sự tu tập chính của thiền Minh Sáttỉnh giác. Một cái tâm trống không thì không quan trọn bằng chánh niệm về những gì cái tâm đang làm. Nếu bạn đang bị bấn loạn mà không thể làm một điều gì ngừng được, vậy thì hãy theo dõi nó (sự bấn loạn). Tất cả đều là của bạn. Kết quả sẽ là một bước gần hơn trong cuộc hành trình khám phá tự ngã. Ở trên tất cả, đừng bao giờ chán nản bởi cái tâm léc chéc không ngừng của mình. Tiếng xì xào kia chỉ là một đối tượng cho bạn áp đặt chánh niệm vào. 

Vấn đề 6: Sự nhàm chán

Thật là khó mà nghĩ ra được một việc làm nào khác nhàm chán hơn cái việc ngồi như cục đá hàng giờ không làm gì cả ngoài việc theo dõi cảm giác của hơi thở ra vào nơi viền mũi. Bạn sẽ rơi vào trạng thái nhàm chán rất nhiều lần trong quá trình tu tập của mình. Tất cả mọi người đều như thế và bạn cũng không ngoại lệ. Nhàm chán là một trạng thái tâm và cũng phải được đối trị một cách tương ưng. Có vài phương thức đơn giản giúp bạn xử lý vấn đề này.

Phương pháp A: Tái lập Chánh niệm thật sự

Nếu hơi thở bị lu mờ qua nhiều lần quan sát, thì bạn có thể tin chắc một điều: Chánh niệm của bạn đang bị lệch lạc rồi. Chánh niệm không bao giờ nhàm chán. Nhìn lại xem. Đừng bao giờ giả sử rằng bạn biết hơi thở là gì. Đừng bao giờ tin chắc rằng bạn đã thấy tất cả những gì mình đang thấy cả. Nếu bạn tin tưởng như thế, có nghĩa là bạn đang tạo ra khái niệm cho cả tiến trình quan sát rồi. Bạn không còn quan sát cái sự thật sống động nữa. Khi chú tâm rõ ràng vào hơi thở, hay bất cứ gì khác, thì bạn không bao giờ nhàm chán. Chánh niệm nhìn vào mọi đối tượng bằng cặp mắt của một em bé, đầy dẫy những kinh ngạc; mỗi giây phút như-nó-là và chỉ có một giây phút này tồn tại trong vũ trụ mà thôi. Bạn hãy nhìn lại thử xem.

Phương pháp B: Quan sát trạng thái Tâm của bạn đang có

Nhìn vào trạng thái nhàm chán trong chánh niệm. Nhàm chán là gì? Ở đâu? Cảm giác ra sao? Cấu trúc của nó là gì? Nó có xúc chạm được không? Nó ảnh hưởng ra sao tới tâm hành? Cho nhàm chán một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ như là bạn chưa hề nhàm chán bao giờ, và đây là lần đầu tiên vậy.

Vấn đề 7: Sợ hãi

Trạng thái sợ hãi thỉnh thoảng phát sinh trong giờ tọa thiền mà không rõ lý do. Nó là một hiện tượng chung và có rất nhiều nguyên nhân. Một là, có thể bạn kinh nghiệm sức ảnh hưởng của điều bị bức chế nào đó trong quá khứ. Nên nhớ, tư tưởng hình thành trước trong Vô thức. Nội dung cảm giác của tâm hành thường chọn lọc đưa vào ý thức phân biệt trước khi tư tưởng biểu hiện. Nếu bạn ngồi xuyên qua cơn sợ hãi, chính sự hồi tưởng đó có thể trồi lên ngay nơi mà bạn đang chịu đựng. Hai là, bạn có thể đang đối mặt trực diện với nổi sợ chung của mọi người: “nổi sợ thiếu hiểu biết.” Ở một thời điểm nào đó trên con đường tìm chân lý, bạn sẽ bị sốc một cách trầm trọng về những gì bạn đang thật sự làm. Bạn đang phá dần cái bức tường của ảo tưởng, cái mà bạn luôn dùng để giải lý cuộc đời cho mình và bảo vệ mình từ ngọn lửa kinh hồn của sự thật. Bạn sắp phải đối mặt với sự thật tối hậu. Đó là một điều đáng sợ, nhưng cuối cùng rồi cũng phải xảy đến. Vậy thì tại sao không đi thẳng vào.

Khả năng thứ ba là: nỗi sợ mà bạn đang cảm giác có thể do tự tạo. Nó trổi dậy từ sự tập trung vụng về. Bạn có thể thiết lập một chương trình vô thức để “kiểm xét những gì phát sinh.” Theo cách này, khi nỗi sợ tưởng tượng trỗi dậy thì tâm tập trung khóa cứng vào nó và rồi điều không tưởng bồi đắp năng lượng vào sự chú tâm để nó lớn lên hơn. Vấn đề thật sự ở đây là, chánh niệm yếu quá. Nếu chánh niệm (Tứ) đủ mạnh, nó sẽ nhận ra sự chú tâm (Tầm) bị thay đổi kịp lúc nó đang xảy ra để có thể mang tâm về lại đề mục chính. Không cần biết nguồn gốc của sợ hãi là gì, chánh niệm là dược liệu hữu hiệu. Quan sát phản ứng cảm giác tùy biến để tìm hiểu xem chúng là những gì. Hãy đứng bên lề của tiến trình mà quan sát chứ đừng can thiệp vào. Nhìn xem toàn bộ sự biến đổi như một người khán giả đầy hứng thú. Điều quan trọng nhất là đừng chống đối lại hoàn cảnh hiện tại. Đừng thử ức chế ký ức, cảm giác, hay tưởng tượng. Chỉ bước sang một bên, để cho toàn bộ mớ hổn loạn trồi lên và trôi đi theo thời gian. Dĩ nhiên nó không thể nào làm tổn thương được bạn nữa vì nó chỉ là một mớ kỷ niệm, tưởng ảnh. Nó không là gì cả ngoài nỗi sợ hãi.

Khi bạn để cho nó tự vận hành trong diễn đàn của sự chú tâmý thức, nó sẽ không chìm đắm trở vào Vô thức nữa. Sau này nó sẽ không trở lại ám ảnh bạn nữa. Nó sẽ ra đi vĩnh viễn.

Vấn đề 8: Sự dao độngTrạo cử

Bất an (hay trạo cử) thường che đậy cho những kinh nghiệm sâu kín trong Vô thức. Loài người chúng ta hay thích đè nén sự việc. Thay vì đối diện những ý tưởng khó chịu để kinh nghiệm, chúng ta lại chôn kín nó; rồi nghĩ là mình không phải chạm trán với vấn đề này nữa. Nhưng thật không may, chúng ta không bao giờ toại ý cả. Chúng ta che giấu tư tưởng, nhưng năng lượng tâm linh dùng để làm chuyện đó thì tồn trữ đó và sôi sục thêm theo thời gian. Kết quả là cái cảm giác bất an mà người ta gọi là dao động hay không nghĩ yên. Bạn không chạm được nó, nhưng lại cảm thấy không yên, cũng không thể thả lỏng. Khi trạng thái rối loạn này phát sinh trong buổi tọa thiền, thì chỉ quan sát nó, chứ đừng để cho nó giẫm lên bạn. Đừng nhảy nhỏm và trốn chạy. Cũng đừng đấm đá với nó và cố gắng đuổi nó đi. Chỉ để cho nó đó và theo dõi nó thật kỹ càng. Kế tiếp, những thứ bị đàn áp rồi sẽ phải trồi lên, và bạn sẽ biết được là mình lo âu về những gì. 

Kinh nghiệm khó chịu mà bạn cố gắng tránh có thể là mọi thứ: tội lỗi, tham lam hay phiền não. Nó có thể là một cơn đau không đáng kể, một con bệnh khó trị, hay là chứng bệnh sắp bộc phát. Dù nó là gì đi nữa, cứ để cho nó hiện lên rồi quan sát nó trong chánh niệm. Nếu ngồi êm lặng đó và quan sát cơn dao động của mình, thì rốt cuộc rồi nó cũng sẽ qua đi. Ngồi qua cơn bất an là một bước tiến quan trọng trong cuộc đời tu tập thiền, bạn sẽ học được rất nhiều. Bạn sẽ thấy rằng dao động thật ra chỉ là bề mặt của một trạng thái tâm chứ không gì hơn. Nó chỉ thoáng qua thôi. Nó đến và ra đi mà không gây ảnh hưởng gì bạn cả. Và nếu bạn học được nó thì lợi ích cho cả cuộc đời của bạn.

Vấn đề 9: Dụng công quá sức

Những thiền giả có tiến bộ theo thời gian thường trở nên những người vui tính. Họ hưởng chung một kho tàng quí giá của loài người, tính hài hước. Nó không phải là khả năng đối đáp bằng nét hóm hỉnh bên ngoài của những người điều khiển chương trình nói chuyện phiếm. Mà là niềm vui tính nhân bản. Họ có thể vui vẻ ở sự thất bại của mình, cười mỉm khi bản thân đang có thảm họa. Thiền sinh mới thường hay nghiêm túc để sửa chữa mình, cho nên rất ít cười. Thật ra, học cách thả lỏng trong khi ngồi, thoải mái trong tu tập, thì rất ư là quan trọng. Bạn cần nên học cách thể nhập với dòng đời (bất kỳ những gì đang xảy ra). Bạn không thể nào làm được điều này nếu lúc nào cũng căng thẳng, chiến đấu, đối mặt với mọi việc một cách quá nghiêm túc. Những thiền sinh mới thường hay thiết tha quá độ với thành quả. Họ luôn muốn phóng đại kỳ vọng và bơm phồng cái thành quả của mình. Họ lao thẳng vào thiền và khát vọng một thành quả tuyệt vời sau một đêm. Họ thúc ép, căng thẳng, vất vả, mỏi mệt, tất cả được diễn ra một cách rất nghiêm nghị, lạnh lùng. Trạng thái căng thẳng này thì hoàn toàn đối lập thẳng với chánh niệm. Dĩ nhiên, họ cũng đạt được một chút gì đó. Để rồi họ kết luậntu thiền không có gì là thú cả, nó không mang đến những gì họ mong muốn. Rồi họ ném nó qua một bên. Điều nên nó ở đây là, bạn nên học thiền bằng cách tu tập thiền. Bạn nên học để biết tu thiền là ra sao và sẽ đi về đâu bằng cách kinh nghiệm trực quán qua bản chất của mọi sự. Do đó, những người mới bắt đầu không biết mục tiêu chân chính của thiền, vì bởi họ góp nhặt được sự hiểu biết quá nhỏ nhoi về mục đích của con đường tu tập.

Sự kỳ vọng thiếu kinh nghiệm thì vốn không thực tế và không đúng. Là một người mới đối với tu thiền, họ kỳ vọng toàn là những gì không đúng, thì những thứ này không giúp ích được gì cả. Chúng sẽ trở thành những chướng ngại trên con đường tu tập. Gắng quá sức đưa đến tính khắc khe và u sầu, rồi cảm thấy tội lỗi và tự kết án mình. Khi cố gắng quá độ, sự phấn đấu của bạn trở nên máy móc và phá hủy chánh niệm ngay từ lúc trước khi bắt đầu. Điều khuyên tốt nhất là bạn nên bỏ đi tất cả những thứ đó, những kỳ vọng và sự căng thẳng. Đơn thuần tu tập với sự gắng công thăng bằng và đều đặn. Hưởng thụ sự tu tập của mình và đừng hủy diệt mình bằng sự mệt nhọc và đấu tranh. Chỉ chánh niệm. Thực chất của tu thiền là chăm sóc cho tương lai kia mà.

Vấn đề 10: Sự ngã lòng

Hậu quả trực tiếp tối hậu của cố gắng quá sứctình trạng chán nản. Bạn đang bị căng thẳng, không đi đến đâu cả. Bạn nhận ra mình chẳng đạt đến kỳ vọng mong muốn, cho nên ngã lòng. Thấy mình là người thất bại. Tất cả đều là lẽ tự nhiên, nhưng có thể tránh được. Cái nguyên nhân là do theo đuổi một mục đích không thực tế. Tuy thế, đây vẫn là hiện tượng phổ thông, dù cho có tất cả những lời khuyên tốt nhất, bạn bất chợt thấy ra nó lại vẫn xảy ra cho mình. Có một cách để giải quyết vấn đề này. Nếu thấy mình bị ngã lòng, hãy quan sát trạng thái tâm một cách rõ ràng. Đừng tô điểm thêm gì vào, chỉ xem xét thôi. Cảm giác thất bại chỉ là dạng khác của phản ứng tâm lý chợt thoáng qua mà thôi. Nếu bạn can dự vào, có nghĩa là bạn cho nó năng lượng để lớn thêm lên. Còn bằng như bạn chỉ đứng bên lề ngắm nhìn thôi, nó sẽ đi qua và biến mất không từ giả gì cả.

Nếu sự ngã lòng do bạn nhận biết ra sự thất bại trong tu thiền, thì rất dễ giải quyết. Bạn cảm thấy mình thất bại trong tu tập. Bạn không thể lập chánh niệm; thì chỉ đơn giản chú tâm về cảm giác thất bại đó. Đó, bạn đã tái lập chánh niệm ngay rồi đó. Nguyên nhân của cảm giác thất bại không là gì cả, mà chỉ là một hồi tưởng. Vốn không có thất bại trong tu thiền. Có sự thối chuyển và khó khăn, nhưng không có thất bại ngoại trừ bạn bỏ không tu tập nữa. Ngay cả, nếu bạn bỏ ra suốt hai mươi năm ròng rã mà không đi đến đâu, bạn vẫn có thể chánh niệm ở bất kỳ giây phút nào bạn muốn. Quyết định là của bạn. Hối tiếc chỉ là một cách đánh mất chánh niệm thôi. Ngay phút giây bạn nhận ra mình mất chánh niệm, sự hiểu rõ ấy, tự thân nó là một hành động của chánh niệm vậy. Cho nên hãy tiếp tục quá trình. Đừng bị lạc hướng trong phản ứng tâm lý.

Vấn đề 11: Trở lực đối với thiền

Cũng có lúc bạn cảm thấy không muốn ngồi chút nào cả. Ý tưởng này không tốt, bỏ qua một buổi ngồi chắc không có gì là quá đáng hay nghiêm trọng lắm, nhưng nó rất dễ dàng trở thành một cái lệ. Người có trí truệ sẽ băng ngang qua trở lực này, ngồi và quan sát qua cảm giác chống đối đó. Thường thì đây chỉ là một cảm giác bất chợt, như một giọt nước rơi xuống chiếc chảo nóng, rồi bốc hơi trước mắt của bạn. Năm phút sau khi ngồi xuống thì cảm giác này biến mất. Vài trường hợp khác, nó phát sinh từ tình trạng tâm lý không tốt trong ngày và nó kéo dài cho tới giờ tọa thiền. Dù thế, nó rồi cũng sẽ qua đi. Vậy tại sao không bỏ nó đi trong hai mươi hay ba mươi phút đầu, mà lại cưu mang nó đi lung tung, để cho nó hủy diệt phần ngày còn lại của bạn. Lần sau, trở lực có thể xuất phát từ khúc mắc trong tu tập, mà bạn có thể hoặc không thể biết sự khúc mắc đó ở chỗ nào. Nếu biết được vấn đề là gì, thì dùng một trong những phương pháp trong quyển sách này để giải quyết. Khi giải tỏa xong thì trở lực không còn nữa. Còn nếu không biết vấn đề là gì, thì bạn sẽ phải bền bỉ tìm cho ra nó là gì. Chỉ cần ngồi xuyên qua trở lựcquan sát trong chánh niệm. Khi nó hết hạn thì nó cũng ra đi trong thầm lặng mà thôi dù cho bạn không biết nó là gì. Sau đó nguồn gốc của vấn đề sẽ hiện thân, và bạn có thể xử lý nó.

Nếu trở lực đối với tu thiền là những nét đặt trưng chung của phương pháp tu tập, thì bạn nên tin rằng nó xuất phát từ những sai sót vi tế trong phong thái hành xử căn bản của mình. Tu thiền không phải là hành xử theo nghi lễ qua một chuỗi động tác nhất định nào cả. Nó không phải là một bài tập thể dục đau đớn, hay khoảng thời gian huấn luyện chịu đựng áp lực của sự nhàm chán. Cũng không là sự khắc nghiệt, nghiêm nghị, bổn phận. Tu thiềnchánh niệm. Nó là một lối nhìn mới, lối sống mới. Thiền định là những gì hữu dụng của chúng ta. Hãy đế mà phẩm định nó, còn trở lực thì sẽ bị tan biến đi giống như khói mù gặp ngọn gió mù hạ vậy thôi.

Nếu bạn sử dụng mọi khả năng mà trở lực vẫn còn, thì có vấn đề đây. Có thể là trở ngại siêu hình mà thiền giả gặp phải quá xa so với phạm vi của quyển sách này. Thường thì không thể xảy ra cho những người mới bắt đầu, nhưng cũng có khả năng xảy ra. Đừng bỏ cuộc, đi tìm sự giúp đỡ. Tìm một vị thầy tốt về thiền Minh Sát để giúp bạn xem vấn đề là gì. Họ có mặt để làm những chuyện này đây. 

Vấn đề 12: Tình trạng u mê hay tối tăm

Chúng ta đã nói qua hiện tượng “vô ký không.” Nhưng có một ngã rẽ đặc biệt mà bạn cần phải lưu ý canh chừng. Tâm ù lì có thể là một sản phẩm phụ dư thừa tạo nên do định thâm sâu. Bao giờ bạn hoàn toàn nới lỏng từ cơ bắp cho đến hệ thống phản xạ thần kinh, sẽ đưa đến trạng thái thật yên tĩnh, nhẹ nhàng nơi thân. Lúc ấy bạn cảm thấy thật phẳng lặng và như không có thân nữa. Đây là một trạng thái dễ chịu cho thấy là sự tập trung của bạn đang rất tốt, và đang gắng liền với hơi thở. Khi tiếp tục, trạng thái dễ chịu càng tăng thêm làm cho bạn chuyển sự chú tâm khỏi hơi thở. Bạn bắt đầu thật sự hưởng thụ trạng thái này và sự tập trung của bạn xuống dốc thê thảm. Sự chú tâm của bạn vỡ tan rời rạc, trôi dạt một cách vô vọng qua đám mây hạnh phúc dễ tan rã kia. Sau phút giây nó để lại cho bạn một trạng thái thất niệm, tình trạng u mê ngây ngất. Cách đối trị dĩ nhiênchánh niệm. Chánh niệm quan sát những hiện tượng này thì chúng sẽ bị xua tan. Khi cảm giác hạnh phúc trỗi dậy thì chấp nhận chúng, không cần phải tránh mà đừng nên bị chúng lôi cuốn. Đối xử với những cảm giác sinh lý này như-nó-là. Quan sát cảm giác như là cảm giác, tối tăm như là tối tăm. Xem xét khi chúng phát sinh rồi diệt đi. Đừng can thiệp vào.

Bạn sẽ phải gặp khó khăn trong tu tập là điều không thể nào tránh. Ai cũng thế. Bạn cứ xem chúng như là nỗi khổ về thân xác hay là những thử thách để vượt qua. Nếu cho chúng là những gánh nặng, thì nỗi khổ đau của bạn tăng thêm hơn mà thôi. Còn nếu bạn xem chúng là cơ hội cho bạn học hỏitrưởng thành thì viễn cảnh tâm linh của bạn không thể nào đo lường được.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15549)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22982)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14021)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12945)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55075)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9126)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14407)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14142)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14170)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13869)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36269)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19853)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18149)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19173)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19096)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20267)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17613)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31504)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15901)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14959)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14653)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46142)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35891)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21015)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21570)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23361)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34344)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19460)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18917)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22907)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20152)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18319)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19816)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19509)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33379)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34439)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54470)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37666)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21105)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17858)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63599)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17349)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49616)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27378)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20247)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22996)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18878)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16310)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17891)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20923)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17335)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14448)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16838)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16355)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15983)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17449)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21951)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15085)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13476)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14348)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15361)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14960)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12674)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13326)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27369)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12485)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13168)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14452)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16192)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12376)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15378)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12848)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12177)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13179)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21606)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11259)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22680)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15038)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14920)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46169)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22409)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14537)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12601)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18883)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14710)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43833)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56927)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13815)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47447)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13631)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14549)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28977)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33261)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38331)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15379)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31192)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12508)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40360)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43384)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46616)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant