Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 14: Chánh niệm so với sự tập trung

26 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8309)
Chương 14: Chánh niệm so với sự tập trung

CHÁNH NIỆM CƠ BẢN

Thiền sư: Henepola Gunaratana
Dịch Việt: Lương Thanh Bình

Chương 14: Chánh niệm so với sự tập trung

Tu thiền Minh Sáthoạt động làm thăng bằng tâm. Bạn sẽ vun trồng hai phẩm chất riêng biệt của tâm — Chánh niệm và sự tập trung. Một cách lý tưởng nhất là cả hai làm việc với nhau như một tổ hợp, chúng sẽ luôn luôn nâng đỡ lẫn nhau. Do đó, điều quan trọng nhất là trau dồi cả hai cùng một lúc và giữ cho cân bằng. Nếu bất kỳ một trong hai mạnh hơn thì phần yếu đang trả cái giá cho sự chênh lệch, sự thăng bằng của tâm cũng bị mất đi và sự tu tập không thể nào mang lại kết quả được.

Sự tập trung và Chánh niệm có hai chức năng khác biệt hẳn hoi. Chúng có vai trò riêng trong tu thiền và sự tương quan của cả hai cũng được xác định đến từng mức tinh vi. Sự tập trung thì thường được gọi là “Nhất điểm tâm”. Nó bao gồm hành động áp đặt tâm ở với một điểm cố định liên tục, không bị gián đoạn. Nên ghi nhớ từ ngữ “Áp đặt.” Sự tập trung thì gần như là loại hành động có tính cách ép buộc. Nó có thể phát triển lớn mạnh bởi sự tôi luyện không ngừng hoàn toàn bằng nghị lực. Và một khi đã được vững mạnh, nó có thể được giữ lại để dùng theo đặt tính áp đặt đó. Chánh niệm thì trái ngược lại hẳn, là một chức năng khéo léo, mỏng manh tinh chế dần dần cái khả năng nhạy cảm. Đây là hai người đồng sự trong công việc tu thiền. Chánh niệm là người cộng sự nhạy cảm, chuyên lo nhận biết sự việc; còn sự tập trung là người đồng sự có tránh nhiệm cung cấp năng lực, giữ gìn sự chú tâm bám chặt vào một điểm. Một cách lý tưởng, Chánh niệm chọn ra đối tượng cho sự chú tâm, NHẬN BIẾT khi nào sự chú tâm lơ là với đối tượng. Còn sự tập trung mới thật sự BẮT BUỘC sự chú tâm ở lại với đối tượng đã được chọn bởi chánh niệm. Nếu một trong hai người đồng sự yếu đi (không làm việc của mình hữu hiệu), thì cả tiến trình buổi tu tập không còn có tác dụng nữa.

Sự tập trung có thể định nghĩa như là một tính năng của tâm, có thể tập trung vào duy nhất một đối tượng mà không bị gián đoạn. Cần nên nhấn mạnh ở đây, sự tập trung chân chínhtrạng thái tâm lành mạnh tập trung trọn vẹn vào một điểm, lúc đó nó không bị tác động bởi ham muốn, ghét bỏ, và thiếu hiểu biết. Cũng có một trạng thái tâm tập trung vào một điểm nhưng không thiện lành, và nó sẽ không dẫn đến sự giải thoát. Bạn vẫn có thể có một cái tâm tập trung trong sự thèm khát, nhưng nó không đưa bạn đến đâu cả. Sự tập trung liên tục vào điều mình không ưa thích thì chẳng giúp ích được gì cho bạn cả. Thật ra, khả năng tập trung bất thiện có được cũng không tồn tại lâu bền — nhất là khi dùng nó vào việc thương tổn người khác. Khả năng tập trung chân chính thì bản chất của nó không bị ô nhiễm, là trạng thái tâm được kết hợp, có được năng lực và cường độ cao. Dùng thấu kính như là một ví dụ ở đây, tia ngoại tuyến của mặt trời song song chiếu xuống một tấm giấy sẽ không làm tổn hại gì, ngoại trừ làm cho mặt giấy ấm hơn một chút. Nhưng cùng một số lượng đưa xuống xuyên qua một thấu kính, rọi chiếu xuống một điểm và tờ giấy có thể bị bốc cháy. Sự tập trung là thấu kính, tạo ra cường độ nóng cần thiết để thấy xuyên suốt vào những phần sâu thẵm nhất của tâm. Chánh niệm chọn lọc đối tượng cho cái thấu kính chiếu vào và xuyên qua để thấy những gì nơi ấy.

Sự tập trung nên được dùng như một công cụ, mà dụng cụ thì có thể dùng tạo ra kết quả tốt lẫn xấu. Một cây dao bén có thể dùng để chạm trổ một mẫu điêu khắc đẹp hay tổn hại một người, do tùy thuộc vào người dùng con dao. Khả năng tập trung thì cũng giống như thế. Sử dụng đúng đắn có thể giúp bạn gần đến sự giải thoát, nhưng nó cũng có thể dùng để phục vụ cho cái Ngã. Nó có thể vận hành theo khuôn mẫu của sự thành công và sự cạnh tranh. Bạn có thể dùng khả năng tập trung để điều khiển người khác, dùng để thỏa mãn tính ích kỷ. Vấn đề căn bản là khả năng tập trung độc lập sẽ không cho bạn thấy cái hiện trạng của mình. Nó không soi rọi ánh sáng vào những vấn đề căn bản như sự ích kỷbản chất của khổ đau. Khả năng tập trung có thể dùng để đào xới vào tầng sâu kín của trạng thái tâm lý, nhưng dù cho là như thế, cái sức ép của bản ngã cũng không thể nào được hiểu thấu. Chỉ có Chánh niệm mới làm được việc đó. Nếu Chánh niệm không có mặt để nhìn xuyên qua thấu kính, xem những gì đang được phơi bày ra, thì sự phô diễn trở thành vô ích. Chỉ có Chánh niệm mới hiểu, mới mang lại trí tuệ. Khả năng tập trung còn có nhiều giới hạn khác nữa.

Sự tập trung thâm sâu (Thiền Định) chỉ có thể xảy ra trong những điều kiện đặt biệt. Phật tử trải qua nhiều khó khăn để kiến tạo lên những thiền viện và chùa chiền. Mục đích chính của họ là tạo điều kiện cho những hành giả có được một hoàn cảnh không bị chi phối, để học những khả năng này. Không có ồn ào, gián đoạn. Và cũng không kém phần quan trọng là không có sự quấy nhiễu tâm lý. Phát triển khả năng tập trung sẽ bị giới hạn bởi sự xuất hiện của năm Triền cái. Chúng là Tham dục, Sân hận, Hôn trầm, Trạo cử, và Mạn nghi. Chúng ta đã nói qua những trạng thái tâm này với nhiều chi tiết trong chương 12 ở phần trước.

Tu viện là một nơi có điều kiện ngoại cảnh được xếp đặt sao cho những ồn ào được giảm thiểu đến mức tối đa. Không có những người khác phái được phép sống chung ở đây. Cho nên, rất ít có cơ hội cho sự thèm khát. Không có tư hữu chấp nhận ở đây, để ngăn ngừa những tranh cải lặt vặt và ít cơ hội cho tham lam phát khởi. Những ý niệm nhảy lớp qua khỏi bước tu tập tâm tập trung cũng nên nhắc qua ở đây. Trong định thâm sâu (sự tập trung sâu thẵm), bạn sẽ hòa nhập cao độ vào đối tượng thiền, sẽ làm cho bạn quên hết tất cả những thứ phụ thuộc khác, chẳng hạn như: thân của bạn, định danh hay mọi thứ chung quanh bạn. Một lần nữa, tu viện là một phương tiện hữu ích. Thật tốt khi biết có người chăm sóc cho mình những thứ tầm thường như: thức ăn, an toàn, để thiền giả an tâm đi sâu vào trạng thái định thâm sâu.

Chánh niệm thì trái lại không có bị điều trở ngại nào cả, nó không bị lệ thuộc vào bất kỳ hoàn cảnh nào. Chánh Niệm chỉ là một nhân tố đơn thuần nhận biết thôi. Do đó, nó tự do quan sát bất cứ cái gì phát sinh — thèm khát, ganh ghét, hay huyên náo. Chánh niệm không bị giới hạn bởi điều kiện. Nó tồn tại trong tầm mức của mỗi phút giây trong hoàn cảnh nó phát sinh. Chánh niệm cũng không có một đối tượng cố định, mà luôn thay đổi, cho nên đối tượng cho sự chú tâm vô hạn định. Nó chỉ xem xét bất kỳ những gì đi qua tâm mà không phân loại gì cả. Sự xao lãnggián đoạn cũng được ghi nhận cùng một mức độ chú ý như là đề mục chính trong thiền. Trong trạng thái chánh niệm thuần khiết, sự chú tâm của bạn chỉ hòa hợp theo với những biến đổi đang xảy ra trong tâm. “đổi, đổi, đổi. Bây giờ cái này, và bây giờ cái này.”

Bạn không thể nào phát triển chánh niệm bằng sức mạnh. Nghị lực diễn đạt qua hành động nghiến răng không giúp được gì cho bạn cả, mà trên sự thật, nó còn làm cản trở sự tiến bộ nữa. Chánh niệm không thể nào vun đắp qua sự đấu tranh. Nó lớn mạnh bởi nhận thức ra được, bởi buông xả, bởi lắng động trong hiện tạithoải mái với những gì bạn đang kinh nghiệm. Điều này không có nghĩa là chánh niệm tự nó phát triển, mà khác hẳn, cần có nhiều năng lực, sự phấn đấu — nhưng sự phấn đấu không do sức mạnh vật lý. Chánh niệm được vun bồi bởi sự cố gắng dịu dàng, sự cố gắng không có gắng sức. Thiền giả vun đắp chánh niệm bằng cách liên tục không ngừng nhắc nhở mình với một lối nhẹ nhàng để duy trì sự tỉnh giác về bất cứ những gì đang xảy ra. Kiên trì và khều nhẹ (tự nhắc nhở mình) là bí quyết. Chánh niệm là vun bồi bằng cách liên tục kéo mình về trạng thái tỉnh giác, nhẹ nhàng, nhẹ nhàng, nhẹ nhàng.

Chánh niệm không thể nào dùng cho sự ích kỷ. Nó là sự cảnh giác vô ngã. Không có “tôi” trong trạng thái chánh niệm thuần khiết. Vì vậy không có cái tự ngã để cho ích kỷ. Trái ngược lại, chánh niệm đưa ra cái viễn cảnh thật sự về bản thân của bạn, cho phép mang tâm bạn lùi cách xa cơn ham muốn và sự ác cảm một bước, để bạn có thể nhìn chúng và nói, “À ha! Thì ra đó là con người thật sự của tôi.”

Trong trạng thái chánh niệm, bạn thấy mình chính xác như-nó-là. Thấy cách hành xử vị kỷ của mình, khổ đau, và mình đã tạo nên khổ đau ra sao; đồng thời cũng thấy ra bạn đã gây khổ đau cho người khác thế nào nữa. Bạn xuyên thẳng qua những từng lớp dối trá mà mình thường hay tự nhủ lòng về những gì mình thật sự nghĩ hay thấy ở đó. Chánh niệm đưa đến Tuệ giác.

Chánh niệm không phải là cố gắng đạt đến bất kỳ thứ gì, mà chỉ là quan sát. Vì thế, ham muốn và sự ác cảm không thể nào dính líu vào. Tranh đua và đấu tranh cho sự thành công không có chỗ đứng trong quá trình này. Chánh niệm không nhắm vào thứ nào cả, chỉ nhìn thấy bất kỳ những gì đang có ở đó. 

Chánh niệmchức năng rộng lớn và bao quát hơn khả năng tập trung. Nó bao gồm tất cả mọi chức năng. Tâm tập trung (Định) thì có tính dành riêng, chú tâm vào một vật và làm ngơ với những thứ khác. Chánh niệm thì có tính bao hàm, đứng cách xa từ điểm chú tâmquan sát với tầm rộng của điểm tụ hội, nhanh nhẹn ghi nhận bất kỳ biến chuyển nào đang xảy ra. Nếu bạn đang chú tâm vào một cục đá, định tâm sẽ chỉ thấy cục đá mà thôi. Còn chánh niệm đứng gần đó, chú ý cục đá, nhận biết cái tâm đang tập trung vào cục đá, biết được cái cường độ của sự tập trung kia và lập tức biết ngay nếu sự chú tâm kia lén rời xa cục đá. Chính chánh niệm nhận biết sự xao lãng xảy ra và nó sẽ mang sự chú tâm trở về lại với cục đá. Chánh niệm thì khó trau dồi hơn khả năng tập trung bởi lẽ tác dụng ở tầng mức sâu xa hơn. Khả năng tập trung chỉ nhắm vào tâm như là một tia sáng phóng xạ, có sức mạnh đốt cháy, chạy thẳng vào tâm làm sáng tỏ những gì ở đó, nhưng lại không hiểu những gì nó thấy. Chánh niệm có thể kiểm nghiệm cái cơ cấu của tự ngã và hiểu rõ những gì nó đang thấy, có thể xuyên thủng những bí ẩn của khổ đau và cơ chế của lo âu, phiền muộn. Chánh niệm có thể giúp cho bạn được tự do.

Nhưng có một điều tiến thoái lưỡng nan khác. Chánh niệm không phản ứng lại những gì nó thấy, mà chỉ quan sát và học hỏi. Nó là bản chất của sự kiên nhẫn. Vì thế, những gì bạn thấy cần phải được một cách đơn giản chịu trách nhiệm, chấp nhận, và quan sát không thiên vị. Điều này thật không dễ nhưng lại rất ư cần thiết thực hiện một cách toàn diện. Chúng ta là những người ngu dại, ích kỷ, tham lam, thích khoe khoang, nhiều thèm khát và lắm lừa dối. Đó là sự thật. Chánh niệm có nghĩa là thấy những sự thật này và kiên nhẫn với chính mình, chấp nhận tự thân như-nó-là. Điều này chừng như trái lại lẽ tự nhiên, vì chúng ta thường không chịu chấp nhận mà còn luôn luôn phủ nhận, biến đổi chúng, hay tự biện hộ cho mình về chúng. Điều này xảy ra có thể là do tình trạng nhàm chán, sự tức giận, nỗi sợ hãi, sự yếu đuối, nhiều khuyết điểm, hay đầy dẫy lỗi lầm. Dù cho là gì đi nữa, đó cũng là sự vận hành của con người chúng ta, và đó là sự thật.

Chánh niệm đơn giản chấp nhận bất cứ cái gì đang ở đây. Nếu bạn muốn phát triển chánh niệm, lối duy nhấtkiên nhẫn chấp nhận. Chánh niệm chỉ lớn mạnh theo một chiều mà thôi bằng cách tu tập chánh niệm liên tục không ngừng và chỉ đơn thuầnsự cố gắng chú tâm, còn có nghĩa là kiên nhẫn. Quá trình này không thể nào ép buộc và hấp tấp được, nó có vận tốc riêng của nó.

Chánh niệm và Khả năng tập trung hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau trong công việc tu tập thiền. Chánh niệm hướng dẫn năng lực của khả năng tập trung, là chỉ đạo viên của qui trình hoạt động. Khả năng tập trung cung cấp năng lực để cho chánh niệm xâm nhập vào tận cùng sâm thẵm của tâm. Sự hợp tác sẽ mang lại kết quả cho khả năng thấu hiểu sự thật ẩn dấu bên trong và sự hiểu biết. Hai chức năng này phải được vun đắp cùng lúc và theo tỷ lệ cân bằng. Chỉ một chút nặng hơn cho Chánh niệm vì nó là trọng tâm của thiền định. Định thâm sâu thì không thật sự cần thiết cho quá trình giải thoát, nhưng vừa phải thì vẫn là điều cốt yếu. Sự tỉnh giác quá mạnh mà không có sự êm ả để thăng bằng, thì sẽ gây ra trạng thái quá nhạy bén một cách man dại tương tự như lạm dụng bạch phiến. Sự tập trung cao độ mà không được thăng bằng với tỷ lệ của sự tỉnh giác sẽ gây ra chứng bệnh “tượng phật.” Thiền giả có được trạng thái tĩnh lặng đến nỗi ngồi đó như một cục đá. Hai trạng thái này cần phải tránh.

Giai đoạn ban đầu trong sự vun bồi tâm thì mỏng manh một cách đặt biệt. Đặt nặng vào chánh niệm vào lúc này sẽ chỉ làm chậm lại sự phát triển khả năng tập trung. Khi mới bắt đầu tọa thiền, việc làm trước tiên của thiền giả là ghi nhận sự hoạt động của tâm như thế nào vào lúc đó một cách chuẩn xác. Trường phái Phật giáo nguyên thủy gọi hiện tượng này là “tâm viên ý mã”. Trường phái Mật Tông Tây Tạng ví nó như dòng thác tư tưởng. Nếu bạn đặt nặng ở chức năng tỉnh giác vào lúc này, thì sẽ có nhiều thứ để chú ý cho sự tập trung, thành ra trở thành không thể. Đừng nản lòng, hiện tượng này xảy ra cho mọi người, và có giải pháp rất đơn giản để đối trị. Gom tất cả sự phấn đấu của bạn vào một điểm lúc ban đầu, và chỉ liên tục kéo về cái tâm lơ đễnh trở về lần này sang lần khác. Cứng rắn đối với nó. Toàn bộ phương pháp hướng dẫn để làm việc này được diễn đạt trong chương 7 và 8. Chỉ vài tháng sau khi tu tập đúng đắn thì bạn sẽ phát triển tiến bộ sức mạnh tập trung. Để rồi bạn có thể bắt đầu mang năng lực đó vào cho Chánh niệm. Nhưng đừng đi quá xa với khả năng tập trung đến nỗi bị rơi vào tình trạng ngu muội.

Chánh niệm vẫn là bộ phận quan trọng hơn khả năng tập trung. Nó nên được gầy dựng khi nào bạn cảm thấy mình sẵn sàng. Nó cung cấp nền tảng cần thiết cho sự phát triển của định thâm sâu sau này. Phần lớn những sai lầm trong phạm vi thăng bằng rồi sẽ được điều chỉnh theo thời gian. Chánh định phát triển một cách tự nhiên nối tiếp theo sau trạng thái chánh niệm bền vững. Càng phát triển yếu tố nhận biết nhiều hơn, bạn sẽ bắt ra sự xao lãng nhanh hơn và kéo tâm về lại đề mục thiền chóng hơn. Kết quả tự nhiên là khả năng tập trung lớn mạnh hơn. Khi khả năng tập trung phát triển, nó sẽ giúp phát triển chánh niệm. Sức mạnh tập trung bao nhiêu, thì cơ hội sự xao lãng xảy ra ít bấy nhiêu. Bạn chỉ đơn giản ghi nhận vọng tâm và rồi mang sự chú tâm về lại đề mục chính.

Vậy thì hai nhân tố nên có khuynh hướng thăng bằng và giúp đỡ nhau để lớn lên một cách tự nhiên. Dường như chỉ có một nguyên tắt cần thiết để tuân theo ở đây, là đặt sự phấn đấu của bạn vào sự tập trung ở lúc ban đầu, cho đến khi nào cái tâm khỉ vượn kia lắng xuống một chút. Rồi mới chú trọng vào Chánh niệm. Nếu bạn thấy mình bị bấn loạn, thì chú trọng vào sự tập trung. Nếu thấy mình bị rơi vào u mê, chuyển qua chú trọng vào chánh niệm. Trên bình diện khái niệm, nói tổng quát thì chánh niệm là bộ phần cần phải chú trọng hơn.

Chánh niệm hướng dẫn sự phát triển tu tập trong thiền định bởi vì nó có khả năng chú tâm vào chính nó nữa. Chính chánh niệm sẽ cho bạn sự nhận biết về sự tu tập của mình. Nó sẽ cho bạn biết mình tu tập ra sao, nhưng đừng nên quá lo lắng nhiều về điều này. Đây không phải là một cuộc đua. Bạn không phải tranh đua với bất kỳ một ai và không có giới hạn của thời gian.

Điều khó khăn nhất trong khi học chánh niệm là không ỷ lại vào bất kỳ trạng thái tâm hay cảm giác nào cả. Chúng ta vốn đã có những hình tượng nhất định về tu thiền rồi. Một người trầm lặng làm việc âm thầm trong một cái hang động nào đó một cách chậm chạp. Những thứ này chỉ là điều kiện huấn luyện. Chúng được gầy dựng để nuôi dưỡng khả năng tập trung và học tu tập chánh niệm. Một khi đã học được kỷ năng này rồi, thì bạn có thể pha chế với những hạn chế tu tập khác cho phù hợp với hoàn cảnh của riêng mình. Bạn không cần phải di chuyển với vận tốc của con ốc để có được chánh niệm. Thậm chí bạn không cần đến sự bình tĩnh. Trong khi đang giải những bài toán vi phân cao cấp, bạn vẫn có thể chánh niệm. Dù cho đang dự khán cuộc xô xát trong trận đấu bóng, bạn vẫn có thể giữ vững chánh niệm, hay ngay lúc giữa cơn giận điên tiết dữ dội lên cao. Hoạt động sinh-tâm lý không làm trở ngại cho chánh niệm. Nếu bạn thấy tâm của mình đang ở trong tình trạng cực kỳ năng động, thì chỉ đơn giản quan sát cái bản chất và cường độ của sự tích cực đó mà thôi. Nó chỉ là một phần của cuộc trình diễn đang đi qua bên trong tâm bạn. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15482)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22897)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13953)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12898)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54953)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9060)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14343)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14083)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14118)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13811)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36153)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19775)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18095)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19099)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19044)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20192)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17547)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31380)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15848)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14895)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14611)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46044)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35794)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20950)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21472)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23250)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34165)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19404)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18820)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22831)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20086)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18271)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19737)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19453)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33303)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34308)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54357)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37549)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21043)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17797)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63456)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17280)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49478)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27259)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20169)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22896)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18811)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16252)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17795)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20850)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17270)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14388)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16785)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16285)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15926)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17388)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21857)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15008)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13407)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14301)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15297)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14906)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12588)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13274)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27315)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12425)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13114)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14405)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16128)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12326)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15310)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12806)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12131)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13112)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21508)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11204)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22574)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14940)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14858)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46044)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22321)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14378)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12519)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18799)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14631)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43704)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56807)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13759)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47343)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13565)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14466)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28876)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33171)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38251)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15328)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31099)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40211)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43244)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46469)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant