Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 2: Hấp hối; Giờ khắc quyết định sự sống

05 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9996)
Chương 2: Hấp hối; Giờ khắc quyết định sự sống

CHƯƠNG 2 

HẤP HỐI

GIỜ KHẮC QUYẾT ĐỊNH SỰ SỐNG

i chết xảy đến cho tất cả, và nó là điều tự nhiên.
Cái chết là ngã tư đường cho tương lai chúng ta.
Chúng ta phải điều khiển nó với sức mạnh của những kinh nghiệm thiền định.

Trong chương này chúng ta sẽ xem xét tiến trình cận tử và những cách để điều khiển cái chết khi nó xảy đến, bao gồm sự thấu suốt và những kinh nghiệm của một số vị delog đã kinh nghiệm lộ trình cận tử và trở về kể lại cho chúng ta.

Với sự tấn công của “bệnh tật chết người” – bệnh hoạn, chấn thương, hay những nguyên nhân khác gây ra cái chết – chúng ta đi vào lộ trình cận tử. Trong giai đoạn của tiến trình hấp hối, những nguyên tố cấu thành thân thể, giác quan, và nhận thức tinh thần tất cả sẽ tan biến. Với những thiền giả thành tựu, lộ trình cận tử bao gồm với xuất hiện của bản tánh tối thượng. Với người bình thường, nó kết thúc với sự ngừng thở và rơi vào vô thức của cái chết.

Mặc dù phần lớn mọi người sẽ trải qua những kinh nghiệm của tiến trình cận tử nhiều hay ít như mô tả dưới đây, những thiền giả hoàn toàn thành tựu không cần phải trải qua. Khi sắp chết, với năng lực thiền định chúng ta có thể hợp nhất với tánh giác của mình, đó là thật tánh của tâm ta, với sự hợp nhất của lãnh vực tối thượngtrí tuệ, là Phật quả. Nếu có thể nhận raduy trì sự hợp nhất này, chúng ta đã đạt được Phật quả. Nếu không thể, thì qua thiền định phowa chúng ta có thể chuyển di tâm thức mình đến một cõi tịnh độ của chư Phật để được tái sanh vào đó.

TIẾN TRÌNH CẬN TỬ

Khi đi vào lộ trình cận tử, ý thức dần dần tách khỏi thân vật chất khi những nguyên tố tạo thành cơ thể bắt đầu hóa tán. Trước tiên năng lượng cần cho sự sống trở nên xáo trộn và sau đó chúng ta trải qua sự hóa tán của những nguyên tố vật chấtnhận thức tinh thần của chúng ta.

Những Nguyên TốNăng Lượng Của Thân Người

Theo tiến trình hóa tán được mô tả dưới đây, việc hiểu được một số chi tiết về thân người theo quan điểm Phật giáo mật truyền sẽ hữu ích. Mỗi phân tử của thân chúng ta được làm bằng bốn nguyên tố hay sự kết hợp của chúng: đất, nước, lửa, và gió. Nguyên tố đất tạo ra những phần cứng chắc của thân thể như xương và thịt. Nước tạo thành thủy dịch như máu, huyết tương và nước tiểu. Lửa được kết hợp với thân nhiệt và sự trao đổi chất. Gió là hơi thở, cũng như sự chuyển động của vật chấtnăng lượng trong thân thể. Cũng có nguyên tố thứ năm là khoảng không bao gồm bốn nguyên tố kia. Trên thân thểtương ứng với những chỗ trống và lỗ trên thân chúng ta.

Thêm vào những khía cạnh của thân người còn có một hệ thống năng lượng vi tế. Ba thành phần chính của hệ thống vi tế này là gió, kinh mạch và tinh chất.

Kinh mạch. (Tạng, tsa, rTsa; Phạn, nadi) Là hệ thống vô số động mạch và tĩnh mạch tạo thành đường dẫn năng lượng cần cho sự sống, ba đường mạch chính là kinh mạch giữa, phải, và trái[1]

Gió (Tạng, lung, rLung; Phạn, prana) Là những lực của năng lượng cần cho sự sống tiêu biểu cho chuyển động qua những kinh mạch. Đôi khi chúng được cho là gió vì những hoạt động khác nhau của chúng. Đó là năm khí chính tiêu biểu cho năm hoạt động khác nhau của năng lượng sự sống: (a) gió sinh lực giúp hít thở; (b) gió tỏa khắp làm cơ bắp thân thể chuyển động; (c) gió di chuyển lên trên liên quan đến miệng, giọng nói và sự nuốt; (d) gió đi cùng với lửa chịu trách nhiệm cho nhiệt tiêu hóa; và (e) gió chuyển xuống dưới chịu trách nhiệm cho việc tiểu tiện, đại tiện, xuất tinh dịch, và kinh nguyệt.

Tinh chất (Phạn, thigle, Thig Le; Phạn, bindu) Là dịch tinh túy trắng và đỏ di chuyển qua những kinh mạch của thân nhờ lực của gió năng lượng. Chúng được mô tả như những giọt hay những lãnh vực hoạt động của sinh lực, năng lượng sáng tạochúng ta tiếp nhận từ cha mẹ mình vào thời điểm thụ thai. Tinh chất trắng là năng lượng nam xuất phát từ người cha, trong khi tinh chất đỏ là năng lượng nữ xuất phát từ người mẹ. Trong tiến trình cận tử, hai năng lượng này bắt đầu hội tụ ở trái tim. Sự hội tụ này là vào lúc chết.

Nhiều giáo lý mật truyền của đạo Phật sử dụng những thuộc tính vật chất này như phương tiện quan trọng để rèn luyện. Chẳng hạn Ngài Tsele đã hướng dẫn những đệ tử “rèn luyện trên những kinh mạch như là chỗ trụ, gió như sự di chuyển, và tinh yếu giác ngộ như sự trang hoàng.” Sự kinh nghiệm đại lạc vô biên của tinh chất, các thiền giả di chuyển tâm và gió năng lượng cùng nhau thông qua những kinh mạch, gieo rắc các tinh chất cực lạc. Kết quả là họ nhận tâm và gió vào kinh mạch trung ương và bảo toàn nó ở đó không dao động. Do vậy, kinh mạch giữa trở thành hơn cả một động mạch của thân. Nó trở thành con đường thiền địnhmục tiêu thành tựu lãnh vực tối thượng, thoát khỏi những giới hạn của khái niệm, danh hiệu và chiều kích.

Sự Hóa Tán Của Các Nguyên Tố

Khi tiến trình cận tử bắt đầu, gió hay năng lượng của sự sống, trước tiên bị xáo trộn và bắt đầu phân tán, và chúng ta đi qua hai giai đoạn hòa tan. Trong giai đoạn thứ nhất, sự hòa tan bên ngoài, những lực của bốn nguyên tố vật chất của thân thể tan hòa, và sau đó những giác quan ngừng hoạt động. Trong giai đoạn thứ hai, sự tan hòa bên trong, những khái niệm tinh thầncảm xúc ngưng lại. Mỗi giai đoạn đều đi kèm với những kinh nghiệm bên trong nào đó.

Bản tánh của những kinh nghiệm bên trong xảy ra trong lộ trình cận tử là gì? Điều quan trọng để hiểu rằng khi chúng ta thu rút những nhận thức bên ngoài vào bên trong và hoàn toàn tập trung chú tâm một điểm vào những thay đổi xảy ra trong thân trong suốt tiến trình cận tử, toàn bộ thế giới của chúng ta trở thành hiện tượng riêng biệt đang xảy ra đó. Với chúng ta, toàn bộ vũ trụ thay đổi chiếm chỗ trong thân ta vào lúc ấy, đó là điều tại sao những thay đổi xảy ra trong từng giọt máu sẽ cảm thấy như trái đất bị vỡ tan. Một sợi tóc trên đầu có thể xuất hiện như một cây khổng lồ. Những thói quen sợ hãi, những khuynh hướng và cảm xúc của chúng ta sẽ xuất hiện trong hình tướng của nhiều hình ảnh khác nhau về con người, thế giới, âm thanh, và cảm nhận. Có một số kinh nghiệm chúng ta sẽ thấy những delog mô tả sau đây trong chương này.

Trước tiên, nguyên tố đất của thân tan hòa vào nguyên tố nước[2] . Vào lúc đó, chúng ta cảm thấy mất năng lượng hay mất nối kết với nguyên tố đất của thân, là những đặc tính vững chắc, mạnh mẽ, bám chặt và làm nền tảng. Màu da chúng ta nhợt nhạt khi năng lượng rút hết khỏi thân. Chúng ta cảm thấy bị rơi hay chìm xuống và nền đất dưới chúng ta bị lún xuống. Chúng ta không thể đứng dậy, bị mất thăng bằngcảm thấy như thể bị đè bởi một sức nặng vĩ đại. Đó là điều tại sao người sắp chết thường yêu cầu “Làm ơn kéo tôi lên, tôi cảm thấy như đang bị chìm”. Chúng ta có thể cảm thấy buồn bã u ám và thấy những hình tướng như ảo ảnh.

Thứ hai, nguyên tố nước của thân tan hòa vào nguyên tố lửa. Vào lúc này chúng ta cảm thấy mất năng lượng hay mất nối kết với nguyên tố nước của thân, đó là chất dịch, sự ẩm ướt, và điểm tựa. Chúng ta cảm thấy rất khát. Nước bọt nhỏ giọt. Nước mắt trào ra rồi khô lại. Đó là điều tại sao người sắp chết thường yêu cầu, “Làm ơn cho tôi miếng nước, tôi rất khát”. Chúng ta cũng có thể cảm thấy ngộp thở và khích động và nhiều người nhìn thấy những biểu hiện như khói.

Thứ ba, nguyên tố lửa của thân tan hòa vào nguyên tố gió. Vào lúc này chúng ta cảm thấy mất năng lượng lửa hay mất nối kết với nguyên tố lửa của thân, đó là sự ấm áp, sự trưởng thành hay chín chắn, và tha thiết, nhiệt tình. Nếu người sắp chết là một thiền giả sùng mộ và có một cuộc sống đạo đức của lòng bi, thường phục vụ người khác, sự phân tán nhiệt từ thân thể bắt đầu từ nơi thấp nhất đi dần lên trái tim. Nếu người sắp chết có một cuộc sống ích kỷ, tiêu cực, và phá hoại, thì sự phân tán nhiệt bắt đầu từ phần trên cơ thể và đi xuống trái tim. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, nhiệt phân tán cuối cùng từ trái tim. Người ta không còn thấy những đối tượng; mọi thứ nhìn như đầy những tia lửa xẹt trong nền tối.

Thứ tư, nguyên tố gió tan hòa vào ý thức. Vào lúc này, chúng ta cảm thấy mất năng lượng gió hay mất nối kết với nguyên tố gió, đó là sự nhẹ nhàng và di động. Chúng ta vùng vẫy để thở. Hơi thở hít vào trở nên ngắn dần, và thở ra lâu hơn. Sau đó “hơi thở bên ngoài” ngưng lại[3] , hai mắt rút vào trong đầu. Vào lúc đó, người có cuộc sống tiêu cực có thể thấy những ảo ảnh trong nhiều dạng sợ hãi khác nhau, trong khi người đức hạnh có thể thấy những sự hoan hỷ. Chúng ta cũng có thể thấy những biểu hiện như ánh sáng ngọn đèn.

Thứ năm, ý thức (Tạng, nam-she, rNam Shes; Phạn, vijana) tan hòa vào không gian (Tạng, namkha, Nam mKha’; Phạn, akasha). Vào lúc đó, xảy ra sự chấm dứt “hơi thở bên trong”.

Những nguồn khác đưa ra việc tính toán thời gian về sự ngưng lại của hơi thở bên ngoài và bên trong có phần khác nhau. Chúng xảy ra khác nhau cho những người khác nhau vì bản tánh riêng của họ. Căn bản là, khi hơi thở của phổi ngưng lại sau ba hơi thở dài, đó là sự chấm dứt hơi thở bên ngoài. Tâm thức hoàn toàn tách khỏi thân (hay vô thức; theo một số bản văn) là sự chấm dứt của hơi thở bên trong. 

Nếu cái chết của chúng ta là do nợ nghiệp, thì rất khó đảo ngược nó. Nếu cái chết do một số tình huống tai nạn, không phải nợ nghiệp thì chúng ta vẫn có thể sống lại nhờ những phương tiện y học hay tâm linh. Nhưng trong những trường hợp thông thường chúng ta không thể sống lại nếu đã vượt qua giai đoạn thứ năm này. Tuy nhiên, có những trường hợp phi thường như delog, những người đã sống lại. Họ đã đi xa hơn giai đoạn này rất nhiều và vẫn trở về với cuộc sống.

Ba Hòa Tan Bên Trong

Giờ đây hơi thở bên trong của chúng ta đã ngừng và tâm thức đã mất liên kết với những nguyên tố vật chất, kinh mạch, gió, và tinh chất của thân thô nặng chúng ta cũng sẽ tan biến. Hơi thở của chúng ta hòa nhập vào hư không. Như một kết quả, trong lúc đó, ba giai đoạn của sự hòa tan bên trong vi tế, vi tế hơn, và vi tế nhất hay sự thu rút sẽ chiếm chỗ.

1. Ý thức tan hòa vào “những biểu hiện”.[4] Vào lúc này, tinh chất trắng mà chúng ta nhận được từ cha mình đi xuống từ đỉnh đầu qua kinh mạch giữa. Chúng ta thấy mọi thứ màu “hơi trắng”. Nó không chiếu sáng hay sáng trắng như ánh sáng ban ngày, mà là ánh sáng hơi trắng như ánh sáng mặt trăng trong bầu trời không mây. Mọi suy nghĩ giận dữ và thù ghét sẽ ngưng lại.

2. “Những biểu hiện” tan hòa vào “gia tăng”. Vào lúc này, từ phần đáy của kinh mạch giữa tại rốn, mà chúng ta nhận được từ mẹ đi lên qua kinh mạch giữa. Mọi thứ nhìn thấy như “hơi đỏ”[5] giống như ánh sáng mặt trời lặn trong bầu trời không mây. Mọi tư duy bám luyến và tham lam sẽ chấm dứt. Tuy nhiên, một số người kinh nghiệm cái thấy hơi đỏ trước và sau đó là hơi trắng. Theo Ngài Tsele đây là lúc tốt nhất để thực hiện phowa.

3. “Gia tăng” tan hòa vào “đạt được”. Vào lúc này, giác tánh nội tại của chúng ta di chuyển bởi lực của gió, được bao phủ bởi hai tinh chất của cha mẹ, và mọi thứ trở nên “tối đen” giống như bầu trời không mây vào một tối mùa thu. Tư duy nhầm lẫn của chúng ta ở đây sẽ ngừng lại.

Bây giờ gió, tinh chất, và tâm thức tụ lại ở ngang tim. Điều này được gọi là hư không tan hòa vào tánh sáng. Sự xuất hiện của “tánh sáng nền” sẽ chiếm chỗ kế tiếp, báo trước sự đi vào lộ trình kế tiếp, trạng thái của bản tánh tối thượng, điều này được bàn luận ở chương kế.

Tiếp theo sự tan hòa của hư không vào tánh sáng, người bình thường sẽ rơi vào hôn mê (vô thức), nhưng đó là sự giải thích khác về những gì xảy ra khi tánh quang minh nền xuất hiện. Theo Ngài Karma Lingpa, giữa sự chấm dứt của hơi thở bên ngoài và bên trong, nếu là những thiền giả cao cấp chúng ta sẽ thấy tánh quang minh của bản tánh tối thượng khi gió của thân thể được nhận vào kinh mạch giữa. Trái lại, người bình thường trở nên vô ý thức. Ngài Jigme Lingpa viết rằng sau khi gió tan hòa vào ý thức, chúng ta sẽ bị hôn mêhơi thở bên trong sẽ ngưng lại. Sau đó tánh quang minh sẽ xuất hiện. Ngài Jigme Lingpa cũng viết:

Khi sự tối đen xuất hiện, con sẽ rơi vào vô thức trong nền tảng phổ quát.
Sau đó tám sinh lực[6] xuất hiện lần nữa và sự vô ý thức sẽ biến mất dần.
Vào lúc đó, tánh sáng bổn nguyên của trạng thái nguyên sơ sẽ xuất hiện.
trong sáng và bất tận, như bầu trời mùa thu.
Con hãy an trụ trong rỗng không và trong sáng, thoát khỏi chướng ngại và che ám.

Ngài Kyabje Dudjom Lingpa nói khi gió tan hòa vào ý thức, tâm rơi vào vô thức kéo dài. Nhưng với những bậc thầy đã thành tựu hay thiền giả đã kinh nghiệm, khoảng sau hai phút ý thức sẽ tan hòa vào hư không, và hư không sẽ tan hòa vào tánh sáng.

Việc biết rằng không phải tất cả người sắp chết đều có kinh nghiệm hay tiến trình xảy ra như nhau là điều rất quan trọng. Ngài Tsele viết rằng sự giải thích hòa tan đó “chỉ là những hướng dẫn chung về việc người ta chịu đựng những kinh nghiệm ra sao. Nhưng không có gì chắc chắn [tất cả sẽ có kinh nghiệm tương tự]. Mỗi người có một loại kinh mạch thân thể, gió, tinh chất khác nhau, và họ sẽ đối mặt với nhiều loại bệnh tật, thế lực tiêu cực, hoặc tai nạn khác nhau [khi họ chết]. Sự hóa tán có thể xảy ra cho người ta theo trình tự khác nhau, hoặc xảy ra cùng lúc”.

Vậy kinh nghiệm này sẽ kéo dài trong bao lâu? Ngài Tsele viết rằng khoảng thời gian của sự hòa tan bên ngoài và bên trong là khác nhau. Đối với hầu hết mọi người, mỗi kinh nghiệm có thể kéo dài trong một khoảnh khắc, và đặc biệt là ba tan hòa bên trong sẽ không kéo dài hơn một khoảnh khắc.

Chúng Ta Nên Làm Gì Khi Sắp Chết?

Người bình thường nên điều khiển giai đoạn hòa tan này ra sao? Trước tiên, chúng ta phải cố gắng nhận ra mình đang trong tiến trình cận tử. Chúng ta phải cố gắng lấy những kinh nghiệm tan hòa càng yên bình càng tốt, không sợ hãi. Chúng ta phải cố nhớ lại rằng tất cả hình tướngkinh nghiệm tạm thời là sự phản chiếu của tâm thứccảm xúc mình giống như giấc mộng. Chúng ta không nên bám luyến vào chúng, bị kích động hay sợ hãi bởi chúng. Ngoài ra, ta nên thấy và cảm nhận mọi sự như con đường hành trình tâm linh của mình. Trụ vào sự an định, chúng ta nên bình thản để mọi tình huống đến và đi.

Chúng ta phải nhớ sử dụng bất kì tiếp cận tâm linh hay kinh nghiệm nào mà chúng ta đã quen thuộc trong cuộc đời mình. Những tiếp cận tâm linhchúng ta quen thuộc sẽ hiệu quả và dễ dàng dựa vào hơn.

Chúng ta phải nhớ nguồn ban phước của mình như chư Phật, những vị thầy, những đối tượng tinh thần tích cực, giáo lý, và những kinh nghiệm thiền định, và sử dụng những kinh nghiệm, ký ức như những hỗ trợ tâm linh. Hãy cố gắng nhớ những thực hành tâm linh cùng với mọi kinh nghiệm tâm linh của mình cũng như các năng lượng và hợp nhất với chúng. Hợp nhất có nghĩa là cảm thấy chư Phật, vị thầy, và những Bổn Tôn hiện diện với bạn mọi lúc và các Ngài đang bảo vệ và dẫn dắt bạn. Từ các Ngài, hãy để ánh sáng của an bình, rộng mở, sức mạnh, và hoan hỷ đến với bạn, tràn đầy bạn, và chuyển hóa thân bạn thành một thân ánh sáng cầu vồng tỏa ra sự ban phước của thanh bình hoan hỷsức mạnh. Sau đó cố buông lỏng trong thân tâm linh này nhiều lần suốt tiến trình cận tử.

Chúng ta phải tự nhớ đi nhớ lại rằng: “Tôi phải an trụ với kinh nghiệm tâm linh của mình.Thông điệp như vậy tạo nên tác động lớn và thật sự giúp chúng ta nhớ lại những kinh nghiệm thậm chí đang trên tiến trình cận tử đầy khó khăn. Nếu chúng ta an trụ với kinh nghiệm, hành trình trên con đường cận tử sẽ trở nên suôn sẻ hơn và đưa chúng ta đến cõi tịnh độ hay tái sinh an bình, hạnh phúc và khỏe mạnh. 

Nếu kinh nghiệm được thực tánh của tâm trong lúc còn sống, chúng ta phải cố nhớ trụ trong tỉnh thức của bản tánh đó. Bất chấp những gì xảy ra, hãy cố thấy mọi sự chỉ là những biểu lộ của bản tánh đó thay vì chạy theo và bám chấp vào tư duykinh nghiệm bám luyến hay thù hận.

Nếu chúng ta từng được giới thiệu hay rèn luyện trong bản tánh tối thượng và cái thấy quang minh của tâm thì đây là lúc trụ trong kinh nghiệm đó. Đây cũng là lúc để thiền giả tự nhắc mình về những kinh nghiệm sẽ trải qua. Ngài Longchen Rabjam khai thị:

Trong tiến trình cận tử, những nguyên tố vật chất sẽ tan biến.
Con sẽ chứng kiến những ảo ảnh không rõ ràng, mờ nhạt và lung linh.
Sau đó đất, nước, gió, lửa và hư không [của thân con] sẽ hóa tán.
Hoạt động của những giác quan sẽ ngưng lại.
Và lúc đó, con nên tự nhắc mình:
Giờ đây tôi đang chết, nhưng chẳng có gì phải lo
Rồi chỉ quán sát: “Cái chết là gì?” “Ai sắp chết?” “Cái chết bắt đầu từ đâu?”
Cận tử chỉ đơn thuần là [dấu hiệu] sự trở về của bốn nguyên tố vô tri vô giác vay mượn của bạn [trở về với chính chúng].
Tánh giác nội tại [của tâm con] thì không sinh không diệt. 
Trong trạng thái của thanh tịnh bổn nguyên, cận tử là [sự hợp nhất của] tánh Khônggiác tánh nội tại, phương thức tự nhiên của Thân Tối Thượng [pháp thân].
Hãy quán sát: “Cái chết là gì?” “Ai đang chết?” “Người sắp chết hiện hữu ở đâu?”
Khi sắp chết chẳng hiện hữu ở đâu, thì nó tuyệt đối không có thật.
Hãy phát triển dũng khítự tín trong [hiểu biết] này.

Ngài Jigme Lingpa viết rằng, trong tiến trình cận tử điều tốt nhất nên làm là hãy buông xả tự nhiên trong bản tánh tối thượng. Điều tốt nhất tiếp theochuyển di tâm thức con vào một cõi tịnh độ. Tối thiểu là tìm cầu quy y nơi Tam Bảo: Đức Phật, hiện thân của giác ngộ; Giáo Pháp, chân lý Ngài đã trình bày chi tiết; Tăng Đoàn, cộng đồng những người đi theo Giáo Pháp. Hãy cầu nguyện vị thầy tâm linh của con và hợp nhất tâm con với tâm giác ngộ của Ngài.

Guru Rinpoche khuyên chúng ta thực hành, cầu nguyện đừng để bám luyến vào bất cứ những gì vào lúc chết, nhớ lại những giáo lý và hòa nhập bản tánh tối thượng của tâm mình với lãnh vực tối thượng:

Khi “lộ trình cận tử” bắt đầu trên con,
Hãy buông bỏ bám luyến và bám chấp vào bất cứ điều gì,
Con sẽ chú tâm trên những hướng dẫn rõ ràng không dao động,
chuyển di giác tánh nội tại bất sinh của con [thật tánh của tâm] đến trạng thái của lãnh vực tối thượng.

Những hướng dẫn của vị Thầy vĩ đại này về cái chết và cận tử là điểm trọng yếu để nhớ và áp dụng, không chỉ trong lộ trình cận tử mà còn trong tất cả bốn lộ trình chuyển tiếp của cuộc sống, bao gồm chính cuộc sống hiện hành này.

NHỮNG DELOG MÔ TẢ VỀ KINH NGHIỆM CẬN TỬ

Để minh họa những gì xảy ra khi chúng ta đi qua cửa tử, tôi tóm tắt mười một mô tả của delog. Đương nhiên, những câu chuyện này là kinh nghiệm của những cá nhân đặc biệt. Nên nhớ rằng người ta có những loại kinh nghiệm cận tử khác nhau vì những khác nhau trong tâm thức, bản chất thân thể, nghiệp nhân quả, tác động của văn hóa, những tập khí, và hoàn cảnh chết.

Như chúng ta đã nhận thấy, delog là những người rất sùng kính, và nhiều người là những vị thầy đã thành tựu. Các vị trở về cuộc sống vì có những việc chưa hoàn tất phải thực hiện. Một số phần trong kinh nghiệm của họ có thể khác với bạn hay tôi sẽ gặp vào lúc chết, tuy nhiên vẫn có nhiều tương đồng với những người có tâm thức, tình cảm, hay bối cảnh văn hóa có thể so sánh được .
Trong những mô tả này, chúng ta tập trung vào lộ trình cận tử. Chúng ta sẽ trở lại phần lớn những vị delog này trong chương 3 và 5 để thấy những kinh nghiệm của họ sau khi chết tiếp tục đi vào lộ trình của bản tánh tối thượng và bardo ra sao.

Năng Lượng Hòa Tan: Kinh Nghiệm Của Karma Wangdzin

Ngài Karma Wangdzin đã viên tịch được bảy ngày, bà sinh ở Lhotrag, miền Nam Tây Tạng, bà là người sùng đạo và có giáo dục. Chồng bà là Depa’i Drung, vị Chủ tịch của Oktra. Bà đã thăm hỏi ở nơi Ẩn cư Traphu để học Giáo Pháp với Ngài Lama Norbu Trashi, và bà đã thấy linh kiến thanh tịnh về cả hai vị Guru Rinpoche và Tara Trắng.

Karma đã nhập thất một năm để thiền địnhcầu nguyện. Một ngày nọ, bà đột ngột cảm thấy bệnh nặng, không muốn ăn, và khó nhận ra bạn bè. Ngày kế, một người bạn đã khóc, nói với bà, “Chị ơi, mắt chị đã trũng xuống và mũi chị đã cong lại [những dấu hiệu của cái chết]. Tốt hơn để tôi gọi chồng chị đến được không?”

Karma tự nghĩ, “Nếu tôi không thể chịu đựng ngay cả một chút bệnh này, thì con người sùng mộ của tôi có phẩm chất gì?” Bà nói với bạn, “Hãy đợi đến ngày mai.” Nhưng ngay buổi chiều đó, bà bắt đầu cảm thấy lạnh. Thoạt tiêncảm thấy rất khát; nhưng khi cố uống nước lại bị sặc ra mũi. 

Những dấu hiệu đó cho thấy năng lượng những nguyên tố thân thể của bà đã bắt đầu tan hòa. Bà cảm thấy thân bị chìm xuống mặc dù bạn bè lôi bà dậy. Đó là dấu hiệu năng lượng của thịt đang hòa tan vào nguyên tố đất. Miệng và mũi bị khô vì mất nước, mặc dù rất khát bà vẫn không thể uống. Đó là dấu hiệu của năng lượng máu tan hòa vào nguyên tố nước. Bà rùng mình run rẩy vì lạnh, thậm chí dù được đắp nhiều chăn ấm. Đó là dấu hiệu thân nhiệt tan hòa vào nguyên tố lửa. Bà vùng vẫy để thở, và rất khó hít vào hay giữ được hơi thở. Đó là dấu hiệu hơi thở tan hòa vào nguyên tố gió.

Khi ánh sáng bắt đầu mờ đi từ khả năng nhìn, bà không thể thấy hay nhận ra những người chung quanh. Khi khả năng nghe yếu đi, bà không thể nghe bạn bè đang cố nói với bà. Khi hệ thần kinh mất kiểm soát, bà không thể thốt ra được một chữ. Bà đã gần mất đi sự tiếp xúc với thế gian này và sắp sửa thấy thế giới mà bà sẽ đến.

Tuy qua mọi việc như vậy, tâm thức của Karma vẫn sáng suốt, giống như con cá trong nước trong trẻo, bà nhớ lại rõ ràng tất cả những người thương yêu mình nhưng nhận ra họ chẳng thể giúp gì được nữa. Với bà, thời điểm này đã đến để đi một mình. Karma chưa tự tin bà đạt được bất cứ kinh nghiệm của Pháp đáng tin cậy nào. Ký ức về mọi điều xấu đã làm trong đời dâng lên trong tâm thức khiến lòng bà thổn thức. Kế tiếp xảy đến tiếng răng rắc ồn ào, làm hơi thởhoàn toàn ngưng lại. Bà bị chìm đắm trong bóng tối hoàn toàn, như thể cây đèn cầy bị tắt đột ngột. Toàn bộ năng lượng tâm thức bà thu rút vào trái tim, và bà rơi vào hôn mê. Karma vẫn hôn mê trong một lúc, và không nhận biết sự bám chấp về đau khổ của cái chết hay ham thích được sống.

Hãy Tạo Công Đức Cho Tôi: Kinh Nghiệm Của Lingza Chokyi

Lingza Chokyi sinh ở Kham, phía Đông Tây Tạng. Bà bị bệnh trầm trọng trong mười sáu ngày, và chẳng nghi lễ tôn giáo hay thiền định nào có thể giúp được. Bà nghĩ: “Ta sắp chết đây. Khi còn trẻ ta muốn trở thành nữ tu sĩ, nhưng gia đình ngăn cản ta rời khỏi nhà. Ta được nhận một vài Giáo Pháp nhưng có rất ít kinh nghiệmthiền định của ta quá ít. Ta cũng không thực hành bố thí nào. Than ôi, ta đã lãng phí cả cuộc sống làm người quý giá và đầy thuận lợi khó mà có được này. Giờ đây ta đang rời bỏ thế gian với khả năng trắng tay rất lớn. Quá trễ để hối hận rồi.”

Sau đó bà nghĩ, “Trong quá khứ, gia đình của ta đã giết hại hai mươi đến ba mươi con trâu yak và cừu mỗi năm.” Điều này làm Chokyi rất lo lắng vì lấy mạng của bất kì chúng sanh nào là một trong mười hành vi bất thiện của đạo Phật, tạo nên nghiệp tiêu cực gây ra đau khổtái sanh vào cõi địa ngục cho người làm. Bà lo lắng hơn nữa “Bây giờ họ sẽ không tài trợ bất kì việc giúp đỡ về Giáo Pháp nào cho ta. Điều đó có nghĩa là ta phải đối mặt với kết quả chỉ của các hành vi xấu xa mà không có lợi ích của bất kì hành đạo đức hay công đức nào. Chồng và con ta chỉ yêu quý sở hữu vật chất, họ chỉ biết nắm chặt tay lại và có rất ít lòng tin. Nhưng dù vậy, ta vẫn phải yêu cầu được giúp đỡ về bất cứ Giáo Pháp nào mà họ có thể tài trợ cho ta.”

Chokyi gọi gia đình đến bên cạnh và nói với chồng, “Tôi không sống nổi với căn bệnh này. Giờ đây tôi có vài lời cuối nói với ông. Tôi đã không tích lũy bất cứ công đức nào trong cuộc đời mình. Trái lại, tôi đã phạm nhiều hành vi xấu. Xin hãy dùng một phần ba tài sản của gia đình để tạo công đức cho tôi.” Trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng, thân nhân còn sống của người đã chết sử dụng một phần lớn tài sản của gia đình để tài trợ cho những nghi lễ, cầu nguyện, thiền định, nuôi dưỡng người nghèo, chuộc mạng sống (ví dụ mua và phóng sanh gia súc, chim, hay cá), xây dựng những di tích tôn giáo, hoặc cúng dường cho tăng và ni. Họ tin rằng những hành động như vậy sẽ tạo ra công đức, hay nghiệp tích cực, sẽ lần lượt trở thành nguồn của một chuyến hành trình an bìnhhạnh phúc cho người đã chết.

“Phân nửa số nữ trang của tôi nên cho con gái chúng ta,” bà nói tiếp, “và nửa phần còn lại nên dùng cho việc tạo công đức. Bất cứ giúp đỡ nào ông bảo trợ cho tôi, xin hãy chắc rằng chúng được làm trong cách Giáo Pháp thanh tịnh. Tất cả gia đình phải làm một số thực hành Pháp nếu có thể. Nếu không ông sẽ bị nỗi hối hận dày vò khi chết. Tối thiểu hãy để hai con trai tôi làm một số thực hành Pháp. Xin đừng để ba đứa con tôi phải khổ khi ông lấy vợ khác. Hãy hứa với tôi những điều này!”

Chồng bà nói: “Nếu chúng tôi xài một phần ba tài sản cho bà, chúng tôi sẽ ăn gì? Con gái chúng ta cần nữ trang cho chính nó. Sau khi bà chết tôi sẽ cưới vợ lần nữa để duy trì nhà cửa. Những đứa trẻ còn quá nhỏ chưa thể tự đứng trên chân chúng. Tôi sẽ sử dụng một số cho bà, nhưng không thể hứa là bao nhiêu.”

Chokyi suy nghĩ, “Bây giờ ông ta chẳng bảo trợ bất kỳ sự giúp đỡ Giáo Pháp nào cho tôi. Tại sao tôi không tự tạo một số công đức cho mình, khi tôi có cơ hội và khả năng? Ông ta tiếp tục lấy vợ và những đứa con sẽ khổ. Chúng nó thật đáng thương thay!”

Sự thay đổi này làm Chokyi buồn hơn. Nỗi buồn đem lại một cảm giác choáng váng. Kế tiếp, bà cảm thấy bị lôi vào trong mặt đất, và bắt đầu trải qua một số kinh nghiệm khủng khiếp. Bà cảm thấy bị xô đẩy bởi lực của nhiều người, bị chao đảo trong một không gian rộng lớn, và run rẩy vì lạnh. Sau đó, thân thể cảm giác bị đau khổ bởi sự thiêu đốt như trong lò thiêu, thấy những tia lửa xẹt và tiếng lửa cháy ầm ầm. Khi những cảm giác này lắng dịu, bà bị một cơn giông mạnh mẽ thổi bay đi. Sau đó bà cảm thấy thân thể bị nhiều người với những dụng cụ khác nhau cắt bà thành từng mảnh. Tất cả những hiểu biết này chỉ là kết quả của sự tan hòa những nguyên tố trong thân bà.

Sau tất cả những cảm giác này, bà kinh nghiệm cái thấy đỏ, trắng, và bóng tối. Điều này theo sau bằng một cảm nhận của ký ức hay ý thức, là một trạng thái an định của cực lạc. Về sau, khi sống lại, bà không thể nhớ kinh nghiệm đó kéo dài được bao lâu.

Thần Chết Có Đến Bắt Tôi Hay Không?
Kinh Nghiệm Của Denma Sangye Seng-Ge

Sangye sinh ra gần Chabdo trong tỉnh Kham phía Đông Tây Tạng. Ông học với nhiều vị thầy, bao gồm Ngài Karmapa thứ mười bốn (1798-1868).
Một ngày nọ, vào tuổi 55, Sangye bị một cơn đau dữ dội xuyên trong tim như thể bị trúng đạn. Ông bắt đầu có những ảo giác kỳ lạ. Ông không muốn ăn và đôi lúc tất cả bộ phận thân thể như bị lôi ra ngoài. Ông kinh nghiệm thần kinh của chân tay bị kéo giật về hướng tim.

Sangye sợ cái chết sắp xảy đến. Nhưng ông không thể làm gì để giữ cho mình sống. Trở nên nhạy cảm với mọi thứ, khiến bất kể việc gì xảy đến cũng làm ông lo lắng. Hơi thở ông ngày càng ngắn hơn. Bị đau khổcảm thấy không yên như một con chim bị siết chặt trong bàn tay của một người hay một con cá bị ném lên đất khô. Ánh sáng từ đôi mắt nhanh chóng mờ dần. Đột nhiên mọi hình tướng trở nên tối đen.

Sangye trải qua một loạt kinh nghiệm đau khổ khi năng lượng của những nguyên tố thân thể bắt đầu hòa tan. Thỉnh thoảng ông cảm thấy rất khát như thể bên trong bị thiêu đốt bởi lửa và ông thèm khát một giọt nước. Vào lúc khác, ông cảm thấy bị đè ép bên dưới một đối tượng nặng nề như một ngọn núi. Trong khoảnh khắc kế tiếp, ông cảm thấy bị thổi bay như lông chim trong bão. Thỉnh thoảng ông cảm thấy mặt trời, mặt trăng rơi xuống đất. Ông nghe những tiếng động ồn ào như hàng ngàn tiếng sấm nổ và tia chớp đánh vào trái đất cùng lúc. Sau đó ông cảm thấy một căn nhà cũ, mà thật ra là thân ông, bị sụp đổ. Nhưng những cái thấy và cảm nhận này xuất hiện trước mắt ông và biến mất ngay giống như một ảo ảnh.

Sau đó, Sangye thấy nhiều tia sáng như đom đóm trong bầu trời đen. Đôi lúc chúng xuất hiện rõ ràng nhưng đôi khi thì không.

Sangye nhận thức, “Những hình tướng này phải là kinh nghiệm của năng lượng nguyên tố vật chất của mình đang tan hòa trong tiến trình chết.” Nhưng sau đó, như bản tánh con người đã có, nỗi sợ hãi của ông tăng lên. Nhiều câu hỏi bắt đầu đổ xô tới: “Có phải tôi đang kinh nghiệm sự hóa tán của năng lượng bốn nguyên tố của thân? Như trong vô số kiếp sống trước, giờ khắc trọng yếu của cái chết xảy đến với tôi lần nữa? Thần chết có đến bắt tôi không? Tôi sẽ không thể sống nữa chắc?”

Ông bị kẹt trong một nơi rất tối tăm, mà thật ra là thân ông, khi nó giờ đây mất hết mọi cơ hội cho ánh sáng. Ông thấy có chín chỗ mở ra để cho ông con đường thoát ra ngoài chỗ đen tối này – miệng, hai tai, hai mắt, hai mũi, hậu môn, và bộ phận sinh dục. Ông nhìn kỹ lối mở dẫn thẳng lên trên và hét chữ HIK ba lần như đã được dạy trong thực hành phowa. Điều này giúp ông thoát qua lỗ mở thứ mười – lỗ mở trên sọ ở đỉnh đầu ông.

Theo Phật giáo, vào lúc chết tâm sẽ kinh nghiệm sự kích thích qua một trong mười “cửa” này hay những chỗ mở ra của thân (hậu môn, bộ sinh dục, miệng, hai lỗ mũi, hai lỗ tai, hai mắt, và lỗ hổng trên sọ). Nếu tâm thức của bạn thoát ra qua những cửa ở phần trên cơ thể, điều này sẽ giúp bạn nhận tái sanh vào một cõi cao hơn. Những thiền giả được dạy đóng chín cửa dưới nhất là cửa thấp nhất với sự quán tưởng hình ảnh thiêng liêng của chủng tự HUM. Sau đó đi thẳng lên qua kinh mạch giữa với sức lực của năng lượng thiền định và thoát ra ngoài qua lỗ mở đỉnh đầu, lỗ mở trên cùng của kinh mạch giữa, trong đỉnh đầu.

Bầu Trời Không Mây – Như Tánh Sáng: 
Kinh Nghiệm Của Ngài Dagpo Trashi Namgyal

Dagpo Trashi Namgyal sinh ở trung tâm Tây Tạng. Ngài chết được năm ngày[7] , Ngài đã bị đau trong đầu và phần thân thể phía trên. Nhận ra cái chết đang đến gần, Ngài muốn dạy về bardo.

Khi những nguyên tố của thân ngài bắt đầu hòa tan dần dần, nhận thức bên ngoài của Ngài bắt đầu chuyển vào bên trong. Ngài nhìn thấy ánh sáng ngũ sắc. Đây không phải dạng ánh sáng bên ngoài; Ngài đang quan sát thấy ánh sáng bên trong của tâm Ngài.

Trước tiên Ngài mất hết nhận thức của năm giác quan: sắc, thanh, hương, vị và xúc. Khi cái thấy trở nên mờ nhạt, Ngài không thể nhận ra người mình biết. Tai không thể nghe âm thanh, mũi không ngửi thấy mùi, và lưỡi không thể nếm bất cứ thứ gì, thân thể không cảm thấy sự tiếp xúc.

Nguyên tố đất của thân Ngài tan hòa vào nước, và thân thể trở nên nặng nề. Khi nguyên tố nước tan hòa vào lửa, miệng và mắt Ngài cảm thấy khô khan và trở nên khát nước. Những mạch máu bị cuốn lại như cuộn chỉ. Sau đó nguyên tố lửa hòa tan vào gió, và thân nhiệt Ngài bị tiêu tan bởi gió.

nguyên tố gió là tinh hoa của giác tánh nội tại, khi hơi thở bên ngoài ngưng lại, tâm thức Ngài tan hòa vào tánh quang minh. Khi hơi thở bên ngoài của Ngài hòa nhập với hơi thở bên trong, xuất hiện kinh nghiệm đầu tiên của ba kinh nghiệm.

Trước tiên, Ngài kinh nghiệm “những hình tướng”. Như dấu hiệu bên trong, cảm giác Ngài trở nên trong sáng. Những hình tướng bên ngoài trở nên hơi trắng như ánh sáng mặt trăng. Tri giác Ngài trở nên tự do thoát khỏi những thay đổi tạm thời, và Ngài cảm thấy sống độngtrong sáng.

Sau đó “hình tướng” tan hòa vào “gia tăng”. Như dấu hiệu bên trong, Ngài thấy những tia lửa như đom đóm. Như dấu hiệu bên ngoài, Ngài thấy ánh sáng hơi đỏ rực như mặt trời mọc.

Kế tiếp, “gia tăng” hòa nhập vào “đạt được”. Tri giác trong sáng của Ngài duy trì trong vài khoảnh khắc. Ngài thấy lửa và ánh sáng như ngọn đèn. Sự vô minh về bản tánh của thực tại chấm dứt. Sau đó tánh sáng như bầu trời không mây xuất hiện. Nói khác đi, Ngài bắt đầu kinh nghiệm tánh quang minh thể nhập, trong sáng rõ ràng như bầu trời mùa thu không mây, một trạng thái không có nhận thức thô nặng hay chủ thể nhị nguyên (tri giác) và đối tượng (đối tượng của tri giác).

Nhận Thức Của Cận Tử: Kinh Nghiệm Của Samten Chotso

Vào tuổi mười chín, Samten Chotso của tỉnh Kham ở phía Đông Tây Tạng có một kinh nghiệm delog trong bảy ngày. Những nguyên tố của thân cô bị khuấy động và cô chuẩn bị chết. Những ảo giác xảy đến liên tục. Nhận ra rằng thật sự sắp chết và côø bắt đầu có những nhận thức sau.

Trước tiên những nguyên tố vật chấttri giác của thân cô bắt đầu hòa tan: khi những mạch máu của tim cô ngưng hoạt động, cô cảm thấy như bị núi đè. Sau đó mạch máu trong mắt ngừng hoạt động và cô cảm thấy mặt trời, mặt trăng từ bầu trời rớt xuống. Kế tiếp những mao mạch trong lưỡi ngưng hoạt động và cô cảm thấy không gian được chiếu sáng bởi sấm chớp. Sau đó những mao mạch trong tai ngưng hoạt động, cô nghe hàng ngàn tiếng sấm rền cùng lúc.

Duy Nhất Giữa Những Delog: Kinh Nghiệm Của Dawa Drolma

Dawa Drolma (1910-1941) sinh ở Washul Thromtha thuộc tỉnh Kham, phía Đông Tây Tạng. Một người con trai của bà là Ngài Chagdud Rinpoche đã viên tịch (1930-2002), Ngài đã sống và giảng dạy trong nhiều thập niên ở Mỹ và Brazil. Dawa Drolma là trường hợp duy nhất trong số các delog vì bà biết trước mình có kinh nghiệm delog. Do vậy bà tự chuẩn bị những gì chung quanh mình. cuộc hành trình delog của bà kéo dài năm ngày.

Vào năm 1924, ở tuổi mười lăm hay mười sáu, Dawa Drolma có kinh nghiệm thiền định thể nhập sâu sắc. Một ngày nọ bà thấy Đức Tara Trắng trong thân người và nhận được lời tiên tri này: “Chẳng bao lâu con sẽ bị bệnh và chết. Tuy nhiên nếu đi theo những hướng dẫn thì sau năm ngày con sẽ sống lại như một delog và làm lợi ích cho nhiều người.” Vị Thầy của Dawa, Ngài Chogtul Rinpoche miễn cưỡng đồng ý cho ước muốn chuẩn bị và trải qua kinh nghiệm cực độ của bà như vậy. Ngài ban phước và nhắc nhở bà, “Hãy duy trì trong bản tánh phi tạo tác của tâm, hãy như nó là, không rơi vào ảo giác. Hãy duy trì nhận thức thanh tịnhsùng kính đến vị Thầy và những Bổn Tôn thủ hộ của con. Duy trì tình thương và lòng bi cho tất cả bà mẹ-chúng sanh.”

Sau đó Dawa Drolma bị bệnh rất nặng. Bà thỉnh cầu Ngài Chotrul Rinpoche và những vị khác theo dõi những điều kiện: “Hãy dọn dẹp mọi thực phẩm và nước khỏi phòng tôi. Sau khi tôi chết, thân tôi nên được tắm rửa bằng nước nghệ tây đã ban phước trong hiện tại tên của cô gái Drolma. Để biểu tượng gia đình Phật của tôi[8], đầu tôi nên được phủ bằng một khăn vải xanh dương. Cửa nhà tôi phải được khóa, sau đó trùm cái khóa bằng vải xanh dương và niêm phong lại bằng biểu tượng bò cạp. Một người mặc đồ xanh dương nên ngồi ở ngoài để canh giữ ngôi nhà. Sau đó, trong năm ngày, lúc tôi chết không ai được vào phòng tôi hay gây bất kỳ tiếng ồn nào quanh ngôi nhà. Khi trở về, tôi cần mặc đồ bằng vải xanh không phải bằng da thú. Tôi sẽ cần nước đã ban phước để rửa miệng.” Bà cũng thỉnh cầu những lama thực hiện nhiều loại nghi lễ khác nhau như bữa tiệc cúng dường Yumka (một vị Phật nữ)[9] , những Chị Em Trường-Thọ[10] và cầu nguyện đến Guru Rinpoche.

Bà và Thầy mình thực hiện nghi lễ bữa tiệc cúng dường Yumka trong hai mươi lăm ngày theo lịch mặt trăng của Tây Tạng. Thầy bà nhắc nhở một lần nữa: “Hãy để tâm con thanh thản và không sao lãng bởi những suy nghĩ lung tung. Hãy để tâm con hợp nhất với bản tánh tối thượng của nó, như tâm tự nhiên vào lúc chết.”

Khi thời điểm đến, Dawa Drolma buông xả tâm bà trong trạng thái tự nhiên của nó. Bà kinh nghiệmhoàn toàn trong sáng và như trạng thái thanh tịnh của hư khôngcực lạc. Mọi khái niệm hóa đều lắng xuống. Bà không còn ngủ say trong nền tảng phổ quát, ở đó không có niệm tưởng lan man. Bà không bị nhiễm vào mạng lưới giác quan của cực lạc, trong sáng, hay vô niệm. Và không bị trôi chảy tự do qua những ảo giác. Ngoài ra, bà đang ở trong hư không bất tận của tâm bản nhiên như nó là. Vì vậy bà ở trong trạng thái biến đổi của ý thức mặc dù bà có thể nghe mọi âm thanh và giọng nói quanh mình. 

Vào buổi sáng ngày thứ hai mươi sáu, bà thấy sự hiện diện của vị Bổn Tôn bảo hộ bà một cách sống động rực rỡ, Tara Trắng, ở trước mặt trong quả cầu ánh sáng kỳ diệu.

Và từ cõi tịnh độ của Ngài Guru Rinpoche, bà thấy một cầu vồng gồm năm tia sáng ngũ sắc song song đi vào phòng bà. Bốn dakini ở giữa những tia sáng này dưới hình tướng những phụ nữ trẻ mặc quần áo và trang sức rất đẹp xuất hiện như những vị hộ tống của Dawa. Họ đặt bà vào kiệu được trang trí với vải lụa nhiều màu. Dawa Drolma và bốn dakini tụng niệm bài nguyện Vajra Bảy Dòng và mantra của Guru Rinpoche trong sự hợp nhất, liên tục với sự sùng mộ vĩ đại. Bà thấy tất cả hình tướng này trong cái thấy của mình.

Tâm Thức Du Hành Không Chướng Ngại
Kinh Nghiệm Của Gyalwa Yungtrung

Gyalwa Yungtrung là người xứ Kham ở phía Đông Tây Tạng và là người đi theo đạo Bon, tôn giáo bản địa của Tây Tạng. Khi ông bốn mươi chín tuổi thì mẹ mất. Ông mời rất nhiều vị lạt ma đến cử hành nghi lễ bốn mươi chín ngày vì người ta tin rằng hầu như không ai tồn tại trong bardo quá bảy tuần. Ông dùng tất cả của cải tài sản của mình để tổ chức nghi lễ này. Những ký ức về tình yêu và lòng tốt của người mẹ cũng như sự đau buồn của ông về cái chết của bà không rời bỏ ông cả ngày lẫn đêm. Và rồi một ngày, khi quán sát bản tính của tâm, ông thấy tâm không hư hoại từ khởi nguyên và hiện diện tự nhiên.

Vào ngày khác ông cảm thấy, “Thế gian và thân thể đều hoàn toàn rỗng không. Tâm tôi có thể du hành bất cứ đâu không chướng ngại. Tôi phải kết nối với tâm thức của mẹ tôi bất kỳ nơi nào bà đã đi.” Đột nhiên ông cảm thấy mình đã ra khỏi thân.

Gyalwa trải qua nhiều kinh nghiệm hơn, như chúng ta sẽ đọc trong chương 5 về những kinh nghiệm bardo của delog. Vào giai đoạn này, ông không viết về việc ông có kinh nghiệm hóa tán của những nguyên tố hay không. Sự mô tả về cái chết của ông đơn giản cho thấy một lần nữa rằng mỗi cá nhân kinh nghiệm khác nhau trong lộ trình này.

Giác Tánh Nội Tại: Kinh Nghiệm Của Tsophu Dorlo

Dorlo là một vị thầy đã thành tựu. Tên thật của ông là Dorje Duddul của Khrozur, nhưng mọi người biết đến ông với cái tên Tsophu Dorlo. Ngài có một kinh nghiệm delog tại nơi ẩn cư tên là Pema Sheltrag của Nyag-rong ở phía Đông Tây Tạng.

Chuyện xảy ra vào năm 1923, lúc đó Ngài Dorlo được sáu mươi mốt tuổi, Ngài đột nhiên bị bệnh và mọi người không còn hy vọng Ngài hồi phục. Để giảm nỗi buồn của những đệ tử, Ngài ban cho họ giáo lý và cam đoan sẽ trở lại trong lần tái sanh kế tiếp. Trong kiến thanh tịnh của vị lama chính của Ngài, Zhinkyong Rinpoche, đã ban phước và bảo Ngài, “Bây giờ không phải là lúc con đi vào cõi tịnh độ. Con phải đi và phục vụ những chúng sanh trong cõi địa ngục.” Vị lama ban cho Ngài một bánh xe cầu nguyện lớn cầm tay để mang theo.

Vào chiều ngày thứ tư, những dấu hiệu của cái chết của Ngài bắt đầu xảy ra. Dorlo giữ gìn tâm tươi mới của Ngài nhiều lần về những giáo lý và hướng dẫn đã nhận được từ Thầy mình. Ngài đặc biệt giữ tâm hợp nhất với tâm trí tuệ của lama và trụ trong trạng thái nhất như không dao động. Ngài trụ trong tánh giác nội tại, tánh thanh tịnh của tâm Ngài được khoảng một lúc lâu. Nó là sự hiện diện phi tạo tác và trạng thái không dao động của sự hợp nhất trong sángtánh Không của tâm.

Chẳng bao lâu sau, sự hòa tan của những nguyên tố thân Ngài bắt đầu. Khi dấu hiệu của thịt hòa tan vào đất, Ngài cảm thấy thân thể bị rơi và chìm xuống đất. Khi máu hòa tan vào nước, Ngài mất năng lượng của thân. Mũi, miệng và lưỡi bắt đầu khô. Khi sức nóng tan vào nguyên tố lửa, thân Ngài bị mất nhiệt. Sự trong sáng của tâm lúc còn lúc mất. Mắt Ngài bắt đầu trợn lên trên, không thể nhận ra ai. Khi hơi thở tan hòa vào nguyên tố gió, hơi thở trở nên nặng nề và chân tay bắt đầu run rẩy. Tâm thức cảm thấy choáng ngộp và cái thấy của Ngài mờ nhạt như ảo ảnh.

Sau sự hóa tán của những nguyên tố thô, Ngài bắt đầu kinh nghiệm sự hóa tán của năng lượng vi tế. Khi tinh chất lửa, tinh chất đỏ di chuyển lên trên, những “hình tướng” tan hòa vào “gia tăng”, và mọi sự trở nên màu hồng nhạt. Khi tinh chất của nước, tinh chất trắng di chuyển xuống dưới, và “gia tăng” tan vào “đạt được”, mọi thứ trở nên trắng mờ. Sau đó khi sinh lực vi tế nhất ngừng lại, “đạt được” tan vào “quang minh”. Mọi sự trở nên tối đen.

Tâm Trí Tuệ Của Bà Trở Nên Trong Sáng:
Kinh Nghiệm Của Shugseb Jetsun Lochen

Shugseb Jetsun Lochen (1865-1953), cũng được biết là Jetsun Rigdzin Chonyi Zangmo là một trong những nữ đạo sư vĩ đại nhất của thế kỷ hai mươi của Tây Tạng. Bà sinh ở Ấn Độ nhưng học tập ở Tây Tạng và sau đó sống nhiều năm cuối đời tại Shugseb gần Kangri Thokar, nơi ẩn cư của Ngài Longchen Rabjam một vị Thầy Dzogchen vĩ đại ở thế kỷ mười bốn.

Jetsun kinh nghiệm trạng thái delog trong nhiều ngày lúc quán sát một thiền định nhập thất tại Zangyak Trag ở Thung lũng Drigung trung tâm Tây Tạng. Bà đạt được những nhận thức thiền địnhkinh nghiệm đáng thán phục. Bà có thể đi xuyên tường không chướng ngại, và nhiều lần bà cũng trở nên vô hình với bạn bè. Đôi lúc, bà có thể đi đến những nơi chỉ bằng ý nghĩ. Bà có linh kiến của những Bổn Tôn cũng như mọi loại chúng sanh khác mà họ không thể thấy lẫn nhau.

Một ngày nọ, năng lượng sinh lực của Jetsun đi vào kinh mạch trung ương. Như một kết quả, phát ra nhiều loại âm thanh, nhảy múa, bà chạy ra chạy vào phòng thiền định. Sau đó, đột nhiên bà té sụp xuống đất giống như một cục đá rơi xuống và nằm yên bất động.

Nghĩ rằng bà đã chết, bạn bè than khóc và bắt đầu bàn luận sắp xếp tang lễ cho bà. Nhưng mẹ bà chú ý thấy da mặt bà vẫn duy trì như người còn sống, nên yêu cầu bạn bè bà kiểm soát cẩn thận. Họ nhận thấy một ít hơi nóng tại vùng tim như nhiệt độ của một con chim. Vì năng lực khác thường của bà trong cuộc sống thông thường, nên bạn bè quyết định rằng có thể bà chưa ra đi. Thế nên họ bắt đầu thực hiện nghi lễ bữa tiệc cúng dường.

Với bản thân Jetsun, mặc dù thân không thể cử động, tâm trí tuệ của bà trở nên trong sáng hơn nhiều lần trước đây. Bà có thể nghe rõ ràng mọi cuộc nói chuyện của bạn bè và những người khác quanh bà.

Sự Ra Đi Của Ma Quỷ Đen Tối:
Kinh Nghiệm Của Tagla Konchog Gyaltsen

Tagla Konchog Gyaltsen (1856-1946) sinh tại Thung lũng Ma thuộc về nhóm bộ tộc Akyong Ponmotsang của Golok ở phía Đông Tây Tạng. Ngài trở thành một vị Thầy nổi tiếng. Ngài có một kinh nghiệm delog trong nhiều ngày vào tuổi tám mươi tám.

Vào năm 1932, Ngài Tagla đang ở tại Thung lũng Ma hùng tráng đẹp đẽ dưới sự luôn canh chừng bảo vệ của rặng núi vĩ đại thiêng liêng Amnye Machen. Một ngày nọ, Tagla mắc bệnh nặng khiến Ngài dở sống dở chết. Trong bầu trời phía trước, đột nhiên Ngài thấy những đám mây có ánh sáng nhiều màu sắc. Chính giữa Ngài thấy Guru Rinpoche được vây quanh bởi nhiều vị giác ngộ trong thân tướng hiền minh và phẫn nộ, và nhiều vị thầy vĩ đại của dòng truyền giáo lý. Ngài nghe đức Phật của Lòng Bi nói với Ngài, “Con trai, đừng bị sao lãng. Hãy tập trung lên phía trên đây. Với tụng ca sùng kính Mantra Lục – Tự, OM MANI PADME HUNG. Con sắp được chứng kiến những kinh nghiệm của lộ trình chuyển di [bardo].”

Chẳng bao lâu sau, từ hướng nam, Bổn Tôn Bảo Vệ Trắng ngự trên đám mây trắng với làn da trắng và hình tướng trẻ trung trôi bồng bềnh về hướng Tagla. Ngài mặc áo choàng lụa trắng, tóc được thắt búi trên đỉnh đầu. Ngài mang một túi lụa trắng trên vai, và treo trên thắt lưng là một khuôn làm bằng vỏ ốc (đó là một trong một cặp khuôn, một dụng cụ bói toán của Tây Tạng).

Sau đó, cưỡi trên một cơn lốc xoáy, Ma Quỷ Đen (Hắc Quỷ) với nước da màu đen cũng đến. Ông mặc một áo choàng xẫm và xõa tóc rũ xuống. Mang một túi màu đen trên vai, và một khuôn màu đen làm bằng than treo ở thắt lưng.
Bổn Tôn Bảo Vệ Trắng nói với Tagla, “Ta là Bổn Tôn Bảo Vệ Trắng. Ta chăm sóc cho những người đạo đức. Ta đến từ cung điện của Pháp Vương Tử Thần để rước ngươi. Ngươi có tự tin đối phó được với bardo, lộ trình chuyển tiếp không? Ta có giữ những bản mô tả về những hành động đạo đức mà người ta đã tích lũy.”

Tràn đầy tự tin, Tagla tường thuật mọi kinh nghiệm thiền định, những nhận thức của Ngài, số lượng bài nguyện đã tụng niệm, và những loại phục vụ đã thực hiện cho người khác. Ngài biểu lộ hoan hỷ lớn lao khi đi vào cuộc hành trình trong bardo và gặp gỡ Pháp Vương. Sau đó Tagla cầu khẩn những quy y, chư Phật và chư Lama hỗ trợ ban phước cho Ngài. Vào lúc đó, mọi quy y xuất hiện trước Ngài, tràn đầy hư không. Tất cả các Ngài kết hợp với Tagla tụng ca Mantra Lục Tự linh thánh với âm điệu và giai điệu làm hoan hỷ nhất. Âm thanh tràn đầy toàn bộ không gian.

Sau khi ban giáo lý về lộ trình chuyển tiếp (hay giai đoạn chuyển di). Vị Thầy chính của Tagla, Pema Dechen Zangpo nói, “Bây giờ hãy đi đi. Bản tánh đạo đức vốn sẵn của con xuất hiện như Bổn Tôn Bảo Vệ Trắng, Ngài sẽ dẫn dắt con.” Tagla thấy một chùm ánh sáng cầu vồng vươn về hướng Tây như con đường dẫn đến cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Đức Phật Vô Lượng Quang. Nhưng vị Lama chính của Ngài nói thêm: “Tuy nhiên, thời điểm đi vào cõi Tịnh Độ Cực Lạc của con vẫn chưa tới.”

Hắc Quỷ giận dữ tiến đến Tagla. Ông ta gạt bỏ những hành động đạo đức của Tagla như thể việc đó là bất tịnh và kết tội Ngài vi phạm vô số hành động xấu xa. Ông ta cố hăm dọa Tagla bằng sự mô tả chuyến hành trình khủng khiếp của bardo mà Ngài phải đối diện. Sau đó, sứ giả thật sự của tòa án của Pháp Vương xuất hiện. Họ gồm Đầu-Bò, vị Gây Hại-Đầu Rắn, và Mặt-Khỉ Hèn Nhát.

Thoạt tiên Tagla sợ hãi, nhưng ngay sau đó Ngài lấy lại tự tin và nói, “Này Hắc Quỷ! Hãy lắng nghe tôi! Để bảo vệ thanh danh của hành động đạo đức, Ta phải bác bỏ sự kết tội của ngươi.” Liệt kê tất cả những hành động đạo đức đã tích lũy trong lúc còn sống, Tagla kết luận, “Không có lý do gì để hăm dọa ta. Ngươi, Hắc Quỷ, hãy im miệng!” với điều này, Hắc Quỷ biến mất vào một cơn bão.

Sau đó, trong giây lát, Tagla thấy thân Ngài nằm chết trên giường tại nhà, bạn bè đang bao quanh than khóc. Ngài nghĩ, “Giờ đây sẽ không còn cách nào sống lại,” lòng của Tagla chùng xuống buồn bã. Vào lúc đó, Bổn Tôn Bảo Vệ Trắng đến gần và nói, “Con sẽ chết chỉ trong một lúc, chẳng bao lâu sau con sẽ sống lại.” Kế đó, được Bổn Tôn Bảo Vệ Trắng hộ tống, Tagla bắt đầu trên chuyến hành trình chuyển tiếp của Ngài.

Đừng Hoảng Sợ: Kinh Nghiệm Của Changchub Seng-Ge

Changchub sinh tại một nơi gọi là Lho Gyalwa. Cha Ngài là người từ Kham, và Tagla nói đến Ngài như Nyagtrug, nên Ngài có thể từ vùng Nyag-rung của Kham, phía Đông Tây Tạng.

Changchub bị bệnh. Ngài không thể ra khỏi giuờng để lấy nước uống. Đột nhiên Ngài cảm thấy trôi bồng bềnh trên bầu trời. Nhà Ngài bị sụp đổ. Mỗi gốc chân lông trên thân Ngài đang châm chích như một dụng cụ bén nhọn. Núi non và nhà cửa dường như sụp xuống trên Ngài. Dòng chảy của con sông khổng lồ đang cuốn Ngài trôi đi. Ngài bị thiêu đốt trong một ngọn núi lửa. Một cơn bão mãnh liệt thổi Ngài bay đi. Hàng ngàn mặt trời xuất hiện và thiêu cháy Ngài. Ngài nghe sấm sét rền vang. Như thể mỗi kinh nghiệm này kéo dài hàng ngàn năm. Tất cả chúng đều là những dấu hiệu của những nguyên tố thân Ngài tan hòa và chấm dứt hơi thở bên trong. Khi hơi thở bên trong đã ngưng lại, năm ánh sáng khởi lên. Đột nhiên Changchub có cái thấy trong sáng, giống như mặt trời mọc lúc nửa đêm. Giác tánh thật trong sáng như một ngọn đèn nhưng không bền, như một ngọn đèn lung linh trong cơn bão. Ngài cũng có thể thấy những đoạn tái sanh của Ngài trong quá khứ và tương lai.

Sau đó sự bám luyến những đối tượng tinh thần khởi lên trong Ngài, và thình lình Ngài cảm thấy bị đè dưới một tảng đá. Một tư duy đến với Ngài, “Ồ, tôi đi vào một lâu đài”. Đột nhiên Ngài được tắm trong ánh sáng đỏ, điều này làm Ngài sợ hãi vì nghĩ rằng mặt mình có thể bị thương. Vào lúc đó, từ chùm ánh sáng đỏ mở ra hai chùm ánh sáng ngũ sắc. Chùm ánh sáng ngũ sắc phía trên rất rõ ràng, sáng chói, rạng rỡlinh hoạt. Chùm ánh sáng ở dưới thì mờ nhạt. Tại phần thuật lại này, Changchub ban hướng dẫn cho người khác: “Vào lúc này, đừng sợ hãi chùm ánh sáng phía trên. Đó lá ánh sáng của năm trí tuệ nguyên sơ. Chùm ánh sáng mờ ở dưới là ánh sáng của năm cảm xúc độc hại. Đừng bị quyến rũ bởi chùm ánh sáng phía dưới.”

Changchub nổi tiếng về hướng dẫn này. Câu chuyện của Ngài tìm ra kho tàng lời khuyên về những gì người trợ giúp nói với thiền giả sắp chết như một giới thiệu hay nhắc lại sự thiền định của họ. Và vì vậy, khi ánh sáng được mô tả ở trên xuất hiện; Ngài Changchub khuyên:

Đây là lúc cho người bình thường thực hiện phowa và những thiền giả đã thành tựu cao thực hiện sự khai thị.

Về sự khai thị: Nếu một người [sắp chết] trợn mắt lên phía trên, và nếu không còn chuyển động hơi thở qua lỗ mũi, đó là dấu hiệu về sự chấm dứt hơi thở bên ngoài. Vào thời điểm đó, [người giúp đỡ nên] gọi tên người đó. Chậm rãi nhổ một ít tóc nơi đỉnh đầu của người ấy. Đừng để những người yêu mến đứng gần nếu như họ đang than khóc.

Hãy chỉ dẫn người sắp chết về những dấu hiệu của sự hòa tan các nguyên tố vật chất như sau: “Bạn có thể cảm thấy như ngôi nhà của mình đang sụp đổ, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi hơi thở bên ngoài ngừng lại. Đừng để tâm sao lãng! Bạn có thể cảm thấy có những dụng cụ sắc bén đang làm nhức nhối đến tận chân tóc mình, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi các mạch máu không làm việc nữa. Đừng hoảng sợ!”

Khi nước da chuyển sang màu vàng nhạt, hãy nói: “Bây giờ bạn có thể cảm thấy dường như căn nhà đang sụp đổ lên bạn, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi năng lượng của xác thịt hòa tan vào nguyên tố đất bên ngoài. Đừng lo lắng!”

Khi nước da chuyển sang màu đỏ nhạt, hãy nói: “Bây giờ bạn có thể cảm thấy dường như bạn đang bị đốt trên một ngọn núi lửa, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi nguyên tố lửa bên trong hòa tan vào nguyên tố lửa bên ngoài.”

Khi nước da chuyển sang màu trắng nhạt, hãy nói: “Bây giờ bạn có thể cảm thấy dường như bạn đang bị đem đến một dòng sông lớn, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi nguyên tố máu bên trong hòa tan vào nguyên tố nước bên ngoài. Đừng sợ hãi!”

Khi nước da chuyển sang màu xanh lá nhạt, hãy nói: “Bây giờ bạn có thể cảm thấy dường như bạn đang bị đem đến một cơn bão khủng khiếp, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi hơi thở bên trong hòa tan vào nguyên tố khí bên ngoài.”

Khi nước da chuyển sang màu xanh dương nhạt, hãy nói: “Bây giờ bạn có thể cảm thấy dường như bạn đang chìm trong biển, nhưng không phải vậy. Đó là dấu hiệu khi các nguyên tố bên trong hòa tan vào hư không. Đừng hoảng hốt!”

Sự mô tả của Ngài Changchub về cách đi và về giữa việc kết thúc của sự hòa tan và sự khởi lên của bản tánh tối thượng cũng như giai đoạn khởi đầu của bardo là rất đặc biệt. Thông thường, người ta đi qua những giai đoạn hòa tan, sau đó kinh nghiệm cái nhìn thoáng qua của tánh quang minh (thanh tịnh quang). Nhưng trong trường hợp này, ngay cả sau khi thoáng thấy tánh quang minh, Changchub lại kinh nghiệm sự hòa tan lần nữa. Do vậy, dường như một số người sắp chết đi và về trước khi họ hoàn toàn chết, vì bản chất nghiệp, cảm xúctâm thức họ. Hoặc có thể họ đấu tranh để duy trì mạng sống.

Đừng Sợ Hãi – Hãy Chuẩn Bị

Có thể bạn cảm thấy lo lắng sau khi đọc chương này. Có lần một phụ nữ Tây Tạng nói với vị lama thầy của bà, “Khi nghe về phần thưởng cho những hành động thiện, con hy vọng giải thoát – thậm chí cho chính con. Nhưng khi nghe về những kết quả của hành động xấu, con nghi ngờ về sự giải thoát – ngay cả với Ngài.”

Trong lúc đờ người ra bởi sự sợ hãi những gì xảy ra sau khi chết, việc lưu ýquan tâm trước khi quá trễ là rất tốt. Điều tốt của nghiệp là chúng ta luôn có thể cải thiện nó. Nếu không trên con đường đúng, chúng ta có thể làm cuộc sống mình quay vòng quanh. Nếu hoàn toàn trên con đường đúng, chúng ta có thể cải thiện. Chúng ta kiểm soát số phận của mình. Có hàng trăm giáo lý khác nhau và những bậc bi mẫn giúp chúng ta tự giúp mình.

Nhưng bước đầu tiên là biết và chấp nhận cái chết chắc chắn xảy đến và những hậu quả đang chờ đợi chúng ta – trong khi vẫn còn có thời gian. Theo cách này, chúng ta có thể làm mọi chuẩn bị cần thiết trong lúc vẫn còn sống. Chúng ta cần phát triển những quan điểm tích cựcphục vụ người khác với những hành động hữu ích. Nếu chúng ta không chuẩn bị theo cách này, cái chết sẽ là một thời điểm buồn bã không chỉ ghi dấu sự kết thúc cuộc sống của chúng ta mà còn biểu thị sự nguy hiểm của đau khổ hoặc thậm chí là địa ngục trong tương lai.

Tuy nhiên, nếu có thể điều khiển tốt cuộc sống mình, cái chết chắc chắn sẽ là thời điểm của lễ hội kỷ niệm. Nó sẽ ghi dấu chấm hết cho tuổi già và bệnh tật, và bắt đầu hé lộ hạnh phúc. Một số trong chúng ta có thể thấy những bậc giác ngộ bi mẫn vô biêntrí tuệ toàn giác dẫn dắt chúng ta đến thiên đường cực lạc, như cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Đức Phật Vô Lượng Quang, được bàn luận trong chương 7 và 9. Ngoài ra, nếu là những thiền giả mật truyền thành tựu cao, chúng ta thậm chí có thể đạt giác ngộ vào lúc chết trong những gì được biết là lộ trình của bản tánh tối thượng, như chương kế sẽ trình bày.

Nhưng quan điểm là bây giờ chúng ta cần chuẩn bị không trì hỗn cho cái chết và sau khi chết. Nếu thở ra mà không hít vào, cái chết sẽ đến. Chúng ta đến gần cái ngày mà mình ăn mừng hay than khóc như thế đấy.
 
 
 

[1] Một số tác giả nói về ba kinh mạch là những kinh mạch thiền định không hiện hữu trong thân vật chất. Thân của một thiền giả thành tựu cao là một thân ánh sáng, và linh thiêng, còn thân người bình thường là một thân máu, thịt. Tương tự, với người thường, mọi kinh mạch là kinh mạch bình thường, trong khi đó với những thiền giả thành tựu là những kinh mạch vi tế, trong sáng, hay thanh tịnh.
[2] Ðây là sự giải thích chung, nhưng theo Ngài Longchen Rabjam và Jigmed Lingpa, sự hòa tan được giải nghĩa trên nhiều cấp độ của năm nguyên tố (như những phẩm tính bên ngoài, bên trong, bí mật, và hoàn thiện của mỗi một trong năm nguyên tố), và mỗi nguyên tố này tan hòa vào chính nó, ví dụ, năng lượng của nguyên tố đất bên ngoài tan vào đất bên trong, v.v.. Orgyen Chokyi Wangpo và các nguồn khác mô tả chúng như sự hòa tan của các nguyên tố bên trong, thịt tan vào nguyên tố đất bên ngoài, máu tan vào nước, thân nhiệt tan vào lửa, và hơi thở tan vào gió. Theo Lama Sangye, gió đi lên trên, gió đi xuống dưới, lửa đi cùng gió, và gió tỏa khắp hòa nhập vào gió sinh lực.

[3] Nhưng theo Ngài Jigmed Lingpa : Vào lúc kết thúc của ba hơi thở ngắn và dài, hơi thở bên ngoài sẽ ngưng lại. Sau đó gió tan hòa vào tâm thức bạn, và tánh giác nội tại của bạn bị hôn mê trong tim bạn trong một lúc. Ðó là sự chấm dứt hơi thở bên trong. Theo Ngài Tsele Natshog Rangtrol: Hơi thở bên ngoài ngưng lại khi ý thức tan vào hư không.

[4] Dựa nền tảng trên Thal ‘Gyur Tantra: ý thức tan vào hư không. và hư không tan vào tánh sáng (quang minh).

[5] Trong quyển Bar Do sPhyi’i.... của Ngài Tsele Natsog Rangtrol và quyển sKu gSum Zhing Kham ... của Ngài Choten Gonpa: trong kinh nghiệm thứ nhất và thứ hai, thứ tự của cái thấy trắng và đỏ bị đảo ngược. Trong một số bản văn, sự chấm dứt cảm xúc cũng được thay đổi 

[6] Ðiều này ám chỉ tám khía cạnh của gió sinh lực, một trong năm loại gió.

[7] Theo E. Gene Smith của trung tâm tài nguyên Phật giáo Tây Tạng ở thành phố Newyork, có hai vị Dagpo Trashi Namgyal. Một là Kagyupa từ Dagla Gampo, và vị kia làm Sakyapa từ Nalanda của thung lũng Phapo. Smith nghĩ rằng vị Sakyapa là delog. (thông tin cá nhân)

[8] Hãy xem phần thuật ngữ được định nghĩa đầy đủ về năm gia đình Phật.

[9] Một sadhana hay nghi quỹ thực hành thiền địnhnghi lễ của chuỗi giáo lý Longchen Nyingthig

[10] Năm Chị Em Trường-Thọ là những thần địa phương (tinh linh) của Tây Tạng. Họ được chuyển sang Phật giáo trong sự hiện diện của Guru Rinpoche, Ngài đã làm cho họ bảo vệ Giáo Pháp. Sau này họ cũng trở thành những tinh linh hỗ trợ Ngài Milarepa, một trong những bậc thông tuệ của Tây Tạng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31305)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10451)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11140)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12623)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10735)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16470)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10738)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22766)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11910)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11413)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10585)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12251)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11097)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9937)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10239)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11793)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10612)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12254)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9706)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11178)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13748)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9507)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12524)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9608)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10340)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10434)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10208)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9801)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10982)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11934)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10076)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10696)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9461)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9816)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8694)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9417)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14436)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8703)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12447)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10329)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8981)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10473)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9237)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8709)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10419)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9069)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8287)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11923)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9629)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10145)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10165)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18967)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9335)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8912)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9493)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8931)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14657)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10021)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8271)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8820)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8883)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8662)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9257)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14451)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8956)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8673)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8963)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10437)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8546)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9911)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24143)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10080)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10947)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8911)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9382)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7938)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9176)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15238)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10248)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9476)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17278)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21215)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12065)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10155)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19097)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7902)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14664)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10554)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11267)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9437)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18484)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12260)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11793)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10610)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13244)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9898)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9193)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9299)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15721)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant