Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ngày Tết Suy Ngẫm Về Câu Thơ “xuân Qua Hoa Vẫn Nở”

06 Tháng Hai 201903:58(Xem: 12709)
Ngày Tết Suy Ngẫm Về Câu Thơ “xuân Qua Hoa Vẫn Nở”
NGÀY TẾT SUY NGẪM VỀ CÂU THƠ
“XUÂN QUA HOA VẪN NỞ” CỦA XUYÊN THIỀN SƯ

Thích Trung Nghĩa

Ngày Tết Suy Ngẫm Về Câu Thơ “xuân Qua Hoa Vẫn Nở”

Theo truyền thống văn hóa Trung Quốc cũng như truyền thống Á Đông, cây tùng cúc, trúc, mai tượng trưng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông trong một năm; trong đó, tùng và trúc biểu trưng cho khí chất người quân tử, cúc và mai biểu đạt cho vẽ đẹp thiên nhiên ban tặng. Hoa cúc, hoa mai, hoa đào nở rộ trong tết nguyên đán, “Gió xuân thổi nhẹ cánh hoa lay, ngày xuân hoa đào hé nở say, ngắm ngàn sắc biếc hoa diệu phẩm, dã sơ tú lệ tả chẳng đầy”,[1] từ đó khiến cho nhà thơ, nhà thư họa say ngất trước phong cảnh khoe sắc cho đến tàn úa của muôn hoa. Tác phẩm Đào Hoa Viên Ký của Đào Uyên Minh chuyên môn viết về hoa thắm hay tả cảnh hoa tàn: “Hoa cúc tàn mùa đông, trông xa ngắm Nam sơn. Mặt trời lặn rặng núi, bầy chim bay về tổ, chẳng thấy vết chim bay”. Đào Uyên Minh là một trong những nhà thơ lớn ở Trung Quốc. Đào Hoa Viên Ký của ông trải qua bao thời đại đã khiến cho không ít kẻ say sưa hoa đào, cho đến kẻ chứa đựng ý hướng xuất trần cũng bị hoa đào kéo lui “Tay nắm Tâm Kinh ngắm hoa đào, cũng do tâm chưa xuất trần, bởi vấn vương hoa đào nở thắm”.[2]

Xuyên thiền sư gọi đủ là Thiền sư Đạo Xuyên, là một vị Thiền sư sống vào thời kỳ Nam Tống Trung Quốc. Cuộc đời Thiền sư chuyên nghiên cứu tư tưởng Kinh Kim Cang, để đời quyển Xuyên Lão Kim Cang Kinh Chú. Điều khiến cho người ta chú là tài nghệ văn chương của Thiền sư hay mượn cảnh vật để giảng giải nghĩa lý Kim Cang và đạt cảnh giới cao. Như Thiền sư làm thơ kệ đáp “Vượn hú đỉnh núi, hạc khóc giữa rừng. Mây dăng gió quyện, nước vọt dãy dụa. Rất ưa thu muộn sương nữa đêm, một tiếng ngỗng vang xé trời lạnh”.

  Câu thơ “Xuân qua hoa vẫn nở”[3] thuộc thể thơ “ngũ ngôn tứ tuyệt” (bốn câu năm chữ), đại khái câu thơ nói mùa xuân qua đi nhưng cảnh tượng hoa nở vẫn thản nhiên tồn tại, nếu nói đến cảnh giới thiền định thì câu thơ này hình dung tâm thức trước khi ngộ đạo và sau khi ngộ đạo.[4][5] Câu thơ mang tính tỉ lệ nghịch, mâu thuẫn căn bản với quy luật tự nhiên, tức là xuân qua hoa sẽ tàn úa. Phật học Thiên Thai nhấn mạnh một niệm ba ngàn, viên dung tam đế, viên dung ba pháp bất tung bất hoành, được biểu đạt theo kết cấu công thức toán học hiện đại thì đó là: 1 3 3 1; nếu đối chiếu với bài thơ này thì cũng có điểm tương ứng, ước chừng chỉ định thực tướng vô tướng. Kinh Kim Cang có thuyết “Thực tướng, tức là phi tướng, cho nên Như Lai nói danh thực tướng”, “Nếu thấy các tướng phi tướng, tức thấy Như Lai”, “Như Lai là chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi đâu” cũng là theo con số: 1 3 3 1. Thực ra, những quan điểm này của Thiên thai chủ yếu được rút tỉa từ Đại Bát Niết-bàn kinh mà ra,[6] trong Kinh nói đến: Phật tính chính nhân, Phật tính nhân duyên, Phật tính liễu nhân

Hiện nay vẫn chưa xác định ai là tác giả bài thơ?. Giới nghiên cứu nêu 4 tác giả qua 4 thời đại:

1, Của khuyết danh.

2, Người ta căn cứ 4 câu thơ “Người ngắm hoa quế rụng, Đêm lặng núi xuân tĩnh, trăng nhô chim núi sợ, dưới suối chim hót xuân” trong bài thơ Điểu Minh Giản của Vương Duy, và bởi lẽ trong thơ ông được thậm xưng hóa “Trong thơ có họa, trong họa có thơ” cho nên cho rằng bài thơ của ông. Ông là nhà thơ lớn ở Trung Quốc, ông cũng am hiểu Phật học và đã soạn văn bia Lục Tổ Huệ Năng có tên “Lục Tổ Huệ Năng Bi minh”, đây là một sử liệu quan trọng, mang chức năng truyền tải sự kiện lịch sử, phản chiếu dòng lịch sử cổ truyền nên giúp cho giới khảo cứ học đương đại dùng làm căn cứ tư tưởng thiền học Huệ Năng, khiến cho nhà Phật học nổi tiếng Lữ Trừng phải nhấn mạnh nên lấy văn bia của ông làm y cứ.[7]Nhưng trải qua tham khảo, họ thấy trong tác phẩm Vương Thạch Thừa Tập của ông không có hai câu đầu, nên nhận xét bài thơ không phải của Vương Duy.

3, Của Cao Uyên cuối thời Thanh, bởi lẽ trong thơ Cao Uyên hay miêu tả cảnh vật tự nhiên. Trong những bài thơ để đời, chỉ có bài thơ Thôn Cư của Cao Uyên là tuyệt diệu. Thôn Cư với thể dạng thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu bảy chữ) là: “Cỏ xanh chim bay trời tháng hai, cành dương lất phất khói xuân rợp. Học trò tan học về nhà sớm, thả diều tung cánh gió Đông bay”.

4, Của Xuyên thiền sư

Cũng có những bản văn nêu đến 5 tác giả, đó là có thêm Đường Bá Hổ thời Minh. Tương truyền, lần nọ ông đi dạo trên cây cầu ở phố cổ Hàng Châu, đến khúc cầu bị rạn nứt, bèn nhìn thấy trên lan can cây cầu có khắc bài thơ này nhưng chữ được chữ mất, và ông dặm thêm vào mà thành bài thơ hoàn chỉnh.

Bốn mùa trong một năm cũng là đại biểu cho văn hóa tư tưởng qua các thời kỳ, nhất là mùa xuân đã đánh mạnh tâm thức loài người rạo rực để rồi nuối tiếc. Các nhà Nho học thời gần đây cũng mượn bốn mùa nhằm thuyết minh cho biến hóa tư tưởng xã hội, xem mùa xuân là “gọn mà sạch, mùa hạ là “rõ mà văn”, mùa thu là “mật mà nghiêm”, đông là “chẳng nỡ nghe”.[8]Các nhà Phật học Đại thừa cũng có mượn bốn mùa hoặc mượn năm giai đoạn trong kiếp sống con người để nói về  để thuyên thích về Phật giáo từ lúc sáng lập cho đến thời kì suy tàn, hoặc tiến trình phát triển bộ phái hay tông phái Phật giáo. Trong trước tác Ấn Độ Chi Phật Giáo của Hòa thượng Ấn Thuận, Ấn Thuận đem cuộc đời con người ví cho 5 thời kỳ Phật giáo, “Thanh văn lấy gốc cùng trở về giải thoát” tượng trưng cho con người mới sinh, “Khuynh hướng bồ-tát Chia dòng Thanh văn” tượng trưng cho trẻ em, “Đại thừa và Tiểu thừa lấy gốc bồ-tát làm nền tảng” tượng trưng cho người lớn, “Khuynh hướng Như Lai chia dòng Bồ-tát” tượng trưng cho người già, “Như Lai lấy gốc nhất thể Phật” tượng trưng cho người chết.[9] Trên thực tế thì 5 thời kỳẤn Thuận nêu cũng tương đồng với phân kì căn bản của giới học thuật Phật giáo nguyên thủy, bộ phái Phật giáoPhật giáo Đại thừa.[10]Điều đáng nói ở đây là Ấn Thuận tiến một bước nhấn mạnh đặc trưng thời kỳ hoán chuyển Phật giáo, “Như thời kỳ 4 và 5 cũng là chỉ cho học giả nói đến Không tính bát-nhã đến vạn pháp duy thức, cho đến đặc điểm biến hóa trong quá trình phát triển Mật giáo.”[11]

Nhìn chung, tuy nay vẫn chưa xác định tác giả bài thơ, nhưng bài thơ vẫn lưu tồn qua hơn ngàn năm nay và được làm khóa đề văn học. Theo các Đại sư Phật học hiện đại như Thích Thánh Nghiêm hoặc Thích Tinh Vân đều cho rằng tác giảThiền sư Đạo Xuyên. Bởi lẽ dưới con mắt của Thiền sư thì muôn vật chưa từng sinh diệt, cũng chưa từng bị ngoại cảnh xoay chuyển,[12] vì vậy phải ‘viễn quán’ biến huyễn mà khiến cho tâm cảnh được an nhiên trong tiết xuân hay tiết đông.

 


[1] Huỳnh Hạ Niên, Thích Trung Nghĩa dịch, Lịch sử Phật giáo Trung Hoa cổ đại, Nxb. Hồng Đức, 2014, tr.260

[2]Sđd, tr.258

[3] Nguyên bài là “Xa trông núi có sắc, gần không nghe nước chảy, xuân qua hoa vẫn nở, người đến chim chẳng sợ”, nguyên bản là “Viễn quán sơn hữu sắc, cận thính thủy vô thanh, xuân xứ hoa hoàn tại, nhân lai điểu bất kinh

[4]Theo lời của Pháp sư Thánh Nghiêm trong bài viết “Thiền thi và Thiền họa”

[5]Hòa thượng Tinh Vân,  “Tinh Vân thuyết kệ: Như như bất động”, Nhân Gian phước báo

[6] Xem bản văn “Triết học Phật giáoHiện tượng học duy thức” (Đối thoại giữa Ngô Nhữ Quân và Lại Hiền Tông, ngày 25/12/2000, Trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn thuộc Viện Nghiên Cứu Trung Ương, Đài Bắc, Đài Loan)

[7] xem Lữ TrừngTrung Quốc Phật học nguyên lưu lược giảng, Nxb. Thư cục Trung Hoa, 1979, tr.222

[8]Xem bản văn “Nghĩa học của Pháp sư Bạc Thường” của Hoàng Hạ Niên,

[9] Thích Ấn ThuậnẤn Độ Chi Phật Giáo, Nxb. Thư cục Trung Hoa, 2011

[10] Tham khảo bản văn “Ấn ThuậnVương Ân Dương - lấy Ấn Độ Chi Phật Giáo làm trung tâm” của Hoàng Hạ Niên, đăng trên học báo Nghiên cứu Phật học Huyền Trang, kì 2, tr.205

[11]Sđd

[12] xem Hòa thượng Tinh Vân,  “Tinh Vân thuyết kệ: Như như bất động”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10449)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11135)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12618)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10727)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16464)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10735)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22763)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11901)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11395)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10582)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12249)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11093)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9933)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10233)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11785)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10607)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12254)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9698)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11175)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13747)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9504)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12517)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9602)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10330)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10433)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10206)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9795)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10968)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11931)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10073)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10693)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9458)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9813)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8676)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9415)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14424)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8701)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12444)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10325)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8972)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10469)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9231)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8698)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10413)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9056)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8284)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11917)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9625)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10142)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10156)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18966)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9330)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8907)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9487)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8923)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14652)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10013)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8264)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8815)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8878)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8647)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9248)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14448)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8953)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8656)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8959)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10430)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8539)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9906)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24139)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10073)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10933)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8902)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9377)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7935)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9173)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15230)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10240)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9472)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17272)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21195)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12060)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10150)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19073)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25827)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7891)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14647)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10551)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11257)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9424)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18478)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12251)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11791)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10605)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13242)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9891)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9190)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9288)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15715)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25458)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant