Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài Giảng Thứ Nhất

03 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10082)
Bài Giảng Thứ Nhất


Life, Death and After Death
S
NG, CHT và SAU KHI CHT
Lama Thubten Yeshe
Vô Huệ Nguyên chuyển ngữ - Phổ Từ Diệu Hương hiệu đính
Việt Nalanda Foundation ấn tống và phát hành tại Hoa Kỳ 2009

BÀI GIẢNG THỨ NHẤT

Tối nay tôi sẽ trình bày vắn tắt quan điểm của Phật giáo về đời sống thật của con người, về sự chết và trong khi chết.

Phật giáo dạy rằng con người có một giá trị rất cao, đáng tôn quí, đặc biệt ở sự thông minh tuyệt vời và tính trực giác siêu đẳng. Theo quan điểm của Phật giáo, tiến trình phát triển của con người thì khác xa với các loài khác như thú vật, cây cỏ; mỗi người đều có một tiểu sử rất dài, có một tiến trình phát triển hầu như bất tận, đặc biệt là phần tâm thức của mỗi cá nhân

Trong Phật giáo, chúng tôi quan niệm rằng bản tính tự nhiên của tâm thức (tâm bản nhiên) con người thì hoàn toàn trong sángthanh tịnh. Chúng tôi cũng quan niệm rằng tâm thức của con người mới chính là nguyên tử năng của con người chứ không phải cái thân xác thịt xương máu huyết này. Ðồng thời chúng tôi cũng xác nhận rằng con ngườiđời sống hạnh phúc hay đau khổ tất cả đều tùy thuộc vào thái độ của tâm thức của riêng từng cá nhân: nếu anh/chị nghĩ đời anh/chị khổ, anh/chị sẽ khổ. Tất cả những phiền toái, tất cả những vấn đề, những rắc rối của con người đều do chính tâm của con người tạo ra --- không phải Thượng Ðế, không phải Phật.

Từ quan điểm đó, chúng ta biết con người có khả năng tạo ra những phiền phức cho đời sống thì chính con người cũng có khả năng giải quyết những vấn đề khó khăn của đời sống. Thật là sai lầm khi nghĩ rằng, “Những vấn đề của tôi quá vĩ đại, bao la như bầu trời, rộng lớn như không gian, hầu như tất cả đều là phiền phức, rắc rối, dù cho có phá hủy cả mặt trời, cả mặt trăng thì cũng không hủy hết được những vấn đề của tôi!” Thật là sai lầm. Thật là u mê! Tất cả chúng ta nên nhìn nhận rằng chúng ta phải có trách nhiệm giải quyết tất cả những vấn đề của chúng ta. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về tất cả những hành động từ thân, khẩu và ý của chúng ta. Chúng ta không thể đổ, không thể trút lên đầu người khác.

Hầu như tất cả những vấn đề, những rắc rối của con người đều do trí thông minh mà ra, bởi vì chúng ta có quá nhiều liên hệ với sự thông minh và những ý niệm. Dĩ nhiên, cũng có rất nhiều vấn đề đến từ trí tuệ, nhưng hầu như cội nguồn của tất cả những vấn đề trong đời sống của chúng ta như sự giận dữ, sự bạo động đều từ trí thông minh mà ra. Chúng ta đã không nhìn sự kiện, hiện tượng như chúng là mà chúng ta đã thông minh hóa sự kiện nên chúng ta đã có những vấn đề.

Khi sinh ra, khi còn là một đứa trẻ nhỏ, chúng ta đã chẳng có trong ta một vấn đề chính trị nào, phải không quý vị? Hãy suy nghĩ cho kỹ đi. Trong tâm khảm của một đứa trẻ chẳng có một tí chính trị nào. Khi còn là một đứa trẻ nhỏ, chúng ta chẳng có một chút gì là rắc rối kinh tế, chẳng có một chút gì là khó khăn xã hội, bởi vì chúng ta chưa sẵn sàng, bởi vì chúng ta chưa trưởng thành đủ để có những xung khắc của cái tôi, để thông minh hóa những sự kiện. Khi chúng ta còn là trẻ thơ chúng ta không có những sự xung đột tôn giáo hay kỳ thị chủng tộc trong tâm của chúng ta.

Khi chúng ta còn nhỏ chúng ta không có những kiểu thông minh này; bắt đầu lớn là bắt đầu thông minh hóa, bắt đầu thông minh hóa, thông minh hóa: “Ai đây?” “Tôi là ai?” “Làm sao tôi nhận ra tôi?” “Cái gì là khuôn mẫu của đời sống?” Cái tôi của chúng ta muốn có một phương pháp, một đường lối để khám phá, để nhận biết mình; phải có một cái gì để bám vào, để chiếm hữu. Chúng ta không còn tự nhiên. Chúng ta đã không còn hồn nhiên. Ðó là lý do tại sao nói chúng ta hoàn toàn tạo ra mọi thứ, hoàn toàn do chúng ta làm ra, nên chúng ta có nhiều lầm lẫn, nên chúng ta không bao giờ hài lòng, không bao giờ thỏa mãn, không bao giờ thoải mái.

Chúng ta có thể nhìn thấy một cách rất rõ hầu như tất cả những vấn đề trong thế giới tân tiến văn minh ngày nay đều bắt nguồn từ những sự tương quan mâu thuẫn, từ những sự liên hệ đối nghịch nhau mà ra. Ðàn ông có vấn đề với đàn bà, đàn bà có vấn đề với đàn ông. Người có vấn đề với người. Tất cả những vấn đề này đều đến từ sự thông minh hóa của chúng ta, chúng ta chơi những trò chơi thông minh với nhau, những vấn đề này không phải từ trí tuệ, không phải từ trực giác, không phải từ tiên thiên tri thức. Chúng ta đã sáng tạo, chúng ta đã xây dựng lên những sự kiện bằng những quan niệm thông minh của chúng ta, “Ðây là đối tượng tuyệt hảo cho tôi, tôi phải có, tôi phải chiếm lấy, nếu không có nó, nếu không chiếm được nó, thà là tôi chết còn hơn! Những cái kia không phải, chỉ có cái này mới thực là của tôi!”

Vấn đềchúng ta đã sử dụng trí thông minh một cách không tự nhiên, quá ư là u mê, chúng ta không thật chút nào. Chúng ta chưa hề chạm được sự thật. Bởi vì chúng ta mù quáng, khi diễn tả một trái táo, chúng ta nói, “Ôi chao, quả táo này tốt quá, thật là tuyệt, màu sắc tươi rói, thơm phức, tôi thích nó quá.” Chúng ta đã diễn tả sự vật theo chiều hướng xúc cảm của chúng ta, theo chiều hướng bệnh hoạn của một cái tâm tràn đầy ảo tưởng của chúng ta. Chúng ta đã gán cái vọng tưởng tốt đẹp ngon lành trên quả táo để rồi chính cái vọng tưởng đó làm chúng ta thất vọng, để rồi quả táo làm chúng ta bất mãn khi chúng ta biết được sự thật, nó chua quá, nó chát quá. Lý dochúng ta bất mãn với đối tượng ‘quả táo’ này là chúng ta đã có sự liên hệ với cái tâm vọng tưởng của chúng ta về quả táo, chúng ta đã tưởng nó tốt, chúng ta đã không thật, chúng ta đã không biết sự thật là quả táo đang như thế nào.

Theo Phật giáo, tất cả chúng ta đều có khả năng phân tích, đều có khả năng khám nghiệm cái tâm của chúng ta xem, tâm đang suy nghĩ theo chiều hướng nào, tích cực hay tiêu cực, vọng tưởng hay chân thật. Chúng ta có khả năng làm điều này. Như chúng ta đã biết, danh từ “Buddha, Phật” có nghĩa là “Một người đã hoàn toàn phát triển, đã hoàn toàn trưởng thành, giác ngộ!”ø Mỗi một người chúng ta đều có cơ hội, đều có khả năng phát triển được như vậy, mỗi một người chúng ta đều có khả năng tẩy xóa đi tất cả những ô nhiễm, những mê mờ vọng tưởng của chúng ta để trở nên một người hoàn toàn trưởng thành, hoàn toàntrí tuệ.

Trong một xã hội tràn đầy sự cạnh tranh, giành giựt; chúng ta luôn luôn muốn chiếm hữu những tiện ích của xã hộichúng ta đang sống, của đất nước mà chúng ta đang ở và của những người chung quanh chúng ta. Tất cả những vấn đề này đều bắt nguồn từ sự thông minh của chúng ta, chúng ta tự tạo ra, chúng ta chụp giựt, chúng ta luôn luôn nói, “Tôi muốn,” “Tôi muốn.” Ðó là đau khổ, đau khổ từ đó mà ra. Quý vị có hiểu không? Có rất nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta đã bị trầm uất, chúng ta đã bị khổ đau, chúng ta đã bị dằn vặt mà không có một lối thoát. Nếu chúng ta đã ôm ấp những vọng tưởng quá cao để tự an ủi, để xây dựng mộng mơ của chúng ta thì khi chúng ta không đạt được những điều mong muốn đó, chúng ta sẽ bị chết khát trong biển cả mênh mông của chính thế giới huyễn ảo mà chính chúng ta đã tạo ra. Chúng ta không thể đương đầu nổi, chúng ta không còn sức để chống chọi với nó nữa, vì nó đã trở nên quá khó khăn, quá to lớn.

Vì thế, tôi đề nghị trước khi sự lầm lạc to lớn xẩy ra, chúng ta nên từ từ, từ từ giải trừ, từ từ loại bớt những nhầm lẫn nhỏ hàng ngày và bằng phương cách đó chúng ta sẽ cảm thấy dễ chịu hơn, dễ sống hơn, hoàn cảnh của chúng ta sẽ ngày càng tốt hơn. Chúng ta nên tự hỏi thông minh như vậy tốt hay là xấu? Lanh lợi kiểu đó có lợi hay là hại? Theo quan điểm của Phật giáo, thay vì dùng trí thông minh để sống, chúng ta nên dùng trí tuệ, nên phân tích, nên tìm hiểu xem sự kiện thật sự có giá trị hay không.

Sở dĩ tôi nói rằng tất cả những rắc rối, những vấn đề của chúng ta, của xã hội, của thế giớicủa riêng từng cá nhân đều đến từ sự thông minh hoá, bởi vì sự thông minh này được xây dựng trên một cái tôi, trên một bản ngã không được tự nhiên, bởi vì khi sinh ra, khi còn là một trẻ thơ, chúng ta không có những vấn đề này và khi chết chúng ta cũng không có những vấn đề này.

Trong Phật giáo, có thiền định, thiền định là gì, thiền là nhìn thấu suốt những gì đang xẩy ra, đang diễn ra một cách tự nhiên hay không tự nhiên, trong sáng hay u mê --- đây chính là những xung đột của cái tôi. Thiền định cho chúng tađến gần.” Càng thiền định, càng đến gần sự thật, càng nhìn ra được phía bên kia của những cảm xúc là gì, càng nhìn ra được những sự xung đột của chính cái tôi như thế nào, và sẽ biết được cái gì thật sự đang hoạt động trong tâm của chúng ta như nhìn một đối tượng ở ngoài đời, ngay trước mặt.

Qua Phật giáo, chúng tôi tin tưởng rằng tất cả chúng sinh đều có những vấn đề, rắc rối khổ đau xẩy ra mỗi ngày, thường ngày. Chúng ta có những xung độtnội tâm của chúng ta về chính cái tôi của chúng ta, chúng ta có những vấn đề về những xúc cảm của chúng ta, chúng ta đã bị ám ảnh. Chúng ta biết chúng ta có đủ thứ vấn đề, đủ thứ rắc rối, nhưng chúng ta cũng biết rằng chúng ta có khả năng đến gần chúng, nhìn được chúng và thấu suốt được tận gốc rễ phía bên kia của vấn đề là gì. Thực sự chúng ta có khả năng này. Chúng ta không nên nghĩ, “Tôi quá lầm lẫn, bản tính của tôi hoàn toàn sai lầm. Tôi không thể bỏ chúng được, không có cách nào để thay đổi chúng, để chuyển hóa chúng.” Ðó là một thái độ quá sai lầm, chúng ta đã hạ thấp giá trị con người, chúng ta đã từ chối khả năng của chúng ta.

Phật giáonhân bản, là một loại khoa học tôn giáo, Phật giáo đặc biệt chú trọng đến những vấn đề của con ngườitìm cách giải quyết những vấn đề này --- triết lý Phật giáo không quá chú trọng đến Phật hay Thượng đế. Ðó là lý do tại sao chúng ta tin tưởng vào giá trị của con người, mục đích để thẩm định, để tìm ra sự thật của tâm thức chúng ta, thay vì bỏ quên tâm mà chỉ để ý đến thân xác. Hãy luôn nghĩ rằng thân xác chỉ mang lại bệnh tật và không có giá trị, thân xác không mang lại sự thỏa mãn. Sự thỏa mãn thật nằm ở trong tâm thức, sự thỏa mãn chỉ có từ tâm thức, chẳng phải từ cái thân xác xương thịt này. Tâm thức của con người thì khác xa với cái thân xác hay khối óc này.

Vậy, điều mà tôi muốn đặc biệt chú trọng đến đời sống thực sự của con người là tất cả chúng ta đều có khả năng giải quyết tất cả những vấn đề của chúng ta, những vấn đề của nhân loại. Chúng ta nên hiểu rõ điều này, “Rắc rối là của tôi, vấn đề là của tôi, tôi sẽ giải quyết nó, tôi phải giải quyết nó.” Bằng cách đó, chúng ta tạo được sự tự tin mãnh liệt, sự tự tin ở trong tâm của chúng ta. Chúng ta phải hiểu rằng trí tuệ của chúng ta có khả năng giải quyết tất cả những rắc rối của con người. Tất cả mọi người đều có trí tuệ. Ðừng bao giờ nghĩ rằng bản tính tự nhiên của con người hoàn toàn ngu si, vô minh, chúng tatrí tuệ, chúng ta có tình yêu, chúng talòng từ bi. Ðừng nghĩ rằng, “Tôi là người nóng nảy, tôi là người đầy sân hận, tôi không có trí tuệ, tôi không có tình yêu, tôi không có lòng từ bi.” Ðây là một thái độ vô cùng tiêu cực về bản tính của chúng ta. Khi có tự tin, khi tin tưởng vào chính mình, khi có kinh nghiệm về trí tuệ của chính mình, về lòng từ bi của chính mình, chúng ta sẽ trở nên tự nhiên hơn, thoải mái hơn, chỉ lúc đó chúng ta mới có thể phát triển trí tuệ một cách hoàn toàn tự nhiên, trí tuệ chỉ có thể phát triển trong tình trạng cởi mở thoải mái tự nhiên.

Sự thông minh hóa và cái tôi (ngã chấp) làm hủy hoại trí tuệ. Trí tuệ là trí tự sinh, tự có, trí tuệ không hề bị ảnh hưởng bởi triết lý, bởi giáo lý, bởi thầy dạy hay bởi môi trường sống...Trí tuệ --- tiên thiên tri thức --- hằng ở đó, thay vì bị nhốt kín ở bên trong thì trí tuệ được bảo vệ để tìm đường phát triển.

Chúng ta biết rằng con người luôn tự tạo ra những vấn đề cho chính mình. Như vậy, chúng ta không nên đổ lỗi cho xã hội, cho bạn bè hay cho cha mẹ của chúng ta, chúng ta không nên trút lên đầu bất cứ người nào khác. Vấn đề của chúng ta là do chính chúng ta tạo ra. Chúng ta là người tạo ra vấn đề thì cũng chính chúng ta là người phải giải quyết vấn đề.

Ngay tại thời điểm của sự chết, ngay trong tiến trình chết, một cách rất tự nhiên tất cả những ý niệm như: chính trị, kinh tế, xã hội, kỳ thị, tư bản, cộng sản...đều biến mất vào không gian, chúng biến đi một cách tự nhiên. Hãy suy nghĩ những vấn đề này: tất cả những thái độ ích kỷ, tất cả những suy tính để chiếm phần lợi ích từ người khác như, “Tôi thật là thông minh, tôi chiếm tất cả những nguồn tài nguyên của người Phi châu, tụi nó ngu quá, chúng chẳng biết gì cả, nên tôi phải chiếm lấy.” Tất cả những thái độ ích kỷ, tất cả những tính toán mưu cầu lợi ích đều tan biến vào không gian khi chúng ta chết.

Tất cả những vấn đề này không chỉ biến mất khi chúng ta chết mà ngay cả khi chúng ta ngủ. Khi chúng ta đi vào giấc ngủ, tất cả những ý niệm này cũng tan biến đi y như khi chúng ta chết. Ngay cả những xung đột của ngã chấp như tôi đã trình bày ở trên cũng biến mất. Tốt hơn hãy đi ngủ, ngủ còn hơn là thức để suy tính, để thông minh hoá, để cảm xúc, để nóng giận ganh ghét... vì khi ngủ chúng ta đi vào một trạng thái tự nhiên, một trạng thái căn bản của tâm thức không có sự thông minh.

Theo truyền thống Phật giáo, chúng tôi thiền vào buổi sáng vì buổi sáng khi vừa thức dậy tất cả những ý niệm ô nhiễm đã biến mất nên chúng ta có được một chút yên tĩnh trong sạch. Trong lúc ngủ, tất cả những năng lực đã được tích tụ sẽ biến mất trong một thời gian; rồi khi chúng ta thức dậy, chúng cũng từ từ trở lại. Nếu thiền vào buổi sáng, chúng ta sẽ ở trong tình trạng trung dung hơn là ở vào một đầu của cực điểm. Sự tập trung của chúng ta ở buổi sáng sẽ dễ hơn là ở những thời điểm khác. Nếu chúng ta không phải là một thiền sinh hay nếu chúng ta cũng không phải là một thiền giả mà chỉ là một người đang suy nghĩ về một vấn đề gì thì buổi sáng cũng là lúc trong sáng nhất để chúng ta làm việc. Ðó là sự đề nghị của tôi. Trong Phật giáo, không phải chỉ có một phương pháp thiền là tập trung vào một đối tượng mà chúng tôi còn có những phương pháp khác như quán sát, phân tích để tìm ra sự thật.

Một điều vô cùng quan trọng là chúng ta phải biết tâm của chúng ta làm việc như thế nào trong thường ngày, trong lúc ngủ cũng như trong lúc chết. Một điều cũng vô cùng quan trọng là chúng ta nên tự giáo huấn chúng ta về vấn đề này. Như vậy chúng ta sẽ không còn sợ hãi. Nhiều người nghĩ rằng chết là một sự khiếp đảm kinh hồn, là sẽ đi vào một cái lỗ đen vĩ đại, khi tới đó, chúng ta sẽ bị lỗ đen cuốn hút, bị nó ăn thịt. Sự thậtchúng ta đã chết ngay từ lúc chúng ta sinh ra, sự chết đã có khi vừa sinh ra. Chúng ta nghĩ chết là một sự kiện vĩ đại! Vĩ đại hơn mất việc làm, vĩ đại hơn mất người yêu, vĩ đại hơn mất vợ mất chồng. Ðây là một thái độ sai lầm.

Chúng ta cũng thường nghĩ chết là xấu --- đây chỉ là một phóng tưởng của tâm. Thật ra chết còn tốt hơn cái hoa này, bởi vì cái hoa này không cho chúng ta đại lạc nhưng sự chết có thể cho chúng ta sự bình an vĩnh cửu. Kinh nghiệm về sự chết còn tốt hơn có vợ, có chồng hay có người yêu bởi vì những người này chỉ cho chúng ta một chút hạnh phúc. Họ không giải quyết được những vấn đề căn bản của chúng ta; họ chỉ có thể tạm giải quyết được một vài rắc rối về cảm xúc của chúng ta. Nhưng ngay tại lúc chết, tất cả những sự tức bực đều chấm dứt, tất cả những cảm giác đều chấm dứt. Tiến trình của một cái chết tự nhiên xẩy ra rất lâu và rất chậm.

Khi chúng ta chết một cách tự nhiên, tứ đại (đất, nước, lửa và khí) từ từ suy đồi, từ từ thoái hóa --- chúng ta gọi chúng đang bị “thẩm thấu, bị hút vào” --- chúng suy đồi từ từ, giảm hoạt động từ từ; từ từ, chúng tạo nên, chúng để lại những ảo giác cả bên trong lẫn bên ngoài thân xác của chúng ta . Ðồng thời ngũ uẩn --- sắc, thọ, tưởng, hành, thức --- cũng bắt đầu chìm dần, mất dần.

Thông thường, chúng ta nghĩ rằng thị giác của chúng ta thật là tuyệt diệu, thị giác cho chúng ta những khoái lạc. Chúng ta cũng nhận thấy những kinh nghiệm xúc giác thật là quan trọng nên chúng ta ham muốn càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, trong Phật giáo, chúng tôi quan niệm không nên bám víu, không nên để bị ràng buộc vào những đối tượng gây cảm giác. Ðó là sự từ bỏ, sự buông xả. Buông xả là một hiện tượng rất tự nhiên. Tại sao? Rất dễ hiểu, khi sinh ra, khi còn là một trẻ thơ, chúng ta không có một vấn đề gì, không có một rắc rối nào về sự ràng buộc; tất cả những sự ràng buộc, níu kéo, bám chấp, dính mắc đều được bồi đắp lên trong đời sống xã hội. Khi còn nhỏ dại chúng ta không có những ham muốn này.

Khi còn trong bụng mẹ, chúng ta đã từ bỏ tất cả mọi thứ, đã buông xả tất cả mọi thứ. Chúng ta chẳng có gì, chúng ta chẳng tích trữ cái gì, chúng ta chẳng chụp giựt cái gì, chúng ta chẳng tranh giành cái gì với ai. Khi còn trong bụng mẹ, chúng ta chẳng có một đối tượng nào để bị lôi cuốn, hấp dẫn chúng ta, cũng chẳng có một đối tượng nào để chúng ta phải bám víu vào, phải khổ sở vì nó. Tại thời điểm đó, chúng ta đã từ bỏ, từ bỏ một cách tự nhiên, buông xả một cách tự nhiên!

Bây giờ, chúng ta có một chiếc xe... vậy mà cũng chưa đủ. Chúng ta mua thêm xe thứ hai... cũng không đủ, chưa thỏa mãn. Chúng ta muốn nữa, muốn có một cái tàu. Có tàu rồi, chúng ta muốn một cái lớn hơn nữa...vân vân... Quý vị có hiểu không? Và cứ như thế mà muốn cho đến kỳ cùng bất tận, không bao giờ đủ. Ðó là sự không thỏa mãn, đó là sự bất mãn. Chúng ta nên hiểu rằng chúng ta được sinh ra trong sự buông xả, một sự buông xả rất tự nhiên. Chúng ta không cần phải tranh giành, bám víu, chiếm hữu, chúng ta không cần phải quá lo lắng. Chúng ta vào đời để được an vui, chúng ta đi vào cuộc đời để hưởng an lạc. Nhưng chúng ta đã tạo ra quá nhiều lo âu, quá nhiều rắc rối, quá nhiều phiền não, rồi khi chết đi, một lần nữa chúng ta lại trở về với sự buông bỏ, chúng ta lại chẳng có gì, lại trở về với sự buông bỏ tự nhiên.

Vậy, hãy trở về với thiên nhiên, với sự tự nhiên của chúng ta. Ðừng nghĩ rằng triết lý buông xả, triết lý từ bỏ của Ðông phương là xấu, là bị ô nhiễm, hoặc chỉ là một ý tưởng. Sự thỏa mãn không tùy thuộc vào vật chất. Sự thỏa mãn đến từ sự đơn giản, đơn sơ. Tôi không có ý nói quý vị xấu bởi vì quý vị đang ở trong một xã hội giầu có. Tôi không ganh tị đời sống của quý vị để nói quý vị xấu. Tất cả chúng ta đều cần một đời sống đơn giản để có sự an lành, để có sự hoàn mãn ở bên trong này (Lạt ma chỉ vào trái tim của ngài) Tôi không ganh tị sự thịnh vượng của quý vị hay những lợi lộc mà quý vị đang có. Câu hỏi của chúng ta là, tại sao chúng ta đã không thỏa mãn? Tại sao chúng ta thường xuyên bất mãn? Chúng ta đã luôn luôn đổ lỗi cho những cái ở bên ngoài, chúng ta đã luôn luôn tìm những cái ở bên ngoài để “cái này không đủ, cái kia không đủ.” Ðiều này không đúng! Cái “không đủ” đang ở bên trong này chứ không phải ở ngoài kia. Ðó là điều chúng ta cần phải kiểm điểm, cần phải kiểm thảo!

Khi tôi nói ‘buông bỏ’ có nghĩa là để đời sống tiếp diễn một cách dễ dàng, thoải mái, tự nhiên. Buông bỏ không có nghĩa là chúng ta phải vất bỏ đi tất cả mọi thứ. Buông bỏ có nghĩa là chúng ta không quá bận tâm về sự vật, không quá bám víu vào vật chất. Hãy nới lỏng sự gắn bó, hãy thư giãn, thoải mái, thay vì bám chặt, đeo dính.

Theo ý kiến của riêng tôi, thí dụ, người Thụy Ðiển có một đời sống rất hạnh phúc sung sướng --- quý vị không cần phải vất hết tiền bạc đi mới gọi là buông xả. Quý vị cứ làm tiền, cứ vui hưởng nó nhưng trong một chiều hướng hợp lý, cảm nhận và cám ơn cuộc đời của quý vị, đồng thời đừng quên những người đang sống nghèo khổthế giới Thứ Ba. Nếu không, chỉ lo tích trữ tiền bạc rồi ngồi nhìn tiền thì cuộc đời chẳng vui chút nào. Quý vị nên biết giá trị của những đồng tiền Thụy Ðiển, chúng ta nên biết giá trị của những tiện ích này, chúng ta nên biết giá trị của đời sống sung túc ở đây, hãy hưởng tất cả những lợi lộc này và thỏa mãn những gì hiện có. Nếu không như vậy thì dù quý vị có sở hữu tất cả tiền bạc của xứ sở này chúng cũng chẳng làm cho quý vị hạnh phúc vui tươi.

Theo tâm lý học Phật giáo, dù những đối tượng vật chất có làm chúng ta thỏa mãn hay không cũng tùy thuộc vào sự quyết định của tâm thức chúng ta. Tâm thức chúng ta nói như thế này, “cái này làm tôi vui sướng, cái này tốt...” mặc dù chúng ta chưa nhìn thấy vật đó, rồi khi nhìn thấy nó tận mắt, chúng ta mới nghĩ, “ồ, cái này tốt.” Tâm thức của chúng ta nói như thế này, “ông bạn này xấu.” Rồi khi gặp họ, chúng ta chỉ nhìn thấy những cái xấu của họ.

Lý do tại sao Phật giáo Tây Tạng dậy con người hiểu tiến trình của sự chết --- giải thích cái gì sẽ xẩy ra, làm thế nào để đối diện với những gì sẽ xuất hiện, làm thế nào để đương đầu với những ảo giác xung đột lẫn nhau --- là để chúng ta có thể đương đầu với chúng thay vì sợ hãibối rối. Trong lúc đó, chúng ta dễ dàng nhận diện được cái gì huyễn ảohuyễn ảo, vọng tưởngvọng tưởng, mê lầmmê lầm.

Sau sự tàn lụi của tứ đại, khi chúng đã biến mất, chúng ta vẫn còn thể tâm thức (thân vi tế). Ngay cả khi không còn thở, thể tâm thức vẫn còn đó. Các bác sĩ Tây phương tin tưởng rằng khi chúng ta chấm dứt thở là chúng ta đã chết, rồi họ bỏ chúng ta ngay vào thùng ướp lạnh! Theo quan niệm của Phật giáo, mặc dù một người không còn thở, họ cũng vẫn còn sống và đang kinh nghiệm, đang trải qua bốn hình ảnh (visions): hình ảnh có mầu trắng, mầu đỏ, mầu đen và ánh sáng trong suốt*. Bốn hình ảnh này xuất hiện sau khi chúng ta đã hoàn toàn ngưng thở, chúng cho phép một thiền giả có thể ở trong trạng thái trong sáng, như-như này nhiều ngày, nhiều ngày, có khi cả tháng. Họ ở trong trạng thái trong sáng này, trạng thái đại lạc, tiếp xúc với sự thật của vũ trụ thay vì bị ô nhiễm.

Dĩ nhiên là người Tây phương sẽ nghĩ, “Ồ, đây chỉ là đức tin của Phật tử, ông sư này đang nói về cái gì ông ta tin, chẳng có gì liên hệ đến chúng ta, đến những người Thụy Ðiển.” Nhưng đây là kinh nghiệm của con người, mặc dầusự kiện, có hiện tượng chưa phải là kinh nghiệm của chúng ta.

Tôi đã được nghe kể về một người Pháp, ông ta đã chết và sống lại. Ông ta không phải là người có đạo, nhưng theo bác sĩ, ông ta đã chết hai tiếng đồng hồ rồi ông ta tỉnh dậy. Ông ta viết ra những gì ông ta đã trải qua trong khi ông ta chết. Ðây là một thí dụ điển hình, ông ta không tin bất cứ một tôn giáo nào, ông ta không hề biết Phật giáo, nhưng họ xác nhận ông ta đã chết, ông ta sống lại và ông ta đã viết ra những gì ông ta đã trải qua trong lúc chết.

chúng ta có tin sự giải thích của Phật giáo hay là không tin, chúng ta vẫn có thể hiểu một cách dễ dàng khi nhìn vào tiến trình đi vào giấc ngủ. Tôi nghĩ rằng bây giờ với kỹ thuật khoa học tân tiến, chúng ta đã có những máy móc có thể đo, có thể quan sát được tiến trình cảm giác trong khi chết hay trong giấc ngủ. Không cần phải có những sự giải thích của Phật giáo, tôi tin rằng con người có thể phân tích những tiến trình này bằng máy móc tinh vi. Chúng ta có thể so sánh tiến trình của giấc ngủ với tiến trình của sự chết.

Tôi nghĩ rằng đã hết giờ và tôi chắc chắn rằng tôi đã gây ra nhiều nghi ngờ cho quý vị, tốt hơn, chúng ta hãy đi vào phần hỏi và trả lời.

Thính giả: Con người chỉ có khả năng biết khi có sự so sánh giữa các sự vật --- Làm thế nào chúng ta có thể biết được nhiệt độ nếu chúng ta không có sự thay đổi, sự biến thiên của nhiệt độ? Nghĩa là cần phải có cái xấu để có thể đánh giá được cái tốt, có lẽ sự bất toàn là một phần của cái vẹn toàn trong sự sáng tạo để tạo nên sự chuyển động. Làm thế nào ngài có thể loại bỏ cái xấu để giữ lại cái hoàn toàn tốt?

Lạt ma: Chúng ta không nên quan tâm nếu không có cái xấu thì làm sao có cái tốt. Ðó chỉ là một lối suy nghĩ đáng thương. Dĩ nhiên, tôi đồng ý với anh hạnh phúc hay đau khổ là những điều kiện tùy thuộc vào nhau. Anh có thể nhận thấy rằng có những sự kiện anh có thể làm giảm bớt đau khổ mà tăng thêm hạnh phúc.

Thính giả: Xin ngài trình bày thêm một chút, có thể có sự xung đột cho một người đang theo Thiên Chúa giáo muốn đổi qua Phật giáo?

Lạt ma: Chẳng có trở ngại nào cả! Phật giáo hay Thiên Chúa giáo cũng chỉ là sự thông minh hóa của con người mà thôi. Tại sao? Có một chút triết lý khác biệt giữa Phật giáoThiên Chúa giáo, nhưng sự khác biệt triết lý này cũng giống như sự khác biệt quần áo --- người Thụy Ðiển mặc như quý vị đang mặc, người Tây Tạng mặc như tôi đang mặc, nhưng tôi tin chắc rằng quý vị sẽ thích bơ làm từ con trâu Tây Tạng cũng như tôi thích bơ của Thụy Ðiển và sô cô la của quý vị!

Tôi có rất nhiều học trò ở Hoa kỳ, nhiều bà cụ là tín đồ Thiên Chúa giáo, nhưng tôi dạy họ Phật giáo: làm thế nào để thiền, đời sống là gì --- Chúng ta đối diện với cuộc đời mỗi ngày và Phật giáo là tất cả những thứ đó. Phật không chống lại Thượng đế, Thiên Chúa không chống lại Phật. Những cụ bà ở tiểu bang Indiana, Hoa Kỳ, đã 80 tuổi, nhiều lắm, họ bảo tôi, “Phật giáo giúp tôi rất nhiều trong việc tìm hiểu Kinh thánh, trước kia tôi chẳng hiểu Kinh thánh, Phật giáo đã giúp chúng tôi hiểu Kinh thánh hơn, hơn rất nhiều.”

Chúng ta luôn luôn tạo ra vấn đề, thí dụ, Phật giáo nói rằng tất cả những vấn đề của chúng ta đều do tâm của chúng ta tạo ra, Thiên Chúa giáo nói rằng Thượng đế tạo ra tất cả mọi thứ. Theo tôi vấn đề này chẳng có gì đối chọi nhau. Giáo lý của Thiên Chúa giáo nói Thiên Chúa sáng tạo ra tất cả mọi sự trên thế gian này, đó là một điều tốt cho tâm của những người Tây phương bởi vì cái tôi của người Tây phương nghĩ, “Tôi làm tất cả mọi thứ.” Cá tính của người Tây phương quá mạnh. Tất cả những người Tây phương đều nghĩ họ là nguyên lý sáng tạo, vì thế khi họ nói “Thượng đế là đấng sáng tạo --- không phải anh,” sẽ giúp họ hạ thấp xuống, họ sẽ khiêm nhường hơn. Phật giáo cũng tốt; Phật giáo quan niệm rằng tâm của chúng ta tạo ra tất cả mọi vấn đề --- anh không thể đổ lỗi cho Phật! Tôi hoàn toàn đồng ý với quan niệm này. Dĩ nhiên, tôi không được dạy bảo nhiều về Kinh thánh nhưng tôi vẫn học Kinh thánh và học một chút Phật giáo. Theo quan điểm của tôi, căn bản của Thiên Chúa giáocăn bản của Phật giáo không có gì chống đối nhau, luôn luôn đi cùng với nhau.

Hãy lấy một thí dụ khác, những người Tây phương đã trở nên một Phật tử nói rằng, “Phật giáo có thiền định, tôi thích như vậy. Thiên Chúa giáo không có thiền định.” Ðây là một quan niệm sai lầm. Quý vị có hiểu tôi nói gì không? Có rất nhiều Phật tử Tây phương nghĩ, “A, tôi tìm được Phật giáo, Phật giáo tốt quá, tôi có thể thiền mỗi ngày. Tôi có thể thiền về sự chết, tôi không cần đi nhà thờ, Thiên Chúa giáo không có thiền.” Họ hãnh diện với cái tôi của họ vì họ tìm thấy được Phật giáo! Ðó là sai lầm. Họ đã không hiểu Thiên Chúa giáo, Thiên Chúa giáo thực sự có thiền; tội nghiệp họ, họ đã không hiểu tôn giáo riêng của đất nước họ.

Thính giả: Tại sao một đứa trẻ khóc khi nó đói, nếu nó hoàn toàn buông xả?

Lạt ma: Thật là tốt, tranh luận rất tốt. Ðứa trẻ khóc vì nó đói, nó không khóc vì nó không có bồ hay nó bị mất vợ! Ðược chưa? và đứa bé không đòi hỏi phải có sô cô la, “A...” giống như vậy. Chúng ta khóc vì sô cô la. Anh có nghĩ rằng đứa bé có vấn đề chính trị không? Hay nó không có đủ tiền lương? Phải chăng một đứa bé khóc vì mất việc hay không kiếm được việc làm? Tất cả là như vậy, có rõ ràng không quý vị?

Thính giả: Có nhiều người có những kinh nghiệm giống nhau về sự chết khi họ dùng thuốc. Ngài nghĩ thế nào?

Lạt ma: Tôi nghĩ đó là một thí dụ tốt. Ðúng, đó là kinh nghiệm của con người. Tôi nghĩ điều này có thể giúp họ hiểu được rằng con người không phải chỉ có cái thân xác này mà thôi. Bên ngoài cái thân xác này còn có một cái gì khác nữa, nguyên tử lực, như tôi đã trình bày trước đây. Nguyên tử lực của con người chính là tâm thức của con người, tâm con người --- chứ không phải cái xương này.

Tuy nhiên, nghiện ngập thì xấu, vì nó làm anh mất trí nhớ. Như vậy nó có tốt có xấu. Khi anh đã có kinh nghiệm rồi, đừng dùng nó nữa. Ðược không? Cũng như khi anh đã có kinh nghiệm với một người bạn xấu, hãy dừng lại!

Thính giả: Ngài đã nói về tứ đại không phải năm. Ngài có thể kể ra không?

Lạt ma: Ðất, nước, lửa và gió (khí)

Thính giả: Ngài cũng nói về ngũ uẩn, xin ngài nói ra.

Lạt ma: Ðó là: sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

Thính giả: Ngài có thể nói về tam độc?

Lạt ma: Ðó là: tham, sân và si (vô minh)

Thính giả: Xin ngài nói về ba nguyên lý kết tập thành tứ đại.

Lạt ma: Trong Phật giáo chúng tôi không có ba nguyên lý này.

 

Thính giả: Tôi nghĩ rằng tâm thức trong lúc mơ thì thô kệch. Ngài nói rằng sự thông minh sẽ biến mất trong lúc mơ. Tôi muốn hiểu thêm về vấn đề này.

Lạt ma: Trước hết, khi chúng ta ngủ, rồi khi tứ đại đã chìm đi như trong tiến trình chết, chúng ta sẽ thấy ánh sáng rất trong (clear light, tịnh quang). Rồi từ ánh sáng trong này chúng ta xuất hiện ra thân trong lúc mơ (the dream body). Cái thân trong lúc mơ này giống như ở trong một câu lạc bộ về đêm của Tây phương (mờ mờ ảo ảo.) Lý do mà tôi nói hai sự kiện khác nhau là vì trạng thái ngủ và trạng thái mơ khác nhau. Trạng thái mơ hay thân-mơ (thân trong lúc mơ) xuất hiện từ trong giấc mơ khi cái tâm-mơ (tâm thức trong lúc mơ, the dream mind) bắt đầu làm việc. Khi nguyên tố thứ nhất (địa đại) của thân-mơ chìm là lúc chúng ta bắt đầu hết mơ, chúng ta trở lại trạng thái ngủ rồi đến trạng thái thức dậy. Quý vị hiểu không? Trạng thái ngủ và trạng thái mơ là hai hiện tượng khác nhau.

Thính giả: Ở trong mơ, chúng ta có tạo nghiệp không? 

Lạt ma: Có, có chứ. Mật tông giải thích rằng, tiến trình chết cũng giống như tiến trình đi ngủ. Từ tiến trình chết vào trong thân trung ấm (bardo, cõi trung gian sau khi chết) cũng giống như tiến trình ngủ đi vào giấc mơ, bởi vì kinh nghiệm hầu như giống nhau. Khi chết những nguyên tố (tứ đại) của cái thân xác thô kệch này bị thẩm thấu, cũng giống như khi ngủ, cái thân xác này và những ý niệm thô kệch bị thẩm thấu, có những luồng ánh sáng xuất hiện trong lúc ngủ, rồi thân vi tế xuất hiện, đó là cái thân trong lúc mơ. Sự kiện này giống như cái thân trong cõi trung ấm và những hoạt động cũng giống như những hoạt động ở cõi trung ấm.

Cái thân trong lúc mơ thì vi tế hơn cái thân xác thô kệch trong lúc tỉnh này, cái tâm trong lúc mơ cũng vi tế hơn cái tâm trong lúc tỉnh. Do đó, trong Phật giáo những thiền giả đã có được những kinh nghiệm của tâm trong lúc mơ trong sáng hơn để soi vào tương lai hay vào những sự kiện hơn là tâm trong lúc tỉnh. Ðó là lý do tại sao chúng tôi đã giải thích rằng bất cứ cái gì xẩy ra ở tâm trong lúc mơ, bất cứ hiện tượng nào hay hình ảnh nào mà chúng ta có được trong lúc mơ đều hoàn toànliên hệ đến lúc tỉnh, thành ra chúng ta không nên phán đoán, phê bình nó như chúng ta vẫn thường nói: đụng chạm, sờ mó sự vật trong lúc tỉnh thì thật hơn là trong lúc mơ. Chúng có giá trị như nhau.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19401)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18523)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16021)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29855)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25450)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21595)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17801)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20803)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26303)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33291)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52113)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22855)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23396)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39622)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21780)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22354)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6824)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22703)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69770)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 43965)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23040)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35009)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44057)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42877)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44389)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24887)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24346)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39179)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39209)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17242)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18014)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19242)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35633)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24192)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19574)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20384)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18280)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18957)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18925)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17461)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19289)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30812)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19173)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20501)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19530)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19751)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29791)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17816)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19378)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19861)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58748)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24393)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23487)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39731)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26692)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40747)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22845)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22905)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21573)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18602)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22573)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21060)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19187)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20916)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20314)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30525)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20173)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17441)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16568)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16839)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14940)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14819)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22839)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16022)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16184)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15236)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26069)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17178)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15772)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19756)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17659)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14666)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14727)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19111)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15099)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33024)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17472)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19110)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21799)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 22967)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16605)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16457)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16478)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22964)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26346)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12724)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29489)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27692)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25884)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18446)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant