Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03 Tư duy và thay đổi

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11454)
03 Tư duy và thay đổi


Hồi còn bé ở Tây Tạng, tôi có nghe câu chuyện về bà Krisha Gotami, một thiếu phụ có cái diễm phúc được sống vào thời Phật. Đứa con đầu lòng của nàng mới chừng một tuổi bỗng nhiên ngã bệnh và chết. Quá đau khổ, nàng ôm xác con đi lang thang khắp các nẻo đường, gặp ai cũng xin cứu cho nó sống lại. Một số người tảng lờ, vài người cười nhạo, nghĩ nàng đã điên, nhưng cuối cùng nàng gặp một người thông minh chỉ cho nàng biết đức Bụt là người duy nhất trên đời có thể làm được cái phép lạ mà nàng đang cần. Bởi thể nàng tới nơi Bụt, đặt xác con dưới chân ngài và kể lại chuyện trên. Bụt lắng nghe với lòng bi mẫn vô biên, rồi ngài nhẹ nhàng bảo:

- Chỉ có một cách duy nhất để hàn gắn nỗi đau buồn của con. Con hãy xuống phố, xin về cho ta một hột mù tạt từ một nhà nào chưa hề có người chết.

Gotami sung sướng đi ngay xuống phố thị. Nàng đứng trước ngôi nhà đầu tiên và nói:

- Bụt đã bảo tôi đi tìm một hột mù tạt từ nơi nhà chưa từng biết đến cái chết. Người trong nhà nói:

Nhiều người đã chết trong nhà này.

Nàng đến nhà kế tiếp, và cũng được bảo:

Trong gia đình chúng tôi, có vô số người thân đã chết.

Cứ thế qua đến nhà thứ ba thứ tư cho đến khi nàng đã đi quanh hết cả thành phố, và nhận ra rằng cái điều kiện mà Bụt đặt ra không thể nào thực hiện. Nàng bèn đem xác con đến nghĩa địa và nói lời cuối cùng vĩnh biệt nó, rồi trở về nơi Bụt. Ngài hỏi:

Con có đem lại hột mù tạt đó không?

Nàng đáp:

Thưa Bụt không. Con bắt đầu hiểu được bài học Bụt cố dạy con. Sự đau khổ đã làm cho con mù quáng, và con nghĩ rằng chỉ có con là khổ vì cái chết.

Phật hỏi:

Tại sao con trở lại?

Nàng đáp:

Để xin Bụt dạy cho con chân lý về chết là gì, cái gì ở đằng sau và bên kia sự chết, và có cái gì ở trong con sẽ không chết hay không.

Đức Phật khởi sự giảng dạy cho nàng.

- Nếu con muốn biết sự thật về sống và chết, con hãy tư duy liên tục về điều này: “Có một định luật duy nhất trong vũ trụ không bao giờ thay đổi, đó là mọi sự đều chuyển biến vô thường. Cái chết của con con bây giờ đã giúp con thấy được rằng cái thế giới của sinh tử mà ta đang sống là một biển khổ vô biên không thể nào chịu nổi. Chỉ có một con đường duy nhất ra khỏi vòng sống chết bất tận đó là con đường giải thoát. Vì sự đau khổ đã khiến con sẵn sàng học hỏi, và tâm con sẵn sàng mở ra để đón nhận chân lý, nên ta sẽ khai thị cho con”.

Krisha Gotami quỳ dưới chân Bụt và theo Bụt suốt quãng đời còn lại của nàng. Khi gần chết, nàng đã giác ngộ.
 
CHẤP NHẬN CÁI CHẾT
 
 Câu chuyện về Krisha Gotami chỉ cho ta một điều mà ta có thể chiêm nghiệm nghiền ngẫm: Một sự xúc chạm gần gũi với cái chết có thể đem lại một sự tỉnh thức thực sự, một sự chuyển hóa trong toàn bộ nhân sinh quan của ta.

Hãy lấy ví dụ cái kinh nghiệm cận tử. Có lẽ một trong những khải thị quan trọng nhất của nó đã chuyển hóa con người trải qua kinh nghiệm ấy như thế nào. Những nhà nghiên tầm đã lưu ý một số hậu quảbiến đổi đáng ngạc nhiên nơi những người ấy: Đó là họ bớt sợ hãi và biết chấp nhận sự chết; họ quan tâm đến việc giúp đỡ người khác nhiều hơn, họ càng thấy rõ tầm quan trọng của yêu thương, họ ít quan tâm đến những theo đuổi vật chất, họ càng tin tưởng vào chiều hướng tâm linhý nghĩa cuộc đời, và dĩ nhiên họ càng mở rộng niềm tin về đời sau. Một người đã nói với Kenneth Ring:

- Tôi đã được chuyển hóa từ một con người lạc lõng lang thang không mục đích, không thiết gì trong đời ngoài ratài sản vật chất, đến một người có định hướng, có động cơ sâu xa, có một mục đích trong cuộc đời, và một niềm tin mãnh liệt rằng sẽ có một quả báo vào cuối cuộc đời. Lòng say mê của cải, ham muốn sở hữu vật chất nơi tôi đã được thay bằng sự khát khao tìm hiểu về tâm linhước mong thấy thế giới được cải thiện.

Một phụ nữ nói với Margot Grey, một nhà nghiên cứu Anh quốc về kinh nghiệm cận tử:

- Tôi dần dần cảm thấy có một ý thức cao về tình yêu, khả năng cảm thông, khả năng tìm thấy niềm vui và lạc thú trong những việc nhỏ nhặt tầm thường nhất quanh tôi... Tôi phát sinh một lòng bi mẫn lớn lao đối với người bệnh và người sắp chết, và hết sức mong sao cho họ biết và ý thức được rằng tiến trình chết chỉ là một sự nối dài của đời sống. (1)

Tất cả chúng ta đều biết những khủng hoảng đe dọa sự sống như bệnh nặng, v.v... có thể phát sinh những chuyển hóa sâu xa tương tự. Freda Naylor, một bác sĩ can đảm ghi nhật ký khi chết vì bệnh ung thư như sau:

- Tôi đã có những kinh nghiệm mà có lẽ không bao giờ tôi có được, về điều nầy tôi phải cảm ơn bệnh ung thư. Sự khiêm cung, giảng hòa với cái chết của chính tôi, nhận ra năng lực tâm linh tôi - một điều luôn làm tôi ngạc nhiên - và nhiều điều khác nữa về chính mình mà tôi đã khám phá bởi vì tôi đã dừng tại chỗ, xác định lại và tiến lên. (2)

Nếu chúng ta quả có thể “xác định lại và tiến lên” với lòng khiêm cung và cởi mở ấy, và thực sự chấp nhận cái chết của chúng ta, thì ta sẽ tự thấy mình sẵn sàng hơn để đón nhận những chỉ dẫn về tâm linh để tu tập. Sự sẵn sàng đón nhận này còn mở đến một khả năng khác kỳ diệu hơn: Khả năng phục hồi đích thực.

Tôi nhớ một phụ nữ Mỹ trung niên đến viếng Dudjom Rinpoche tại Nữu ước vào năm 1976. Bà ta không đặc biệt quan tâm gì tới Phật giáo, nhưng bà nghe nói có một bậc thầy vĩ đại đang ở trong thành phố. Bà đang ốm nặng, và trong cơn tuyệt vọng bà muốn thử bất cứ gì, cả đến sự viếng thăm một bậc thầy Tây Tạng! Lúc ấy tôi làm người thông dịch.

Bà vào phòng, ngồi trước mặt Dudjom Rinpoche. Bà quá xúc động bởi chính tình trạng mình và sự hiện diện của ngài, tới nỗi bà òa lên khóc. Bà la lên: [1] [2]

- Bác sĩ của tôi bảo tôi chỉ còn sống vài tháng nữa. Thầy có thể nào giúp tôi không? Tôi đang chết.

Ngạc nhiên cho bà làm sao, một cách nhẹ nhàng đầy từ mẫn Dudjom Rinpoche khởi sự cười khúc khích. Rồi ngài bình tĩnh nói:

- Bà thấy, ai trong chúng ta cũng đang chết cả. Chỉ là vấn đề thời gian. Một số người chết sớm hơn người khác, thế thôi.

Với những lời ít ỏi đó, ngài giúp bà ta thấy được tính chất phổ quát của sự chết, và cái chết sắp tới của bà không phải là duy nhất. Điều ấy làm bà đỡ lo. Rồi ngài nói về chết và chấp nhận cái chết. Ngài nói về niềm hy vọng ở trong sự chết. Và cuối cùng ngài cho bà một phương pháp tu tập để chữa trị, mà bà đã hăng hái tuân theo.

Không những bà khởi sự chấp nhận cái chết, mà nhờ tu tập một cách hoàn toàn thành khẩn, bà đã khỏi bệnh. Tôi đã nghe nhiều trường hợp khác, có những người được chẩn đoán là bệnh đã tới thời kỳ sau chót, chỉ còn sống vài tháng, nhưng khi họ đi vào độc cư, tu tập tâm linh, thực sự đối mặt với chính mình và với cái chết, thì họ lại hết bệnh. Điều này cho ta thấy gì? Rằng khi ta chấp nhận chết, chuyển hóa thái độ của ta đối với cuộc đời, và tìm ra mối liên hệ căn để giữa sống và chết, thì lúc ấy, một khả năng chữa trị kỳ diệu có thể xảy ra.

Những Phật tử Tây Tạng tin rằng những bệnh như ung thư có thể là một lời cảnh cáo nhắc ta nhớ rằng ta đã lãng quên những khía cạnh sâu xa của bản thể ta, những nhu cầu tâm linh chẳng hạn. Nếu ta nghiêm túc đón nhận sự cảnh cáo này, và thay đổi một cách căn bản chiều hướng cuộc đời ta, thì rất có hy vọng chữa lành không những thân xác ta mà cả toàn thể con người ta nữa.
 
 SỰ THAY ĐỔI SÂU XA TRONG TÂM ĐỂ
 

 Tư duy sâu xa về vô thường, như Krisha Gotami đã làm là thấu hiểu tận trong tim bạn cái sự thật được diễn tả trong những câu thơ của một bậc thầy hiện nay, Nyoshul Khenpo:

Bản chất mọi sự đều huyễn hóa phù du

Những người nhận thức nhị nguyên thường xem khổ là vui

Như kẻ liếm mật nơi lưỡi dao bén.

Đáng thương những ai bám chặt vào thực hữu

Hãy xoay sự chú ý vào trong, hỡi bạn thân.

Nhưng thật là khó làm sao để xoay chú ý vào trong! Chúng ta dễ dàng quen thói cũ, đặt ra những mẫu mực để nó trở lại khống chế mình! Mặc dù, như bài thơ trên cho thấy, chúng đem lại đau khổ cho ta, ta vẫn chấp nhận chúng một cách cam chịu, vì đã quen đầu hàng chúng. Chúng ta có thể xem tự do giải thoát như một lý tưởng, song khi động tới những thói quen của mình, thì ta hoàn toàn biến thành nô lệ.

Tuy thế, nhờ tư duy mà ta có thể dần dần đạt đến trí tuệ. Chúng ta có thể một ngày nào đó nhận ra rằng mình đang tái đi tái lại những mẩu mực cố định, và khởi sự mong muốn thoát ra. Dĩ nhiên chúng ta có thể rơi trở lại vào thói quen, nhiều lần, nhưng dần dà cũng có thể ngoi lên khỏi chúng và bắt đầu thay đổi. Bài thơ sau đây nói cho tất cả chúng ta, gọi là “Tự truyện trong Năm Chương”:

1. Tôi đi xuống đường phố

 Có một lỗ sâu bên vệ đường

 Tôi rớt vào đó.

 Tối chới với vô phương.

2. Tôi đi xuống cũng con đường ấy

 Có một lỗ sâu bên vệ đường

 Tôi làm bộ như không trông thấy

 Tôi lại rớt như thường.

 Tôi không ngờ mình ở ngay chỗ cũ

 Nhưng đó đâu phải lỗi tại tôi

 Mất nhiều thời gian mới hòng ra được.

3. Tôi cũng lại đi con đường

 Có một lỗ sâu bên vệ đường

 Tôi thấy nó vẫn đang ở đấy

 Và tôi vẫn rơi vào. Đó là thói quen

 Mắt tôi vẫn mở

 Tôi biết mình ở đâu

 Đấy là lỗi tại tôi

 Tôi liền ra tức khắc.

4. Tôi đi xuống con đường phố cũ

 Có một lỗ sâu bên vệ đường

 Tôi đi quành qua nó.

5. Tôi đi xuống bằng con đường khác.

Mục đích của tư duy về cái chết (tử tưởng) là làm một cuộc đổi mới thực sự trong đáy tim bạn, và tập khởi sự tránh cái “lỗ sâu bên vệ đường” bằng cách “đi con đường khác”. Thường điều này cần có một thời gian nhập thất quán tưởng sâu xa, vì chỉ có vậy ta mới có thể mở mắt thực sự để thấy ta đã làm gì với cuộc đời ta.

Nhìn thẳng cái chết không nhất thiết phải hãi hùng ghê gớm lắm. Tại sao không tư duy sự chết khi bạn đang cao hứng, thoải mái, nằm trong giường ấm áp tiện nghi, hoặc khi bạn đang trải qua dịp nghỉ lễ, đang lắng nghe bản nhạc mà bạn yêu thích? Tại sao không tư duy sự chết khi bạn đang hạnh phúc, khỏe mạnh, đầy tin tưởnghoàn toàn an vui? Bạn có để ý rằng có những giờ phút đặc biệt trong đó bạn có khuynh hướng nội quán hay không? Hãy làm việc với những giây phút ấy một cách nhẹ nhàng, vì đấy là những giây phút bạn có thể có được một kinh nghiệm mãnh liệt sâu xa, thay đổi toàn thể quan niệm của bạn về thế giới. Có những thời điểm trong đó những niềm tin cũ của bạn trước kia tự động sụp đổ hoàn toàn, bạn tự thấy mình được đổi mới hẳn.

Sự quán niệm cái chết sẽ đem lại cho bạn một ý thức sâu xa về sự từ bỏ trong đạo Phật, Tạng ngữ là Ngé jung. Ngé có nghĩa là “thực sự” hay “quyết định”, jung là “ra khỏi”, “ngoi lên”, hay “sinh ra”. Kết quả sự tư duy thường xuyênsâu xa về cái chết là, bạn sẽ thấy mình “ngoi lên” khỏi những mẫu mực thói quen của mình, thông thường là với cảm giác ngấy chán đối với chúng. Bạn sẽ thấy mình càng lúc càng thêm sẵn sàng rũ bỏ chúng, và cuối cùng bạn có thể thoát khỏi chúng một cách êm thấm nhẹ nhàng, “như rút một cọng tóc ra khỏi một thỏi bơ”, các bậc thầy đã ví dụ.

Sự từ bỏ mà bạn sẽ đạt tới ấy, đem lại cho bạn vừa nỗi buồn vừa niềm vui: Buồn vì bạn nhận thức được cái vô vị của những thói cũ nơi bạn, và vui vì cái tri kiến sâu xa dần dần mở ra trong bạn, khi bạn có thể buông bỏ những thói cũ. Đây không là một niềm vui phàm tục, mà là một hỉ lạc làm phát sinh một năng lực mới mẻ, thâm hậu, một niềm tin, một cảm hứng bền bỉ thoát thai từ nhận thức rằng mình không phải là tên nô lệ cho những thói quen của mình, quả thế mình có thể ngoi lên khỏi chúng, rằng mình có thể thay đổi, và trở nên càng ngày càng giải thoát tự do.
 
 NHỊP TIM CỦA THẦN CHẾT
 

Sẽ không có hy vọng nào biết được cái chết nếu nó chỉ xảy đến một lần mà thôi. Nhưng may thay, cuộc đời toàn thị chỉ là một màn luân vũ của sống và chết, một cuộc nhảy múa của vô thường. Mỗi khi tôi nghe tiếng thác đổ, hay tiếng sóng vỗ vào bờ, hay tiếng tim tôi đập, tôi lại nghe tiếng của vô thường. Những thay đổi ấy, những cái chết nhỏ ấy là những móc nối sống động giữa ta với sự chết. Đó là mạch nhảy của thần chết, là nhịp tim của thần chết, nhắc ta buông mọi sự ta đang bám víu.

Bởi thế ta hãy làm việc với những thay đổi ấy ngay bây giờ, trong đời sống: Đấy là cách thực sự để chuẩn bị cho cái chết. Đời sống có thể đầy những nỗi đau thể xác và tinh thần, đầy những gian khổ, nhưng tất cả những thứ này lại là những cơ hội giúp ta có thể chấp nhận cái chết. Chỉ khi ta tin tưởng mọi sự vẫn trường tồn, thì ta mới không thể rút bài học từ biến dịch. Khi ấy ta như bị nhốt kín, và trở nên tham lam níu kéo (chấp thủ). Chấp thủ là nguồn gốc mọi vấn đề của chúng ta. Vì vô thường đối với chúng ta có nghĩa là lo âu bất trắc, nên ta bám vào, níu kéo mọi sự một cách tuyệt vọng, mặc dù mọi sự đều biến đổi. Chúng ta sợ phải buông xả, và có thể nói là chúng ta sợ phải sống thực sự, vì tập sống thực sự có nghĩa tập buông xả. Và đấy là bi kịch, là sự nghịch lý của cuộc đấu tranh hòng tiếp tục bám víu: Không những điều ấy là bất khả, mà nó còn mang lại cho ta cái khổ mà ta muốn tránh. Cái ý định đằng sau sự bám víu tự nó có thể không có gì quấy; không có gì sai lầm trong sự việc ta muốn được hạnh phúc an vui, nhưng cái điều ta muốn níu kéo thì tự bản chất đã là không thể níu kéo được. Người Tây Tạng nói rằng: “Chúng ta không thể rửa tay hai lần trong cùng một dòng nước”, và “Dù có ép mạnh bao nhiêu, bạn cũng không thể ép cát ra dầu”.

Thâm nhập lý vô thường thực sự chính là dần dần tự giải thoát khỏi chấp thủ, khỏi quan niệm sai lầm tai hại của ta về trường tồn, khỏi sự say mê an ninh bảo đảm trên đó ta dựng xây mọi thứ. Dần dà, ta nhận ra rằng, cái cơn nhức nhối tim gan mà ta phải trải qua do cố níu những gì không níu được, suy cho cùng thực không cần thiết. Lúc đầu, ngay đến chuyện này cũng thật khó mà chấp nhận, vì ta chưa quen thuộc. Nhưng khi càng suy nghĩtiếp tục suy nghĩ, tâm trí ta sẽ dần dần thay đổi. Sự buông xả bắt đầu có vẻ tự nhiên hơn, và càng ngày càng dễ. Có thể phải cần nhiều thời gian để những sự điên rồ của ta lắng xuống, nhưng càng tư duy, ta càng phát triển cái tri kiến của sự buông xả, chính lúc đó một sự đổi mới xảy ra trong lối nhìn của ta đối với mọi sự.

Quán niệm tính vô thường mà thôi chưa đủ, bạn phải làm việc với nó trong cuộc đời của bạn. Cũng như học y khoa cần cả lý thuyết lẫn thực hành, học sống cũng vậy, và trong sự học sống ở đời, sự thực hành nằm ngay đây, trong phòng thí nghiệm của biến dịch. Khi những đổi thay xảy đến, chúng ta tập nhìn chúng với một tuệ giác mới. Mặc dù mọi sự vẫn tiếp tục xảy ra như trước, song một cái gì trong ta sẽ đổi khác.

Hoàn cảnh bây giờ đối với ta có vẻ thoải mái hơn, bớt căng thẳng khổ nhọc, và dù có trải qua những cuộc bể dâu, chúng ta cũng ít kinh hãi trước ảnh hưởng của chúng. Mỗi cuộc bể dâu đem lại cho ta thêm một ít thực chứng, và quan niệm của ta về sự sống trở nên càng ngày càng sâu sắc và khoáng đạt hơn.
 
LÀM VIỆC VỚI NHỮNG ĐỔI THAY

Ta hãy thử một thí nghiệm. Hãy nhặt một đồng xu lên, và tưởng tượng nó là cái đối tượng mà bạn đang bám víu. Bạn hãy giữ nó thật chặt trong nắm tay đối diện với mặt đất. Bấy giờ nếu bạn buông ra hay thả lỏng nắm tay, bạn sẽ mất cái mà bạn đang nắm giữ. Chính đó là lý do làm bạn phải nắm lại.

Nhưng có một khả năng khác: Bạn có thể buông ra mà vẫn giữ được đồng xu đó. Bạn duỗi cánh tay, để ngữa nắm tay cho đối diện với bầu trời. Rồi bạn thả nắm tay, thì đồng xu vẫn còn nằm trên bàn tay mở của bạn. Thế là bạn buông xả mà đồng xu vẫn còn là của bạn, mặc dù xung quanh nó là hư không bao la.

Bởi vậy vẫn có cách để chúng ta có thể chấp nhận vô thường mà vẫn thưởng thức được hương vị cuộc đời, và đồng thời không bám víu. Ta hãy nghĩ đến những gì thường xảy ra trong những mối tương quan. Phần lớn chỉ khi sắp mất bạn, người ta mới nhận ra mình thương bạn, và khi ấy người ta càng bám chặt hơn. Nhưng càng níu kéo thì người kia càng thoát ly, và mối liên lạc giữa họ càng mong manh hơn.

Chúng ta muốn có hạnh phúc, nhưng chính cái cách ta theo đuổi hạnh phúc lại quá vụng về đến nỗi nó chỉ đem lại thêm nhiều phiền muộn. Thông thường ta tưởng chừng ta phải giữ kỹ để có được cái gì mà ta cho là sẽ bảo đảm hạnh phúc của ta. Ta tự hỏi: “Làm sao ta có thể sẽ bảo đảm một cái gì nếu ta không thể sở hữu nó?” Quá thường khi, ta lẫn lộn sự bám víu với tình yêu. Ngay cả khi mối tương giao thật tốt đẹp, thì tình yêu vẫn thường bị hỏng do sự bám víu, từ bám víu có nỗi bất an, chiếm hữukiêu căng; và khi tình yêu bay mất, thì bạn chỉ còn lại những hoài niệm để chứng tỏ tình yêu của bạn, đó là vết sẹo của sự bám víu.

Vậy thì làm thế nào ta có thể vượt qua sự bám víu? Chỉ bằng cách trực nhận bản chất vô thường của nó; sự nhận chân này sẽ giải thoát ta khỏi nanh vút của tính chấp thủ. Chúng ta sẽ thoáng thấy được như các thiền sư đã nói, thái độ đích thực đối với sự đổi thay là: Ta như thể bầu trời đang nhìn mây bay qua, hay “giải thoát như thủy ngân”. Khi thủy ngân giọt trên đất, bản chất nó là vẫn nguyên vẹn không lấm bụi. Khi ta theo lời dạy của các bậc thầy, dần dần buông bỏ sự bám víu, thì một lòng bi mẫn bao la cũng nảy sinh trong ta. Những đám mây vô minh chấp thủ tan biến, và mặt trời là trái tim yêu thương chân thực bỗng chiếu sáng. Chính lúc ấy từ bản thể sâu xa, ta bắt đầu nếm được hương vị câu thơ chứa đựng chân lý siêu thoát của William Blake:

Kẻ nào ràng buộc mình vào một lạc thú

Làm hỏng đôi cánh cuộc đời;

Kẻ nào chỉ hôn hạnh phúc khi nó lướt qua

Sẽ sống trong ánh mặt trời Bất tận.
 
 
TINH THẦN CHIẾN SĨ

Chúng tathói quen tin rằng nếu ta buông xả, ta sẽ không còn gì. Nhưng cuộc đời luôn luôn cho thấy cái ngược lại. Đó là, sự buông xả chính là con đường đưa đến giải thoát tự do.

Cũng như khi sóng đánh vào bờ, những mỏm đá không thiệt hại gì mà còn được giũa mòn và chạm trổ thành những hình dáng đẹp, nhân cách chúng ta cũng vậy, có thể được un đúc nhờ những cuộc đổi thay, những góc cạnh thô nhám được giũa mòn và trở nên mềm mại. Nhờ những đổi thay mà ta có thể dần phát huy một thái độ hòa nhã nhưng không ai lay chuyển nổi. Lòng tự tín nơi ta càng thêm tăng trưởng và từ đó tự nhiên tỏa ra sự tử tế từ bi, đem lại niềm vui cho người khác. Chính thiện tính ấy là cái gì còn lại sau khi chết, cái thiện tính căn để sẵn có trong tất cả mọi người chúng ta. Toàn thể cuộc đời chỉ là để dạy cho ta làm thế nào để hiển lộ thiến tính ấy, và luyện cho ta thực chứng nó.

Bởi thế mỗi khi những mất mát, vỡ mộng trong đời dạy cho ta về vô thường, chúng lại đưa ta đến gần sự thật hơn. Khi bạn từ trên cao rớt xuống thì chỉ có một chỗ duy nhất có thể đậu lại, đó là nền mặt đất, nền tảng của chân lý. Và nếu bạn có tuệ giác do sự tu tâm đem lại, thì việc rớt xuống tuyệt nhiên không là một tai họa, vì chính nhờ vậy bạn tìm được một chỗ trú nội tâm.

Những khó khăn và chướng ngại nếu hiểu đúng và biết vận dụng, thường có thể biến thành nguồn năng lực không ngờ. Trong tiểu sử những bậc thầy, ta thường thấy rằng nếu họ không gặp khó khăn chướng ngại, thì họ đã không khám phá được sức mạnh cần thiết để vượt qua. Chẳng hạn đời của Gesar, vị vua chiến sĩ mà những cuộc tẩu thoát đã làm nên bản anh hùng ca vĩ đại nhất của văn học Tây Tạng. Gesar có nghĩa là không ai hàng phục nổi. Từ khi ông sinh ra, người chú ác độc tên Trotung tìm đủ mọi cách để giết, nhưng càng gặp nạn Gesar càng trở nên hùng mạnh. Kỳ thực, chính nhờ những nỗ lực của chú để làm hại ông, mà ông trở thành con người vĩ đại như thế. Do đó Tây Tạngngạn ngữ: “Trotung tro ma tung na, Gesar ge mi sar,” có nghĩa nếu Trotung không mưu mô quỷ quyết, thì Gesar đã không lên cao như vậy.

Đối với dân Tây Tạng, Gesar không những là một chiến sĩ về quân sự mà cả về tâm linh, nghĩa là đã luyện được một thứ dũng cảm đặc biệttính cách thông minh thiên phú, vừa hiền hòa vừa bất khuất. Chiến sĩ tâm linh thì dù vẫn còn sợ hãi song cũng đủ can đảm để nếm trải khổ đau, nhớ đến nỗi sợ hãi căn để của mình, và rút ra được bài học từ những gian khổ nên không tránh né. Chogyam Trungpa Rinpoche nói:

- Trở thành một chiến sĩ tâm linh có nghĩa là có thể đổi sự phấn đấu cho sự bảo đảm an ninh nhỏ nhen của ta để có một tri kiến rộng lớn hơn, đầy tính vô úy, khoáng đạt và anh hùng...(*)
 
 THÔNG ĐIỆP CỦA VÔ THƯỜNG TRONG CÁI CHẾT CÓ NIỀM HY VỌNG
 
 Hãy nhìn sâu thêm nữa vào vô thường, bạn sẽ thấy nó có một thông điệp khác, một bộ mặt khác, đầy hy vọng lớn lao, một thông điệp làm bạn mở mắt ra trước bản chất uyên nguyên của vũ trụ, và mối tương quan kỳ diệu của ta với nó.

Nếu mọi sự là vô thường, thì mọi sự là “không” (trống rỗng), nghĩa là không có một thực hữu nội tại, chắc chắn, trường cửu. Và mọi sự, khi được thấy và hiểu trong tương quan đích thực của nó, thì không phải là những thực thể độc lậphỗ tương lệ thuộc với mọi vật khác. Phật so sánh vũ trụ như một cái lưới rộng lớn dệt bằng vô số hạt châu chiếu sáng, mỗi hạt có vô số góc cạnh. Mỗi hạt châu phản chiếu vô số hạt khác trong lưới, và là một với những hạt khác.

Hãy nghĩ đến một làn sóng trên biển. Nhìn một cách, thì nó dường như có một thực thể riêng biệt, có đầu có cuối, có sinh có diệt. Nhưng nhìn cách khác, thì làn sóng chính nó không thực hữu mà chỉ là một dáng dấp của nước, nó “trống rỗng” hay không có lý lịch riêng, nhưng mà “đầy” nước. Vậy khi bạn thực sự nghĩ về làn sóng, bạn nhận ra

[3]
 
 

rằng nó là một cài gì tạm thời có được nhờ gió và nước, và tùy thuộc vào một loạt những trường hợp luôn luôn thay đổi. Bạn cũng nhận ra rằng mỗi làn sóng đều có tương quan với mỗi làn sóng khác.

Không một thứ gì có một hiện hữu nội tại riêng nó, khi bạn thực tình nhìn kỹ. Và sự vắng mặt một hiện hữu biệt lập ấy ta gọi là “trống rỗng”. Hãy nghĩ đến một cái cây. Khi bạn nghĩ đến cái cây, bạn ưa nghĩ đến một sự vật được xác định rõ rệt, và ở một bình diện, nó quả có thực, như làn sóng nói trên. Nhưng khi bạn nhìn kỹ hơn vào cái cây, bạn sẽ thấy cuối cùng nó cũng không có hiện hữu biệt lập. Khi ngắm nhìn nó, bạn sẽ thấy nó tan biến vào một mạng lưới tương quan vô cùng vi tế trải dài suốt vũ trụ. Cơn mưa rơi trên lá cây, gió lay cành, đất nuôi dưỡngnâng đỡ nó, bốn mùa và thời tiết, trăng sao và ánh mặt trời - tất cả đều là một phần của cái cây. Khi bạn khởi sự nghĩ về cái cây càng nhiều hơn nữa, bạn sẽ khám phá rằng mọi sự trong vũ trụ đều phụ lực để làm cho cây trở thành cái nó đang thành, rằng không một lúc nào nó có thể tách biệt nó ra khỏi những cái khác; rằng mọi lúc bản chất nó đang thay đổi một cách tinh tế. Đây là ý nghĩa khi chúng tôi bảo mọi sự là trống rỗng, không có hiện hữu độc lập.

Khoa học hiện nay cho ta biết phạm vi rộng lớn của những tương quan trong vũ trụ. Những nhà sinh môi biết rằng một cây cháy trong rừng Amazon bằng một cách nào đó, làm thay đổi bầu không khí mà một thị dân thủ đô Ba lê đang thở, và sự rung động của một cánh bướm ở Yucatan có ảnh hưởng tới đời sống của một trang trại vùng Hebrides. Những nhà sinh vật học bắt đầu khám phá cuộc luân vũ phức tạp ly kỳ của những nhiễm thể trong tế bào tạo nên cá tính và sự giống nhau, một cuộc luân vũ trải dài rất xa về quá khứchứng minh rằng mỗi sự gọi là “giống nhau” gồm rất nhiều ảnh hưởng khác nhau. Những nhà vật lý học thì giới thiệu chúng ta vào thế giới của lượng tử, một thế giới giống hệt một cách lạ lùng với thế giới mà Phật mô tả trong hình ảnh cái lưới châu ngọc (Phạm võng) trải khắp vũ trụ. Hệt như những hạt ngọc trong lưới ấy, mọi phân tử đều hiện hữu kể như những phối hợp khác nhau của những phân tử khác.

Bởi thế khi ta thực sự nhìn vào chính mình cùng những sự vậy chung quanh mà ta cho là chắc chắn bền bỉ, ta đều thấy chúng không thực gì hơn một giấc chiêm bao. Phật dạy:

Hãy quán sát vạn pháp

Như ảo tượng, lầu mây

Như mộng, như hóa hiện,

Có thấy, không thực chất

 Hãy quán sát vạn pháp

 Như bóng trăng phản chiếu

 Đáy hồ nước lặng trong

 Trăng chưa từng di chuyển.

Hãy quán sát vạn pháp

Như vang của âm thanh

Tiếng nhạc và tiếng khóc

Trong vang không điệu gì.

 Hãy quán sát vạn pháp

 Như huyễn sư tạo huyễn

 Đủ thứ ngựa, xe, bò

 Chỉ có tưởng, không thực.

Sự quán tưởng tính chất mộng huyễn của thực tại không nhất thiết làm cho ta phải trở nên lạnh lùng, vô vọng hay cay đắng. Ngược lại, nó có thể mở ra trong ta một tính hài hước thân thiện, một lòng bi mẫn mà ta không ngờ mình cũng có, và do đó càng ngày tâm ta càng rộng rãi đối với mọi sự vật và hữu tình. Milarepa nói:

- Thấy được Tánh không, thì mở lòng thương xót.

Khi nhờ quán sát mà ta thực sự thấy được tánh không và tính hỗ tương lệ thuộc của mọi sự và chính mình, thì ta sẽ thấy thế giới dưới môt ánh sáng huy hoàng, tươi mát hơn, như cái lưới đan kết bằng vô số bảo châu phản chiếu nhau mà Phật đã mô tả. Khi ấy ta không cần phải tự che chở mình hay giả bộ, và ta sẽ dễ dàng thực hiện lời khuyên của một bậc thầy:

- Hãy luôn nhận chân tính mộng huyễn của cuộc đời để giảm bớt ái luyến và thù ghét. Hãy có tâm tốt đối với mọi loài. Có tâm thương xót, bất kể kẻ khác đối xử với bạn ra sao. Những gì người khác làm đối với bạn không quan trọng lắm, khi bạn xem như mộng huyễn. Cái mánh là, bạn phải có những ý định tốt trong giấc mộng. Đây là điểm cốt yếu. Đây đích thực là tu tâm.

Tu tâm đích thực cũng là ý thức được rằng nếu ta có tương quan mật thiết với mọi người mọi sự, thì ngay cả một ý nghĩ, lời nói, hành động nhỏ nhất của ta cũng có những hậu quả khắp vũ trụ. Hãy ném một hòn sỏi xuống ao nước. Nó liền có một rung động trên mặt nước, những làn sóng nhỏ lăn tăn tan hòa vào nhau và tạo thành những làn sóng mới. Mọi sự đều tương thuộc một cách chặt chẽ: Chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta chịu trách nhiệm về mọi điều ta làm, nghĩ và nói, quả thế, có trách nhiệm về chính ta, về mọi người và mọi sự vật khác, cũng như với toàn thể vũ trụ. Đức Dalai Lama đã dạy:

- Trong cái thế giới hỗ tương lệ thuộc mật thiết này, những cá nhânquốc gia không còn có thể tự giải quyết vấn đề riêng của họ được. Chúng ta cần đến nhau. Bởi thế ta phải phát huy một ý thức về trách nhiệm hỗ tương... Trách nhiệm của tập thể và của từng cá nhânbảo vệnuôi dưỡng đại gia đình địa cầu, nâng đỡ những thành viên yếu kém, bảo trìsăn sóc môi trường sống của tất cả chúng ta. (*)

Vô thường đã khải thị cho ta nhiều sự thật, nhưng còn một kho tàng cuối nó đang giữ, một kho tàng mà phần lớn bị che khuất dưới mắt chúng ta, ta không ngờ và cũng không nhận ra được, song lại là của ta một cách thân thiết nhất.

Thi sĩ Rainer Maria Rilke đã nói rằng những nỗi sợ sâu xa nhất của ta giống như những con rồng đang giữ kho tàng sâu kín nhất của ta. Cái nỗi sợ mà vô thường khơi dậy trong ta, theo đó không có gì là thực, không gì trường cửu, hóa ra lại là người bạn tốt nhất của ta, bởi vì nó giục ta đặt câu hỏi: Nếu mọi sự đều hủy diệt, thay đổi, thì cái gì là có thực? Có chăng một cái gì đằng sau mọi giả tưởng, một cái gì vô biên, khoáng đạt vô cùng, làm sân khấu cho cuộc luân vũ của vô thường chuyển biến? Có chăng một cái gì ta có thể nương tựa an trú, một cái gì sống lâu hơn cái mà ta gọi là cái chết?

Để cho câu hỏi ấy xâm chiếm ta một cách cấp thiết, tư duy về nó, ta sẽ dần dần thay đổi sâu xa lối nhìn của ta về mọi sự. Với sự liên tục quán tưởngthực hành buông xả, ta sẽ thấy hiển lộ trong chính ta “một cái gì” ta không thể gọi tên, mô tả, đặt thành khái niệm, “một cái gì” mà ta khởi sự thấy đang nằm đằng sau mọi sự biến dịch chết chóc của thế giới. Khi ấy những dục vọnggiải trí thiển cận mà ta bị trói buộc vào do chấp thủ tính chất trường cửu - khởi sự tan biến và rơi rụng.[4]

 Khi điều này xảy đến, ta thường thoáng thấy những hàm ẩn rộng lớn ở đằng sau sự thật về vô thường. Nó giống như suốt buổi ta đã bay trong một chiếc phi cơ luồng qua những đám mây đen vần vũ, rồi bỗng dưng phi cơ vút lên trên những tầng mây, bay vào một bầu trời trong sáng bao la. Được cảm hứng, vui mừng khi ngoi lên trong chiều không gian mới đầy tự do ấy, ta dần khám phá một niềm an lạc sâu xa, một niềm tự tin làm ta đầy ngạc nhiên sung sướng. Dần dần, phát sinh một niềm xác tín rằng “một cái gì” đó trong ta không gì phá hủy được, không gì làm thay đổi được, và không thể chết. Milarepa viết:

sợ chết tôi đi vào núi-

Liên tục trầm tư về tính bất định của giờ chết,

Bỗng bắt gặp thành trì bất tử, vô tận của tâm bản nhiên.

Bây giờ tất cả nỗi sợ chết đều tan biến.

Vậy, dần dần ta biết được trong ta có sự hiện diện của tự tính như bầu trời trong sáng mà Milarepa gọi là tâm bản nhiên, vốn bất tửvô tận. Khi ý thức mới mẻ ấy trở nên sống động và gần như không gián đoạn, thì xảy ra cái mà Áo nghĩa thư gọi là “một sự xoay chiều của tâm thức” một khải thị có tính cách cá nhân, hoàn toàn không thể đặt tên, cho thấy ta là gì, tại sao ta ở đây, ta phải làm thế nào... Điều này cuối cùng, không khác gì một đời sống mới mẻ, một cuộc phục sinh.

Kỳ diệu thay, nhờ quán chân lý về vô thường một cách liên tục, không sợ hãi, mà dần dần ta thấy mình giáp mặt – trong niềm tri ân và hỉ lạc – với chân lý về bản chất bất biến, bất tửvô tận của tâm.
 
 

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Margit Grey, Return from Death, p. 97.

[2] Dr R. G Owens and Freda Naylor, G.P. Living While Dying, p.59. Welling-borough, England, 1987.

(*) The Superhuman Life of Gesar of Ling. A. David-Neel Shambala. 1987. Introduction.

(*) Policy of kindness, 1990

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10250)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
(Xem: 11138)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10916)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11163)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11213)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14200)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12438)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26305)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11663)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29220)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11610)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10735)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11047)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10907)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10737)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11302)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10738)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12213)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11267)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10028)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11373)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13358)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11216)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11413)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12652)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13747)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13146)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12769)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12120)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30073)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38065)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24827)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10933)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11685)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10632)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11183)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11478)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12859)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12056)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11262)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10182)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11759)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11165)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10858)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13054)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10166)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10838)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10914)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14484)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10657)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21891)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12032)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11392)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30130)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19549)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20520)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12518)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12499)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21120)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13220)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14411)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30356)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 27916)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28301)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20887)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28593)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27158)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21883)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21390)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26155)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21550)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23350)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26354)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23135)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19779)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22876)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21086)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19926)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15374)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39151)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25586)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14091)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26005)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22484)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29068)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22492)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22805)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13167)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23137)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13120)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28904)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30419)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14201)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26199)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33158)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35480)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8572)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13265)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30574)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22065)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant