Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 9: Những nghi lễ phục vụ cho người chết và sắp chết

05 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10558)
Chương 9: Những nghi lễ phục vụ cho người chết và sắp chết

Chương 9

NHỮNG NGHI LỄ PHỤC VỤ CHO

NGƯỜI CHẾT VÀ SẮP CHẾT

Con đường của thiền định trong sángcầu nguyện sùng kính
Được tâm-trí tuệ của các bậc giác ngộ thấu suốt,
Đi theo con đường của đại dương các vị thầy và người sùng mộ như vậy,
con đường luôn-an toàn đến cõi tịnh độ hoặc một cõi hạnh phúc.

Những nghi lễ phục vụ cho người chết và sắp chết là điểm đặc trưng chung của những tôn giáo thế gian. Chúng thường phục vụ hai mặt mục đích: vì những người còn sống đau buồn chúng cung cấp trợ giúp trong tiến trình chào tạm biệt người thân họ, về phần người chết; chúng đưa ra hỗ trợ và giúp đỡ trong chuyến hành trình sau khi chết, thông qua cầu nguyện và các nghi lễ biểu tượng. Những nghi lễphục vụ của đạo Phật mà tôi phác thảo trong chương này cũng đều lợi ích cho cả hai người chết và người còn sống. Mục tiêu chính của chúng không nhất thiết giúp người chết đạt giác ngộ hoặc siêu vượt luân hồi. Thay vào đó, chúng có mục đích chủ yếu là làm giảm hoặc chữa lành những khái niệm và cảm xúc tiêu cực, mà đó là nguyên nhân duy nhất gây đau khổ, sợ hãi, và tái sanh vào những cõi thấp. Các nghi lễ chết của đạo Phật cũng là một trợ giúp trong việc hoàn tất những việc làm công đức cho người chết, qua năng lực của khái niệm và cảm xúc tích cực, là suối nguồn trực tiếp của an bình, hoan hỷ, và tái sanh trong những cõi hạnh phúc (như cõi người và trời) hoặc trong cõi biểu hiện tịnh độ.

 TRUYỀN THỐNG CỦA NGHI LỄ CHO NGƯỜI CHẾT

Những nghi lễ cho người chết của đạo Phật Tây Tạng được các lama và người thường thực hiện trong nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào học phái Phật giáo và vùng địa lý của Tây Tạng. Các nghi lễ cho người chết phác thảo trong chương này dựa căn bản trên truyền thống học phái Nyingma được thực hành trong tỉnh Golok ở phía Đông Tây Tạng, ở đó tôi đã được sinh ra và rèn luyện.

Những nghi lễ cho người chết thường được một lama hướng dẫn, một vị đã thọ giới lâu năm hoặc một vị thầy ban nhập môn tu hành, tương đương với một bộ trưởng hoặc giới tăng lữ khác trong văn hóa phương Tây. Nếu vị lama đã rèn luyện tốt, sự thực hiện nghi thức chết rất hiệu quả. Một lama chỉ có danh hiệu hoặc được chỉ định thì không có bất cứ năng lực nào hơn người khác. Tuy nhiên, bất kỳ ai cũng có thể thực hành nghi thức chết đề cập trong sách này, nếu họ có một số rèn luyện trong cầu nguyệnthiền định.

Trong những bộ phận nào đó và trong một số truyền thống của Tây Tạng, những nghi thức chết hoàn toàn đơn giản. Các lama hoặc những người giúp đỡ bình thường, tụng niệm cầu nguyện, cúng dường, và bố thí tiền của, thực phẩm, đồ trang sức, hay súc vật đến những tu viện hay ni viện, với tư cách cá nhân cho tăng và ni, hoặc người nghèo. Thân xác được hỏa thiêu hoặc cho chim kên kên ăn như một cúng dường đến chư Phật và Bổn Tôn. (Mặc dù chư Phật và Bổn Tôn không ăn, thực hành này là một thiền định và luyện tập tán thán để rèn luyện tâm chúng tanhận thức tích cực, thấy tất cả đều thanh tịnh, và để trau dồi sự rộng lượng, lòng sùng kính, và buông xả.) Một trong những nghi lễ tôn giáo quan trọng bắt phải lập lại nhiều lần bài nguyện khao khát như “Vua của các bài nguyện khao khát, khao khát những hành động ưu tú,” cùng với rất nhiều cúng dường của đèn, trầm hương, hoa, và đồ cúng.

Trong những phần khác của Tây Tạng, các nghi lễ chết chi tiết hơn. Nhiều vị lama được mời đến nhà người chết để thực hiện những nghi lễ trong nhiều tuần trước khi chết và bảy tuần hoặc hơn sau khi chết. Độ dài và sự tỉ mỉ của nghi lễ tùy thuộc vào tài chánh của gia đình người chết. Để bảo trợ nghi thức cho người chết, phần lớn gia đình sử dụng tối thiểu phần tài sản của gia đình chia cho người chết và toàn bộ những gì thuộc về người chết.

NHỮNG PHỤC VỤ TÔN GIÁO CHO NGƯỜI SẮP CHẾT

Chúng ta thực hành Giáo Pháp khi vẫn còn sống là điều quan trọng, vì điều đó sẽ đặt nền tảng cho con đường tâm linh chúng tathấm nhuần tự tin trong nó. Do vậy, chúng ta sẽ sẵn sàng áp dụng những kinh nghiệm thiền định của mình khi ngày chết đến với chúng ta. Ngài Dodrupchen Rinpoche Đệ Tam viết:

Vào giờ khắc thực sự của cái chết, rất khó gom lại bất cứ khả năng tâm thức nào để khởi đầu một thiền định. Do vậy bạn phải chọn trước một thiền địnhkết hợp nhuần nhuyễn tâm bạn với nó, càng nhiều càng tốt. Sự thiền định có thể là sự nhớ tưởng một vị Phật, cảm nhận của lòng bi, năng lượng của sùng kính, hoặc nhận thức của tánh Không.

Ngoài ra, hãy suy nghĩ nhiều lần, “Vào giờ chết, tôi sẽ không cho phép mình dính líu vào bất kỳ tư duy tiêu cực nào.” Để đạt được thiền định trong sángan bình trong tâm bạn, việc thiền định nhiều lần là quan trọng, và thật rành rẽ trước khi cái chết đến. Do đó, khi giờ chết đến, bạn sẽ có thể chết với những phẩm tính tâm thức đúng đắn.

Bất kỳ bạn thực hiện việc làm đạo đức nào dù trong bản tánh của tâm hay thân – trong lúc còn sống và nhất là lúc trên giường chết – sẽ lợi ích lớn lao cho cuộc sống tương lai bạn. Những nghi thức như tịnh hóa, tạo công đức, quán đảnh, và hồi hướng là việc quan trọng để thực hành trước khi chết và sau khi chết.

Tịnh Hóa

Để làm cho cuộc sống hiện tại, chuyến hành trình sau khi chết, và sự tái sanh của bạn thoát khỏi những khó khăn và chướng ngại, thì việc tịnh hóa những nghiệp quả tiêu cực từ quá khứ của bạn là rất quan trọng. Mọi điều xấu của cuộc sống và kiếp tương lai bạn là sản phẩm của nghiệp quả tiêu cực. Chỉ bằng cách tịnh hóa những nghiệp phiền não này có thể cải thiện cuộc sống bạn. Nó có thể so sánh với việc phục hồi sức khỏe thân thể bạn bằng việc tịnh hóa những hệ thống bị nhiễm độc. Qua tịnh hóa, bạn hủy bỏ những việc làm sai lầm của bạn và những hậu quả của nó.

Bất cứ hành động tích cực hoặc luyện tập khác nhau nào đều có thể hiệu quả như phương tiện của tịnh hóa. Những thực hành tịnh hóa bao gồm thiền định về chư Phật và cầu nguyện cho lợi ích của tất cả bà mẹ-chúng sanh. Đòi hỏi phải tụng niệm cầu nguyệnthực hành bất cứ thiền định nào để tịnh hóa từ tận đáy lòng bạn. Các phần của nghi lễ chết cũng được thiết kế để hoàn tất sự tịnh hóa.

Giữa những thực hành được thiết kế đặc biệt của đạo Phật nhất là cho việc tịnh hóa có tên “Sám Hối Trước Ba Mươi Lăm Đức Phật Tịnh Hóa” (Tạng, tung shag, lTung bShags) và sự cầu nguyện, thiền định của Đức Phật Kim Cương Tát Đỏa. Thực hành sau này bao hàm bốn “năng lực”. Cái đầu tiên là năng lực của nguồn ban phước, Phật Vajrasattva. Khi bạn quán tưởng Đức Phật Vajrasattva trong bầu trời phía trên bạn, tin tưởng vào Ngài như hiện thân của tánh giác ngộ và những phẩm tính của tất cả đấng giác ngộ xuất hiện như nguồn tịnh hóa. Thứ hai là năng lực của sự hối lỗi. Nếu cảm thấy hối tiếc to lớn về những hành động sai lầm của bạn đã phạm trong quá khứ, sự tịnh hóa sẽ xuất phát tận đáy lòng bạn. Thứ ba là năng lực của sự cam kết. Có nghĩa lập một cam kết mạnh mẽ không lập lại bất kỳ hành động xấu nào trong tương lai. Thứ tư là năng lực tự thân của tịnh hóa. Tụng niệm cầu nguyện – như OM VAJRASATTVA HUNG (hoặc HUM). “Ôi, Đức Vajrasattva, xin ban ân phước của Ngài” – bạn hãy thấy, cảm nhận, và tin tưởng rằng một dòng cam lồ ban phước tuôn ra từ thân Phật Vajrasattva, tẩy sạch mọi nhiễm ô của hành động tiêu cực thuộc thân, khẩu, ý bạn, thậm chí không để lại một dấu vết nào. Tương tự, bạn có thể tịnh hóa cho người chết hay người khác. Hãy rèn luyện tâm bạn bằng một tiến trình tịnh hóa như vậy với những hình ảnh tích cực, tẩy tịnh, cảm nhận sâu sắc, và tin tưởng mãnh liệt sẽ giúp tẩy tịnh những hậu quả của nghiệp tiêu cực ngay nền tảng của chúng.

Mặc dù những thực hành như vậy đặc biệt hiệu quả để tịnh hóa, thì bất cứ hành động tốt nào cũng đều là phương tiện của sự tịnh hóa, nhất là nếu bạn có ý định hoặc hồi hướng công đức cho mục tiêu như vậy. Một số ví dụ xa hơn của việc thực hành tịnh hóa là cứu giúp sinh mạng và thương yêu, bảo vệ người khác khỏi nguy hiểm; đem cho bất cứ thứ gì người khác cần hoặc cho những dự án tu hành với tấm lòng rộng lượng, tài trợ những dự án phúc lợi xã hội hoặc phục vụ tôn giáo với một quan điểm thanh tịnh; xây dựng những nơi trú ẩn hoặc công trình kỷ niệm của tôn giáo với mục tiêu phục vụ người khác.

Chúng ta cũng có thể giúp người khác tịnh hóa hành động xấu. Nếu chúng ta tụng niệm cầu nguyện, thiền định, hoặc thực hiện những thực hành riêng để tịnh hóa người khác, hay hồi hướng công đức để tịnh hóa hành động xấu của người khác, thì chúng ta có thể hoàn thành điều này. Nhưng hiệu quả của nỗ lực chúng ta sẽ là bao nhiêu? Nếu hành động xấu của người đó mạnh mẽ, nỗ lực giới hạn của chúng tathể không nhiều chỉ hàn gắn được một vết mẻ. Nếu người đó không rộng mở với chúng ta bằng niềm tin hoặc thậm chí một chút thái độ ưa thích; nếu họ và chúng ta không cùng chia sẻ bất cứ một nghiệp kết nối nào như một nguồn cho sự giúp đỡ đó; hoặc nếu cầu nguyện của chúng ta yếu hay bất tịnh, thì sự thực hành tịnh hóa của chúng tathể không thực sự hiệu quả. Tuy nhiên, chúng vẫn sẽ đem lại một số ích lợi. Nếu hành động xấu của người đó là cái “có thể tẩy tịnh”, nếu họ tin chúng ta hoặc tối thiểu giống như chúng ta, và những gì chúng ta làm nếu kết nối nghiệp với họ, và nếu thực hành của chúng ta mạnh mẽ, thì chắc chắn sẽ có thể tịnh hóa những hành động xấu của họ. Nếu một vị thầy thành tựu thực hiện những cầu nguyện, thiền định, và nghi lễ đặc biệt, thì thậm chí nếu người chết đã phạm những hành động xấu mạnh mẽ, tất cả đều sẽ được tịnh hóa và người đó được dẫn dắt đến giải thoát, vì năng lực của vị thầy và sự thanh tịnh của thiền định. Do vậy, không có một câu trả lời đơn giản, và tất cả đều tùy thuộc vào nhiều nguyên nhânđiều kiện, như trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Thậm chí nếu chúng ta không thể hoàn toàn tịnh hóa họ, thì ngay cả một giúp đỡ tẩy tịnh nhỏ cũng sẽ giúp ích rất nhiều vào mối nối của cái chết. Ngoài ra, nếu một người sắp chết gợi cảm hứng cho chúng ta thực hiện tịnh hóa cho họ với lòng sùng kính to lớn đến Đức Phật, chúng ta sẽ tạo được rất nhiều công đức, và điều đó sẽ lần lượtnguyên nhân tạo công đức cho người gợi cảm hứng. Hãy lập lại nhiều lần, nếu chúng ta tạo công đức, những công đức này làm mạnh mẽ những phẩm tính tích cực và làm yếu đi hoặc tịnh hóa những tính chất tiêu cực của chúng ta.

Tạo Công Đức

Để có được một cuộc sống và tái sanh thanh bìnhhạnh phúc, điều cốt lõitích lũy công đức và trau dồi những phẩm tính tích cực. Bất cứ hạnh phúcan bình nào bạn được hưởng hôm nay đều là kết quả trực tiếp của tư cách đạo đức bạn trong quá khứ. Để cải thiện cuộc sống tương lai bạn được tốt hơn, bạn phải tiếp tục tạo công đức nhiều hơn nữa bằng việc thực hiện những hành động đạo đức. Giống như bạn có thân thể khỏe mạnh nhờ được nuôi dưỡng và luyện tập đúng, do vậy bạn phải quan tâm đến sự lành mạnh tâm linh của bạn bằng việc tạo công đức.

Bất cứ việc làm hoặc phục vụ tích cực nào đều sẽ hoạt động như phương tiện tạo công đức. Bạn có thể tích lũy công đức bằng việc tụng niệm cầu nguyệnthiền định. Bạn có thể tạo công đức bằng cách phục vụ người nghèo, cúng dường cho những dự án tôn giáo, cứu giúp và chuộc những sinh mạng (như mua và giải thoát gia súc, phóng sanh), xây dựngdọn sạch đường xá, xây dựngphục hồi đền chùa và những công trình kỷ niệm của tôn giáo, và tài trợ hoặc thực hiện cầu nguyện, thiền định với tình thương, sùng kính, và tôn trọng.

Quán Đảnh

Quán đảnh hay sự nhập môn đều hiệu quả cao như phương tiện tịnh hóa những tác động xấu của hành động bất thiện, củng cố những hành động đạo đức trong quá khứ, làm nhớ lại những kinh nghiệmthành tựu tâm linhquá khứ, hiển bày con đường đến giải thoát hoặc cõi tịnh độ, giới thiệu đến chư Phật và những cõi tịnh độ, được chư Phật ban phước, và đánh thức trí tuệ nguyên sơ, hoặc Phật tánh dễ lãnh hội. Những quán đảnh như “Sự giải thoát khỏi sáu cõi” (Tạng, ne dren, gNas ‘Dren) có thể được thực hiện với những người trong tiến trình cận tử. Những nghi lễ như vậy tịnh hóa chủng tử nghiệp tiêu cực của người sắp chết, nếu không thì chúng sẽ gây ra tái sanh vào những cõi thấp. Những nghi lễ này sẽ giúp tích lũy công đức, nguyên nhân của việc tái sanh vào những cõi hạnh phúc. Chúng sẽ nhanh chóng đem đến ân phước của chư Phật để đánh thức tâm đến giác ngộ hoặc được tái sanh trong một cõi tịnh độ.

Có thể hiểu rằng người chỉ huy hoặc người thực hiện nghi lễ chết đã thành tựu trong thiền định hoặc tối thiểu đã được rèn luyện kỹ trong những nghi lễ đặc biệt này là rất quan trọng. Ngoài ra, nếu có một liên hệ tâm linh tích cực giữa người thực hiện và người chết, lợi ích sẽ đạt hiệu quả nhất. Ở mức tối thiểu, cũng phải có một liên hệ hài hòa giữa họ. 

Nếu những nghi lễ chi tiết như quán đảnh không thể thực hiện được, thì bất kỳ bài nguyện hoặc thiền định nào được thực hiện với tình thương cho tất cả bà mẹ-chúng sanh, sẽ có lợi ích cao, nhất là nếu được một thiền giả đã thành tựu hướng dẫn. Một phục vụ thích hợp có thể gồm việc tụng niệm cầu nguyện, niệm hồng danh của chư Phật và bồ tát, niệm mantra, hoặc thực hiện bất kỳ nghi lễ đơn giản nào. Rất nhiều bản văn nghi thức tế lễ và cầu nguyện được sử dụngTây Tạng; tôi cung cấp một nghi thức rất vắn tắt sau này về Cõi Tịnh Độ Cực Lạc, trong phần phụ lục A. Ngoài ra, sự thực hiện phowa bởi một vị thầy thành tựu là một thực hành đặc biệt lợi ích, trong cả hai tiến trình cận tử và sau khi chết. Một bản văn phowa ngắn với giải thích sẽ cung cấp trong phụ lục B.

Sự Hồi Hướng Và Những Cầu Nguyện Khao Khát

Sau khi làm bất kỳ việc tốt nào như cầu nguyện, điều quan trọng là hồi hướng công đức và lập nguyện khao khát. Việc hồi hướng công đức sẽ nhân đôi năng lực của chúng theo cấp số nhân. Phạm vi hồi hướng càng lớn, thì năng lực càng lớn. Do vậy, việc hồi hướng công đức không chỉ cho người chết, mà còn cho tất cả bà mẹ-chúng sanh, như nguyên nhân của hạnh phúcgiác ngộ của họ. Thế nên, công đức khổng lồ sẽ đến họ.

Kế tiếp lập nguyện khao khát. Đây là một cách đầu tư công đức cho một mục đích riêng và khuếch đại chúng nhiều hơn. Sử dụng việc hồi hướng công đức của bạn như hạt giống (chủng tử), hãy lập nguyện khao khát rằng tất cả bà mẹ-chúng sanh có thể có được kết quả của hạnh phúctái sanh vào tịnh độ.
Nói riêng, những chúng sanh trong bardo cần chúng ta hồi hướng công đức và lập nguyện khao khát cho họ. Nếu lập lại hồi hướng nhiều lần bất cứ công đức nào chúng ta và người chết đã tích lũy – thì bất kể chúng sơ sài ra sao – cho người chết và tất cả những bà mẹ-chúng sanh để họ tái sanh vào tịnh độ, chúng ta có thể bảo đảm rằng công đức sẽ gây ra kết quả đó.

Bạn cũng có thể tụng niệmthiền định về những bài nguyện hồi hướng và khao khát khác nhau, như là Bhadracharya-pranidhanaraja Sutra (Sutra của Vua Ước Nguyện Về Hành Động Ưu Tú). Bản văn Đại Thừa này là một phần của Buddhavatamsaka Sutra (Sutra Tràng Hoa Của Chư Phật), dạy chúng ta làm sao hồi hướng công đức và lập nguyện khao khát như Đức Phổ Hiền đã làm. Người sắp chết có thể được ban những vật liệu đã ban phước để nếm như cam lồ (Tạng, dudtsi, bDud Rinpoche’Tsi), và những phần để dành còn lại hoặc những vật liệu của nghi lễ đã ban phước, hay những món để đặt lên người chết. Những thành viên của truyền thống Nyingma gắn đồ hình mật truyền được ban phướcý nghĩa đặc biệt hoặc những chủng tự linh thiêng viết bằng văn tự Ấn Độ cổ hoặc Tây Tạng, được biết như “Sự Giải Thoát bằng Tiếp Xúc” (Tạng, tag trol, b’Tags Grol), và đặt những chủng tự thiêng liêng khác tại ngực hay những bộ phận khác của thân người chết.

NHỮNG PHỤC VỤ TÔN GIÁO VÀO GIỜ CHẾT

Vào lúc chết, bất cứ phục vụ tôn giáo nào – cầu nguyện, và thiền định cung cấp một không khí an bình, yêu thươngban phước – đều rất lợi ích. Những nghi thức sau là một số phục vụ đáng kể mà những lama Tây Tạng cống hiến.

Những Hướng Dẫn Cho Người Bình Thường

Thời gian tốt nhất để nhận hướng dẫn, lời khuyên, hoặc giáo lý là lúc chúng ta vẫn còn sống, để chúng ta có thể nghe và hiểu những gì người hướng dẫn nói. Người hướng dẫn phải ban giáo lý lúc tâm chúng ta mở rộngchúng ta có thể suy nghĩ kỹ lưỡng. Nếu người sắp chết phản kháng lại việc chấp nhận cái chết sắp đến, thì việc ban bất cứ hướng dẫn nào vào thời điểm này là không khôn ngoan. Thay vào đó, tốt hơn nên nói về những giáo lý chung hoặc giáo lý về chữa lành. Điều đó sẽ không làm họ sợ, lại được cung cấp một số cảm giác an bìnhtỉnh thức.

Nếu người sắp chết sẵn sàng nghe về cái chết của họ, nên nhắc lại những thiền định của họ và nguồn ban phước. Người hướng dẫn nên để họ biết những gì chờ đợi trong lộ trình cận tử, bản tánh tối thượng, và bardo, và làm thế nào điều khiển những kinh nghiệm này.
Ngài Dodrupchen Rinpoche tóm tắt những điều quan trọng cho người sắp chết chú tâm vào lúc chết:

Bạn phải suy nghĩ về điều sau đây nhiều lần. Hãy nghĩ rằng cái chết, giờ đây đã đến với bạn và nó xảy ra cho tất cả. Hãy buông bỏ mọi bám luyến đến người thương, của cảiquyền lực. Trước các Đấng Giác ngộ, hãy sám hối và tịnh hóa mọi hành động xấu bạn đã phạm trong đời này và trong những kiếp trước – cả hai biết và không biết. Tự bạn lập nguyện và đến các Đấng Giác Ngộ rằng sẽ không bao giờ tái phạm những hành động xấu như vậy nữa. Nhờ đó, hãy nâng cấp tâm bạn với một cảm giác hỷ lạc trong đó không có lo lắng. Hãy nhớ mọi hành động đạo đức bạn đã làm trong quá khứhoan hỷ vì chúng nhiều lần, không có bất cứ kiêu mạn hoặc tự cao tự đại nào.

Và Ngài thêm vào:

Hãy hồi hướng công đức và lập nguyện khao khát, nhiều lần, suy nghĩ và nói, “Suốt các kiếp sống liên tiếp của con, cầu mong con có thể thực hành tinh túy của con đường giác ngộ. Cầu mong con được dẫn đắt bởi các vị thầy đức hạnh. Cầu mong con được ban niềm tin, siêng năng, trí tuệ, và tỉnh giác. Cầu mong con không bao giờ bị tác động bởi bạn bè xấu và những cảm xúc phiền não.”

Có được tư duy đạo đức vào lúc chết là điều rất quan trọng, Ngài Dodrupchen nói:

Trong kinh điển, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã kể nhiều câu chuyện để minh họa việc tại sao có người trở thành đệ tử của Ngài hoặc tại sao có người đặc biệt trở thành một trong những đệ tử tài năng của Ngài. Trong nhiều trường hợp, Ngài cho biết rằng những người này đã lập nguyện đạo đức khi họ sắp chết. Vậy những gì bạn mong muốn làm vào lúc chết sẽ có một tác động to lớn về sự tái sanh của bạn.

Như đã nhắc đến ở trên, sự thiền định quan trọng gọi là phowa có thể thực hiện trước và sau khi chết.

Nếu bạn có thể nhớ lại những vị thầy tâm linh mà bạn có niềm tin, giáo lý của các Ngài, những Bổn Tôn và các kinh nghiệm tâm linh mà bạn quen thuộc là rất lợi ích. Ngoài ra, với lòng bi, hãy phát triển khao khát đem những bà mẹ-chúng sanh đến Phật quả.

Những Hướng Dẫn Và Phục Vụ Của Cái Chết 
Cho Các Thiền Giả Đã Thành Tựu

Nếu người sắp chết là một thiền giả thành tựu cao, thì một thiền giả đã kinh nghiệm hoặc một người bạn đưa ra “hướng dẫn” (Tạng, ngo trod, Ngo sProd). Trong hướng dẫn bạn nhắc vị thầy sắp chết và nhận ra sự thiền định hay nhận biết của họ và an trụ trong đó. Nếu người giúp đỡ chưa thành tựu, điều tốt nhất là hãy để vị thiền giả chết yên lặng không có bất cứ quấy rối nào. Những đệ tử và bạn bè của vị thầy nên thiền địnhcầu nguyện yên lặng hoặc ở cách xa thân. Duy trì một không khí tâm linhan bình chung quanh vị thầy sắp chết càng nhiều càng tốt trong nhiều giờ hoặc thậm chí nhiều ngày là điều quan trọng.

Một số vị thầy trụ trong thiền định thể nhập trong nhiều giờ hoặc nhiều ngày thậm chí hơi thở họ đã ngưng. Sẽ không có chuyển động của hơi thở hoặc mạch đập, nhưng sẽ có một chút hơi nóng ở ngực. Đó là dấu hiệu vị thầy chưa rời bỏ thân và đang trụ trong thiền định. Nếu như vậy, điều khôn ngoan là giữ thân xác không bị khuấy động và duy trì một không khí an bình chung quanh nó. Nhưng nếu bạn di chuyển xác, thì ai đó nên đưa ra “hướng dẫn” hoặc tối thiểu một số nghi lễ tôn giáo. Điều đó sẽ đánh thức vị thầy một cách tự nhiên từ trạng thái thiền định. Nếu không ai có thể đưa ra bất cứ hình thức nghi lễ nào thì chỉ rung chuông lễ hay thực hiện âm nhạc tôn giáo hoặc ca hát, điều đó sẽ đánh thức vị thầy từ sự thể nhập. Sau đó có thể chăm sóc thân xác tùy theo khả năng bạn. Một số trang bị có thể được cất giữ thân xác với sự sắp xếp tỉ mỉ, trong lúc người khác có thể chỉ sắp xếp. Với một vị thầy, sự sắp xếp đơn giản hay tỉ mỉ sẽ chẳng khác biệt, nhưng những người có điều kiện thuận lợi không nên bỏ qua việc lo liệu nơi cất giữ linh thiêng thích hợp.

Song, Ngài Tsele viết: “Theo một số học giả và người thông thạo, mặc dù sự suy đoán chung là tất cả người nào trụ trong thân một thời gian dài sau khi chết đều trong thiền định, điều này không luôn chắc chắn. Một số có thể bám vào thân họ vì bám luyến.”

Một cách truyền thống, những đệ tử của vị thầy có thể thực hiện “thiền định sùng kính về vị thầy” (Phạn, guru yoga – du già đạo sư) và tiếp nhận bốn bậc quán đảnh (như đã mô tả cho thiền định Vajrasattva ở trên). Hoặc họ có thể tập trung trên “nghi thức sùng kính đạo sư” (Phạn, guru puja – cúng dường đạo sư) và tiếp nhận sự tự-quán đảnh. Họ cũng có thể thực hiện những nghi thức tịnh hóa và tạo công đức cho vị thầy. Ngay cả nếu sự tịnh hóa và công đức không cần thiết cho một vị thầy đã thành tựu cao, thì chúng sẽ lợi ích cho những người mà vị thầy có thể còn mắc nợ nghiệp. Điều quan trọng nhất, các đệ tử nên thiền định về sự hợp nhất tâm họ với tâm giác ngộ của vị thầy và suy niệm nó trong hợp nhất. Nếu khôngnghi lễ chính thức nào, hãy tụng niệm bất kỳ bài nguyện nào và thực hành thiền định mà bạn quen thuộc đều lợi ích.

Một điều quan trọng để nhớ là trái lại với người thường, vị thầy không cần và có thể không muốn có nghi lễ chết. Đó là điều tại sao nhiều vị thầy thậm chí mong muốn “chết như một con chó” như họ đã nói. Giống như một con chó lang thang có thể chết bên lề đường mà chẳng ai thèm chú ý, nên các vị thầy này hy vọng không ai chú ý đến cái chết của họ để họ sẽ tự do đi khỏi cuộc sống này theo cách họ có.

NHỮNG PHỤC VỤ TÔN GIÁO SAU KHI CHẾT

Nghi Thức Chết Mười Ba Bước là một nghi lễchúng ta sử dụng để thực hành khi tôi lớn lên ở miền Đông Tây Tạng. Nó được thực hiện cho người chết bởi các thiền giả đã tu hành hoặc người sùng mộ bình thường. Nó cũng có thể thực hiện truớc khi chết. Nghi thức này có một vài danh hiệu khác nhau ở Tây Tạng. Nó được ám chỉ như “nghi thức của xác chết” (ro chog, Ro ch’og), được thực hiện bởi các lama trước tử thi. Nó cũng được gọi là “nghi thức hình nộm” (chang chog, Byang ch’og), vì nghi lễ có thể thực hiện với một hình nộm thay vì thân xác. Một số nhắc đến nghi thức như sự “giải thoát khỏi các cõi” (ne dren, gNas ‘dren), trong đó các lama tịnh hóa những chủng tử nghiệp sẽ gây tái sanh vào sáu cõi của người chết, một tên khác đơn giản là “nghi thức cho cái chết” (shin chog, gShin ch’og).

Những nghi lễ chết của Tây Tạng đòi hỏi thực hành một nghi thức về một hay nhiều dạng Bổn Tôn và các mandala của các Ngài hoặc những cõi tịnh độ. Chúng bao gồm những nghi lễ của Đức Phật Vô Lượng Quang (Amitabha), Đức Phật của Lòng Bi (Avalokiteshvara), Đức Phật Tịnh Hóa (Vajrasattva), Một Trăm Bổn Tôn Phẫn Nộ Và Hiền Minh (Tạng, zhi thro, Zhi khro), Đức Phật Tẩy Tịnh Của Những Cõi Thấp (Sarvavid Vairochana), và Bậc Loại Trừ Của Các Tử Thần (Vajrabhairava).

Tuy nhiên, nghi thức sẽ hiệu quả nhất nếu người thực hiện chọn một vị Phật và nghi thức mà họ quen thuộc và đã nối kết.

Một Tóm Tắt Nghi Thức Mười Ba-Bước Của Cái Chết 

Trước tiên, trong phần chuẩn bị của nghi lễ chết, những lama hay người giúp đỡ tụng niệmthiền định về thọ quy y nơi Tam Bảo và sau đó phát triển quan điểm giác ngộ của bồ đề tâm.

Thứ hai, họ quán tưởng và suy niệm chính họ là vị Bổn Tôn, như Đức Phật Lòng Bi, trong cõi tịnh độ của Ngài tràn đầy vô lượng bậc giác ngộ. Tụng niệm mantra của đức PhậtOM MANI PADME HUM (hay HUNG) – họ thấy, nghe, và cảm nhận ân phước hiện diệnnăng lượng của Bổn Tôn và tịnh độ. Sau đó họ chia sẻ ân phước trong dạng thành tựu và ánh sáng với toàn thể pháp giới. Điều này được làm bằng cách quán tưởng ánh sáng ban phước tràn đầy mọi chúng sanh, cũng như toàn bộ pháp giới, và sự thành tựu đó cũng tràn đầy tất cả họ, chuyển hóa mọi người thành một bậc trí tuệ, bi mẫn, và năng lực.

Thứ ba, họ quán tưởng trên bàn thờ một Bổn Tôn và tịnh độ trong bình thiêng liêng đầy cam lồ. Để tạo công đức, họ cúng dường những thứ hữu ích và đẹp đẽ như hoa, hương thơm, thực phẩm, và âm nhạc (thực tế hoặc quán tưởng) và tụng niệm tán thán đến Bổn Tôn với suy nghĩ đại tôn kính. Tụng niệm mantra, họ thiền định Bổn Tôn. Vị Bổn Tôn ban phước cam lồ trong bình bằng cách gởi một luồng ánh sáng –trí tuệ vào nó. Sau đó Bổn Tôn hòa nhập vào cam lồ trong bình và trở thành một.

Thứ tư, họ tiếp nhận tự-quán đảnh từ Bổn Tôn của mandala bên ngoài, bình linh thiêng. Nói khác đi, qua sự thiền định về bình đầy-cam lồ như một vị Phật tịnh độ với sắc tướng, âm thanh, và kinh nghiệm thanh tịnh, tràn đầy sự hiện diện của tập hội chư Phật, các phẩm tánh-Phật, bình mandala là một nguồn ban phước vĩ đại.

Thứ năm, với năng lực thiền định và những lời của chân lý, họ triệu hồi ý thức của người chết (nếu đã chết) vào một hình nộm (hoặc thân nếu vẫn còn hiện diện) và củng cố nó. Sau đó họ đưa giáo lý đến người chết về sự quan trọng của việc tập trung tâm họ vào Bổn Tôn và các con đường tâm linh, chư Phật và các cõi tịnh độ, Giáo Pháp và những vị thầy của Giáo Pháp. Họ giảng dạy người chết đừng bám luyến vào người thân ở thế gian hoặc nên bỏ lại những sở hữu, vì điều đó chỉ phát sinh cảm xúc phiền nãongăn cản tiến bộ trên con đường tâm linh.

Thứ sáu, họ thực hiện nghi lễ “giải thoát khỏi các cõi”. Đây là một nghi lễ phức tạp tập trung trên việc giải thoát người chết khỏi chu trình tái sanh trong sáu cõi bằng cách tịnh hóa sáu cảm xúc phiền não từng cái một. Sau đó, những người tham dự ban quán đảnh hoặc ban phước của thân, khẩu, và ý chư Phật.

Thứ bảy, sau đó họ cúng dường sur, đốt thực phẩm và đồ uống. Theo nhiều bản văn phần lớn chúng sanh trong bardo không thể hưởng được thực phẩm đặc, mà họ cảm thấy thỏa mãn với mùi của thực phẩm được đốt.

Trong Ayushpatti-yathakara-paripriccha Sutra (Sutra về những gì xảy ra sau khi chết), Đức Phật giải thích rằng cho thực phẩm đến người chết là không lợi ích, vì không có thân thô nặng nên họ không thể hưởng thụ thực phẩm thô. Nếu với một tâm tiêu cực hay buồn phiền, bạn sắp xếp một số thực phẩm cho người chết trên một cái bàn, như đã được làm trong một số nền văn hóa, bạn sẽ không thỏa mãn cơn đói của người chết, cũng như sẽ không tạo được nhiều công đức nếu không bao gồm cảm hứng tâm linh, cầu nguyện, lòng bi, hoặc rộng lượng. Do vậy, trong nghi lễ sur, hành giả ban phước mùi của thực phẩm với thiền địnhhồi hướng đến người chết với cảm hứng thanh tịnh.

Trong một nơi thoáng đãng, chuẩn bị một bếp than, không có khói từ gỗ hoặc dầu sử dụng như nhiên liệu, ở đó người ta đốt thực phẩm đặc và rắc nước uống chung quanh ngọn lửa. Những mảnh vụn của quần áo mới cũng có thể đem đốt như những cúng dường.

Trong số thực phẩm cúng dường trong nghi lễ sur, thịt phải được tránh vì nó có thể lôi cuốn những thế lực tinh linh bạo động và gây hại. Ngoài ra theo ý kiến của tôi, người ta không nên dùng trái cây tươi hoặc bất cứ thực phẩm nào tạo ra mùi khó chịu khi đem đốt. Ở Tây Tạng, món chính được dùng là bột lúa mạch nướng trộn với bơ và một số mảnh vụn của quần áo mới biểu tượng cho quần áo. Ở phương Tây có thể dùng bánh quy làm vụn và một cặp mảnh vải của quần áo mới là thích hợp. Tuy nhiên, nếu không thể làm cúng dường bằng cách đốt, bạn có thể sắp xếp thực phẩm chay và nước uống trên bàn trong suốt nghi lễ và sau đó đem bỏ trong rừng hoặc ở một nơi sạch sẽ và cô lập.

Trong nghi lễ sur, với lòng bi chân thành mạnh mẽ, năng lực của thiền định, và lực của mantra, chúng ta tịnh hóa mọi bất tịnh của vật liệu sur, phóng đại vật liệu thành khối lượng khổng lồ đầy thế gian, và chuyển hóa chúng thành vật liệu-như ý để người chết được hưởng và lợi ích từ đó. Do đó, khói không chỉ xuất hiện đến người chết như thực phẩm và nước uống, mà còn nhận được hình tướng của bất cứ gì họ cần và mong ước. Thậm chí nếu người thực hiện không thể theo thiền định trong chi tiết, nếu họ có lòng sùng kính đến chư Phật, ban phước cho sur với cầu nguyện, và hồi hướng nó cho người chết với tình thương trong sạch, thì sự cúng dường sur sẽ trở thành một nguồn thỏa mãnlợi ích.

Nếu chúng ta cúng dường sur cho tất cả chúng sanh đau khổ với tình thươngrộng lượng, điều đó sẽ tạo ra công đức to lớn. Nếu hồi hướng và khao khát cho nhiều chúng sanh, người chết sẽ có được công đức to lớn, tạo cảm hứng cho chúng ta phát triển mọi loại tư duy vị thacúng dường rộng rãi.

Trong bước thứ tám, phowa được thực hiện để chuyển di tâm thức hoặc tâm người chết vào tâm giác ngộ của đức Phật để họ có thể tái sanh trong cõi tịnh độ của đức Phật.

Bước thứ chín là phục vụ đám tang trong đó thân xác được đem bỏ. Ở Tây Tạng có hai cách chính để thân xác hòa nhập với tự nhiên: là đem thiêu và cho chim kên kên ăn (một thực hành mà người phương Tây có thuật ngữ là “táng trên không”). Các lama thực hành nghi lễ thiền định để ban phước cho thân như cam lồ-trí tuệ và giàn thiêu hay chim kên kên là Bổn Tôn và cõi tịnh độ của các Ngài. Sau đó họ cúng dường thân xác như cam lồ đến Bổn Tôn để tịnh hóa nghiệp tiêu cựchoàn thiện công đức, trí tuệ của người chết. Họ cũng thiêu xác (hoặc hình nộm) để biểu tượng hóa sự tiêu tán bản ngã dối gạt, cảm xúc phiền não, và nghiệp tiêu cực với mọi dấu vết của chúng bởi ngọn lửa của năm trí, đó là bản tánh và phẩm chất tối thượng của tâm. Hoặc có thể cho chim kên kên ăn như những cúng dường. Thậm chí sau đó họ sẽ đốt một mảnh xương nhỏ cho nghi lễ sau đó.

Thứ mười, họ thu gom tro xương và tổ chức nghi lễ đặc biệt tịnh hóa xương (Tạng, ru jong; Rus sbyong) trong một tuần hay hơn. Họ thực hiện “sự giải thoát khỏi các cõi” như đã đề cập trước đó. Nó là một cơ hội khác để tịnh hóa nghiệp tiêu cực của người chết, sử dụng phần còn lại trong dạng tro.

Thứ mười một, sau khi xương được tẩy tịnh, tro được trộn với đất sét và làm thành nhiều tháp nhỏ (Tạng, tsatsa; Tsa-tsha) để biểu tượng tâm và thân người chết chuyển hóa thành những phẩm tính của chư Phật. Một tháp là biểu tượng của tâm-trí tuệ Phật. Một nghi lễ ban phước (Tạng, tsa drub, Tsa sgrub) được thực hiện trong một tuần hay hơn để ban phước và thánh hóa những tháp nhỏ như thân-trí tuệ của Phật.

Thứ mười hai, những tháp nhỏ được đặt như những cúng dường trong một sông hay biển và để nó hòa nhập với thiên nhiên, không gì còn lại của người chết. Không để lại bất cứ gì thô nặng sót lại cho phép khởi hành đến một nơi an bình không bị những cảm xúc phiền não giữ lại hoặc lôi kéo như bám luyến những người thân. Tuy nhiên, đạo Phật bảo tồn những gì còn lại của một số vị thầy vĩ đại trong dạng đài kỷ niệm tôn giáo để các Ngài sẽ là đối tượng của sùng kính, truyền cảm hứng và là một nguồn ban phước.

Cuối cùng, những người tham dự hồi hướng tất cả công đức đã tích lũy bởi hoặc cho người chết và mọi bà mẹ-chúng sanh như nguyên nhân của một lộ trình chuyển tiếp an bình và một tái sanh hạnh phúc (chẳng hạn như trong Cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Đức Phật Vô Lượng Quang). Hồi hướng tất cả công đức như hạt giống, họ niệm nhiều bài nguyện khao khát để nhận ra những mục tiêu đặc biệt này.

Các Nghi Lễ Khác

Với một thiền địnhphục vụ cầu nguyện đơn giảnvắn tắt, hãy xem phụ lục B.

Với nghi lễ chết của những vị thầy tôn kính đã thành tựu cao, những lama khác hay các đệ tử thực hiện nghi lễ kỷ niệm, thường do sùng kính tự nhiên trong nhiều ngày hoặc nhiều tuần. Chúng bao gồm nghi thức tôn kính vị thầy, thiền định sùng mộ về vị thầy, bữa tiệc cúng dường (Phạn ganachakra), và nghi thức thân thiêng liêng (Tạng, dung chog, gDung ch’og) với nghi quỹ (Phạn, sadhana) tịnh hóa, tạo công đức, và lập nguyện khao khát.

Cùng với các nghi lễ này, gia đình và bạn bè có thể tài trợ tạo-công đức và phục vụ lợi ích cho người chết. Bao gồm tụng niệm cầu nguyệnthực hành thiền định, bố thí tặng phẩm vật chấttinh thần, bảo vệ sức khỏe và sinh mạng, tài trợ những nghi lễcầu nguyện, xây dựng những đài kỷ niệm tinh thần và nơi trú ngụ, treo cờ và bánh xe cầu nguyện, hỗ trợ trường học và thiền định, và đem an bình, hòa hợp đến xã hội.

Sau khi thực hiện bất kỳ phục vụ nào, hãy hồi hướng công đức của nó như nguyên nhân của hạnh phúcgiác ngộ cho tất cả bà mẹ-chúng sanh, và lập nguyện tương tự. Do vậy, kinh nghiệm của bardo và tái sanh của người chết sẽ trở thành một hành trình từ hạnh phúc đến hạnh phúc.

Trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng, sự đóng góp vật chất bất cứ quy mô nào cho các tu sĩ tôn giáo, học viện, và cơ sở từ thiện càng nhiều càng tốt là điều phổ thông, để tạo công đức cho người chết, với sự khẩn cầu các tăng, ni, người mộ đạo bình thường, tu viện, hoặc ni viện cầu nguyệnhồi hướng công đức cho họ. Thậm chí nếu bạn không có tiền hay vật chất tốt để dâng cúng, bạn có thể quán tưởng cúng dường tài sản to lớn và cúng dường bằng tinh thần cho họ với sự rộng lượnghoan hỷ vĩ đại. Những cúng dường tinh thần như vậy cũng sẽ tạo ra một lượng công đức to lớn.

Đạo Phật tin rằng ngay cả việc bạn đóng góp một số lượng nhỏ cho một mục đích lớn, công đức của bạn có thể trở nên bao la như công đức của chính mục đích đó – giống như những giọt nước rớt vào biển sẽ không khô cạn cho đến khi đại dương khô cạn. Ngoài ra, nếu bạn hình thành một nghiệp nối kết với một bậc vĩ đại, thậm chí nếu sự cúng dường nhỏ như một tách trà, nó có thể tác động và kết quả vô tận, vì sự thiêng liêng của người mà bạn cúng dường.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25459)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37747)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19417)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18491)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14059)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 19917)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9409)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14206)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35345)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10562)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19531)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23060)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13267)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10640)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20041)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10496)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9854)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14747)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17488)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17454)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13037)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 30947)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25481)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13876)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17378)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10866)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12168)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10361)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12140)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11631)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9528)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12224)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9072)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8370)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9856)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9664)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11884)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14249)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9814)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11109)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8215)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10881)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 13912)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9818)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15044)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12887)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 22863)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23723)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12431)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15273)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17597)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 14885)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16412)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 15859)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17372)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11493)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11535)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17658)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10638)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10440)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11209)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 11990)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 10941)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36271)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8864)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9542)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34542)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17111)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10124)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10354)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12104)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13490)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14507)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9060)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24592)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11533)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10225)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15782)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15407)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14403)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12913)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12346)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14408)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18197)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9492)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18369)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18432)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18877)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18650)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11725)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13236)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47860)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 10983)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13436)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 12922)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 10951)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12428)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 10973)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31639)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11581)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant