Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lời Nói Đầu Của Dịch Giả

06 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10162)
Lời Nói Đầu Của Dịch Giả

PADMASAMBHAVA

GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN

Giáo lý của Đức Padmasambhava về Sáu Bardo

Luận Giảng: Ngài Gyatrul Rinpoche - Phiên dịch: B. Alan Wallace 
Dịch Việt: Tuệ Pháp - Nhà Xuất bản Trí tuệ, Boston 

Lời Nói Đầu Của Dịch Giả

blankQuyển sách này bao hàm một bản dịch và luận giảng về bản văn của vị thầy vĩ đại Padmasambhava của Phật giáo Ấn Độ, có tiêu đề Giáo Pháp Thâm Sâu Của Giải Thoát Tự Nhiên Qua Sự Thiền Định Hiền Minh Và Phẫn Nộ: Giai Đoạn Hướng Dẫn Đầy Đủ Về Sáu Bardo. [1] Có thể đoán sách được soạn thảo khoảng cuối thế kỷ thứ VIII. Bản văn này được Đức Padmasambhava đọc cho vị phối ngẫu Tây Tạng Yeshe Tsogyal của Ngài. Truyền thống Tây Tạng xem Đức Padmasambhava là một hiện thân của Phật A Di Đà, Đức Phật Vô Lượng Quang, và nhắc đến Ngài như Guru Rinpoche, hay Vị Thầy Tâm Linh Thông Tuệ Quý Báu. Tên Ngài, Padmasambhava, có nghĩa “Liên Hoa Sanh” cho thấy sự hóa sanh kỳ diệu của Ngài trong một hoa sen giữa hồ ở vùng Oddiyana. Được Vua xứ Oddiyana nhận làm con nuôi, Padmasambhava đã cống hiến cuộc đời Ngài cho sự học và thực hành mật tông, Phật giáo Kim Cương Thừa.

Vào thế kỷ thứ tám, Vua Trisong Detsen mời Ngài Padmasambhava đến Tây Tạng để giúp đỡ Tu Viện Trưởng Santaraksita của Ấn Độ trong việc xây dựng tu viện lâu dài đầu tiên ở xứ sở đó. Ở Tây Tạng, Pamasambhava đã tự Ngài cống hiến để hàng phục nhiều thế lực xấu ác ngăn cản sự học tập và thực hành Phật giáo ở đó, và đã ban rất nhiều giáo lý cho các đệ tử của Ngài, trong số đó có hai mươi lăm người nổi tiếng, tinh thôngthành tựu xứng đáng với chính họ. Truyền thống nói rằng khi công việc của Ngài ở Tây Tạng đã hoàn tất, Padmasambhava khởi hành đến hướng tây trong thân ánh sáng thanh tịnh tới cõi Phật được biết như Núi Huy Hoàng Màu Đồng, Ngài trụ ở đó cho đến ngày nay. . [2] 

Đức Padmasambhava đã chôn dấu nhiều giáo lý của Ngài trong cách “vỏ bọc-thời gian của tâm linh” được biết như “các kho báu” (gter ma; phát âm là terma) để được phát hiện dần dần qua nhiều thế kỷ khi nền văn minh của nhân loại sẵn sàng tiếp nhận. Sự phát hiện chậm trễ các giáo lý này diễn ra song song với cách học thuyết Đại Thừa cuối cùng được phát hiện cho việc công truyền trong vài thế kỷ sau khi Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni viên tịch, và nhiều tantra của Phật giáo được phát hiện lần đầu tiên ở Ấn Độ trong những thế kỷ cũng theo cách đó. Một số giáo lý chôn dấu của Padmasambhava – được biết như các kho tàng đất (sa gter) được viết ra và chôn dấu dưới đất, trong các hang động, hoặc thậm chí ở trong những tảng đá lớn. Các giáo lý khác – được biết như kho tàng tâm (dgongs gter) – là sự huyền nhiệm bí mật trong dòng tâm thức các đệ tử của Ngài, chờ đợi tâm thức của các đệ tử phát hiện trong những kiếp sau đó. Trong những thế kỷ sau khi Ngài khởi hành đến Núi Huy Hoàng màu Đồng, rất nhiều các bậc “khai mật tạng” (gter ston; phát âm terton) là những người thường được xem là hóa thân của Đức Padmasambhava hoặc các đệ tử chính của Ngài, đã phát hiện một số lớn các kho tàng này và sau đó truyền bá những giáo lý này. . [3] 

Lời kết thúc “Samaya. Đã Niêm, đã niêm, đã niêm” vào cuối mỗi chương của bản văn này là độc nhất cho các bản văn của kho tàng chôn dấu, hay terma. Chữ samaya trong bản văn chỉ ra rằng người sử dụng bản văn này phải nhớ lại samaya của họ, hoăïc các nguyện tantric. Chữ “đã niêm, đã niêm, đã niêm” là một cảnh báo rằng nếu người nào đó không phải là một khai mật tạng, tình cờ gặp được các bản văn này trong khi chúng vẫn phải được chôn dấu, thì họ phải để nguyên bản văn. Những lời này cũng cảnh báo vị khai mật tạngý định phát hiện bản văn chỉ nên phát hiện vào thời điểm thích hợp. Cuối cùng, với người đọc bản văn thì những lời này cảnh báo không nên cho người không có lòng tin hoặc những người mà samaya của họ bị suy đồi được thấy bản văn.

Một trong các vị khai mật tạng nổi tiếng nhất ở Tây Tạng là Karma Lingpa, Ngài sống trong thế kỷ thứ mười bốn và được xem là một hóa thân của chính Đức Padmasambhava. Ngài là người đã phát hiện luận thư hiện nay – một ví dụ kinh điển của kho tàng đất (terma đất) – trong một hang động ở Núi Gampo Dar, trung tâm Tây Tạng. Đề cập đến sáu tiến trình chuyển tiếp, hay bardo, bản văn này nhanh chóng trở thành một luận thư quan trọng của nghi lễ Nyingma của Phật giáo Tây Tạng; hiểu theo cách thông thường, luận thư đã được giảng dạy và thực hành rộng rãi bởi người Tây Tạng suốt từ thời gian đó, nhưng chỉ hoàn toàn dành cho người đã nhập môn vào chu trình giáo lý của Phật giáo Kim Cương Thừa. Luận thư này cũng có thể được xem là quyển sách đồng hành với quyển Tạng Thư Sống Chết.[4] nổi tiếng, vì cả hai đều được bao gồm trong cùng chu trình phát hiện kho tàng bởi Ngài Karma Lingpa. Tạng Thư Sống Chết chủ yếu quan tâm đến tiến trình cận tử và trạng thái trung gian sau đó, hay bardo.[5], trước sự tái sanh kế tiếp của con người. Tác phẩm hiện nay có phạm vi sâu rộng hơn nhiều, cung cấp các hướng dẫn gắn liền với thiền định thực tế cho tất cả sáu tiến trình chuyển tiếp, hay bardo, cụ thể là về cuộc sống, giấc mộng, thiền định, cận tử, trạng thái trung gian sau khi chết, và tái sanh.

Bản văn kho tàng này có thể sử dụng cho mọi người ở phương Tây, trong đầu những tháng năm 1995, khi Ngài Gyatrul Rinpoche Tôn Quý, một lama thâm niên của dòng truyền Payul của nội quy Nyingma, đã giảng dạy nó rộng rãi cho một nhóm bao gồm cả hai Phật giáo và không Phật giáo tại trung tâm Phật giáo Orgyen Dorje Den ở San Francisco, California. Sinh ra trong vùng Gyalrong ở phía Đông Tây Tạng năm 1925, Gyatrul Rinpoche đã được nhận ra từ thời niên thiếu bởi Ngài Jamyang Khyentse Lodro Thaye như một hóa thân của Sampa Kunkyab, một thiền giả của dòng truyền Pagyul, người đã dùng cuộc đời trong nhập thất và sau đó ban quán đảnh, trao truyền từ hang động nhập thất của Ngài cho rất nhiều đệ tử. Sau khi được đem đến Tu Viện Pagyul Domang, ngôi nhà của lần tái sanh trước của Ngài, thiếu niên Gyatrul được dạy dỗ bởi Ngài giám hộ Sangye Gon. Trong sự rèn luyện tâm linh sâu rộng, Ngài nhận được hướng dẫn cá nhân về nhiều luận thư của Đạo Phật, bao gồm luận thư hiện tại này, bởi đông đảo vị thầy nổi tiếng của nghi lễ Nyingma, bao gồm các Ngài Tulku Natsok Rangdrol, Payul Chogtrul Rinpoche, Apkong Khenpo, và His Holliness Dudjom Rinpoche. Ở Tây Tạng Ngài nhận được trao truyền và hướng dẫn miệng về luận thư hiện tại này từ Lama lỗi lạc Norbu Tenzin.

Sau khi đào thoát khỏi Tây Tạng vào Ấn Độ năm 1959, Gyatrul Rinpoche tiếp tục rèn luyện tâm linh của Ngài và phục vụ cộng đồng Tây TạngẤn Độ trong nhiều cách cho đến năm 1972, khi His Holiness Dalai Lama gửi Ngài đến Canada để cống hiến sự hướng dẫn tâm linh cho những người Tây Tạng định cư ở đó. Từ đó, Ngài đã giảng dạy rộng rãi khắp Bắc Mỹ, xây dựng rất nhiều trung tâm Phật giáo ở Oregon, California, New Mexico, và Mexico. Hiện nay, Ngài di chuyển đi và về giữa trung tâm chính của Ngài, Tashi Choeling, gần Ashland, Oregon và nhà của Ngài ở Cảng Half Moon, California.

Khi Gyatrul Rinpoche dạy bản văn này năm 1995, Ngài đã mời tất cả mọi ngườiniềm tin vào giáo lý này – dù họ có quán đảnh tantric hoặc chỉ là Phật tử – để lắng nghe và áp dụng vào thực hành. Trong số các tập thể đệ tử có một số người bị đau khổ vì bệnh tật khủng hoảng, bao gồm bệnh AIDS đã làm cho giáo lý về tiến trình cận tử được thấm thía hơn cho tất cả người nghe. Ngài cũng mời tất cả những ai đã đọc sách này với niềm tin tham gia trong thực hành đã mô tả ở đây vì lợi ích của chính họ và tất cả chúng sanh.

Thêm vào bản văn chính của Đức Padmasambhava, cùng với luận giảng miệng, biên tập và sao chép lại được ban bởi Ngài Gyatrul Rinpoche năm 1995, tác phẩm này cũng bao gồm bản dịch của các tác phẩm khác ngắn hơn kết hợp mật thiết với luận thư về sáu tiến trình chuyển tiếp. Để người đọc dễ dàng sử dụng các tác phẩm này, chúng được sắp xếp trong sách này thành ba phần riêng biệt. Phần 1 mô tả các thực hành chuẩn bị, được xem là cần thiết trong các thực hành được mô tả trong bản văn chính. Phần 2 gồm bản văn chính. Và Phần 3 gồm một số bài nguyện bổ sung. Tất cả ba phần cũng bao gồm một bản chép giáo lý miệng của Ngài Gyatrul Rinpoche.

Sự giới thiệu, đề cập đến chủ đề động cơ bao gồm lời khuyên ban đầunhận xét được ban bởi Ngài Gyatrul Rinpoche trước khi bắt đầu giảng dạy năm 1995. Trong chương 1, Gyatrul Rinpoche dẫn giải về một đề tựa của bản văn, Các Thực Hành Chuẩn Bị Để Điều Phục Dòng Tâm Thức Chính Bạn: Một Phụ Lục Cho Sự Xuất Hiện Tự Nhiên Của Hiền Minh Và Phẫn Nộ Từ Giác Tánh Giác Ngộ: Các Hướng Dẫn Dựa Trên Kinh Nghiệm Về Tiến Trình Chuyển Tiếp. Bản văn này đã được soạn thảo bởi Ngài Choje Lingpa, đệ tử chính của Karma Lingpa, và được Guru Nyida Ozer viết ra. Mặc dù truyền thống Tây Tạng tính đến tác phẩm này như một phụ lục cho chu trình giảng dạy hiện nay, Ngài Gyatrul chọn việc giới thiệutrước tiên vì lợi ích của những người mới thực hành Phật giáo Kim Cương Thừa. Bản văn yêu cầu thiền định từng khía cạnh để điều phục dòng tâm thức lan man của họ như một điều kiện tiên quyết cần thiết để tham gia trong các thực hành gắn liền với sáu tiến trình chuyển tiếp. Các thiền định từng khía cạnh này liên quan đến sự đau khổ của luân hồi, sự khó khăn có được cuộc sống con người với sự nhàn rỗithuận lợi, và cái chết thì vô thường. Sự thực hành guru yoga, mantra 100 âm tịnh hóa của Phật Vajrasattva, và sự cúng dường mandala cũng bao gồm trong tác phẩm này bởi Choje Lingpa, nhưng không được dịch ở đây, vì các thực hành này được bao gồm trong phần sau đây.

Chương 2 gồm bản văn liên quan khác gọi là sự giải thoát tự nhiên của bản tâm: Bốn Thời Yoga Của Hoạt Động Tâm Linh Của Mantra Bí Mật Kim Cương Thừa, do Choje Lingpa soạn thảo và được viết ra bởi Guru Suryacandra. Giống như tác phẩm trước, truyền thống bây giờ cũng bao gồm chu trình giảng dạy liên quan đến sáu tiến trình chuyển tiếp tương tự. Cái đầu tiên của bốn thời thảo luận ở đây bắt phải thiền định về thọ quy y bên ngoài, bên trong, và bí mật, phát triển tinh thần tỉnh thức của Đại Thừa, và trau dồi tứ vô lượng tâm. Thời thứ hai là một thiền định liên quan đến sự tụng niệm mantra một trăm âm của Phật Vajrasattva. Trong thời thứ ba người ta tạo nghi lễ cúng dường mandala, và thời thứ tư bao gồm một cầu nguyện đến dòng truyền của vị thầy tâm linh và một thiền định về tiếp nhận bốn quán đảnh. Nếu hành giả tham gia trong thiền định nhập thất về sáu tiến trình chuyển tiếp, tất cả thực hành trên có thể thực hiện trên nền tảng hàng ngày, cùng với các thực hành đã dạy trong tác phẩm chính này. Nếu hành giả kết hợp các cầu nguyệnthiền định này trong thực hành hàng ngày trong lúc đang sống một cách sống hoạt động trong thế gian, các tụng niệm thêm vào này có thể làm từng lúc khi muốn.

Sau hai chương chuẩn bị này xuất phát từ Phần 2 của quyển sách, trình bày bản văn chính, Giáo Pháp Uyên Thâm Của Giải Thoát Tự Nhiên Qua Sự Thiền Định Hiền Minh Và Phẫn Nộ: Giai Đoạn Của Hướng Dẫn Đầy Đủ Về Sáu Bardo, cùng với luận giảng của Ngài Gyatrul Rinpoche. Mỗi một trong sáu chương của bản văn chính được giới thiệu tách biệt, trong chương 3 qua 8 tập giới thiệu. Mỗi chương trong sáu chương này đề cập đến một trong sáu tiến trình chuyển tiếp, hay bardo, bắt đầu với tiến trình chuyển tiếp của cuộc sống và phát triển qua tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng, thiền định, cận tử, tự thân-thực tại, và trở thành. Mỗi chương cũng mô tả một khía cạnh khác nhau của giải thoát tự nhiên, chẳng hạn như sự giải thoát tự nhiên của nhầm lẫn, xảy ra trong tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng, và sự giải thoát tự nhiên của cái thấy, xảy ra trong tiến trình chuyển tiếp của tự thân-thực tại. Trong mỗi chương, bản văn đưa ra các hướng dẫn chi tiết để thực hành được thiết kế nhằm giúp hành giả chuyển hóa mỗi tiến trình chuyển tiếp thành một cơ hội thâm sâu cho giải thoátgiác ngộ.

Phần 3 của sách này gồm một số bài nguyện bổ sung, tất cả được xem là một phần của chu trình kho tàng đi kèm với bản văn chính. Chương 9 có tiêu đề Ba bài nguyện liên quan đến các tiến trình chuyển tiếp,” gồm ba bài nguyện. Cái đầu tiên là một bài nguyện để nhớ lại các hướng dẫn thực tế của vị thầy tâm linh hành giả. Bài nguyện thứ hai có đề tựa “Sự giải thoát tự nhiên của mọi thành tựu. Tự thân bài nguyện này có hai phần: “Bài nguyện cho sự giải thoát qua con đường hẹp của tiến trình chuyển tiếp,” đòi hỏi sự khẩn cầu đến năm vị Phật và các phối ngẫu ban phước để chuyển hóa năm tâm thức độc hại thành năm loại trí tuệ nguyên sơ; và “Bài nguyện để bảo vệ khỏi sợ hãi trong tiến trình chuyển tiếp,” đặc biệt nhắm đến việc chuyển hóa tiến trình chuyển tiếp của cận tử để nó trở thành một đại lộ cho sự tỉnh thức tâm linh. Bài nguyện thứ ba trong chương này là “Bài nguyện kêu cầu được giúp đỡ đến chư Phật và bồ tát,” để kêu cầu chư Phật và bồ tát ban phước khi hành giả tại ngưỡng cửa của cái chết. Đức Padmasambhava là tác giả của ba bài nguyện này, cũng như chúng cũng thuộc về kho tàng được phát hiện bởi Karma Lingpa.

Trong chương 10, người đọc sẽ thấy một bài nguyển khẩn cầu có tiêu đề, “Giải thoát tự nhiên của sự rộng mở bao la của ba hóa thân,” trong đó, hành giả khẩn cầu rất nhiều hiện thân của Đức Phật để ban phước cho sự phát triển tâm linh của hành giả trên con đường. Chương 11 gồm một bài nguyện có đề tựa “Sự giải thoát tự nhiên của ba độc mà không cần phản kháng chúng: một cầu nguyện guru yoga đến ba thân.” Bản văn này có mục đích giúp hành giả chuyển hóa ba tâm thức độc hại thành ba thân của Đức Phật. Cả hai bài nguyện này đều được bao gồm trong cùng chu trình giảng dạy như bản văn chính của chúng ta, nên tác giả vẫn là Đức Padmasambhava, và chúng được phát hiện bởi Karma Lingpa.

Sự phiên dịch bản văn gốc được chuẩn bị trong cách sau: trước tiên Ngài Gyatrul Rinpoche xem xét kỹ lưỡng các bản văn này với tôi, từng dòng một, để giúp tôi phiên dịch chúng sang tiếng Anh. Sau đó, Ngài cung cấp một luận giảng miệng cho các luận thư này tại Orgyen Dorje Den, giải thích từ nguyên bản Tây Tạng, trong lúc tôi phiên dịch luận giảng miệng của Ngài và lột tả từ bản dịch phác thảo tiếng Anh của tôi. Sự giải thích và luận giảng thứ hai này làm cho bản dịch nguyên thủy của tôi được tinh tế hơn. Kay Henry, một đệ tử sùng mộ Ngài Gyatrul, đã tình nguyện nhận nhiệm vụ to lớn sao chép toàn bộ luận giảng miệng và kết hợp điều này với bản dịch đúng nguyên văn. Sau đó đến tôi biên soạn luận giảng miệng, và – cùng với John Dunne và Sara McClintock, các biên tập viên của chúng tôi tại Nhà Xuất Bản Trí Tuệ – để chuẩn bị toàn bộ tác phẩm trong hình thức hiện nay của nó. Tôi mong muốn biểu lộ lòng cảm ơn sâu sắc đến Ngài Gyatrul Rinpoche đã dẫn dắt tôi trong việc phiên dịch bản văn này và luận giảng rõ ràng có thể sử dụng của Ngài và đến Kay Henry, John Dunne, và Sara McClintock, không có họ thì tác phẩm này không thể hoàn tất. Cầu mong mọi nỗ lực của chúng tôi được lợi ích!

B. Alan Wallace
Santa Barbara, California

Mùa xuân năm 1997

Sách liên quan:
Chết An Bình Tái Sinh Hạnh Phúc, Harold Talbott - Bản dịch Việt ngữ: Tuệ Pháp
Tàng Thư Sống Chết, Sogyal Rinpoche - Ni sư Thích Nữ Trí Hải dịch
Chết Trong An Bình, Visuddhacara - Thích Tâm Quang dịch
Chết Có Thật Đáng Sợ Không, HT Dhammananda - Thích Tâm Quang dịch Việt


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11330)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10423)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10682)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9646)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9444)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12792)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13156)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13342)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19683)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12413)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13136)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13453)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 12927)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12283)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18435)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10584)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12281)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 10878)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11093)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14566)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22331)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11500)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10071)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34410)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17572)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32529)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 21964)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11116)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17414)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17002)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10603)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10773)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9472)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10535)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10553)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10471)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12383)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12342)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 9921)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13103)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9639)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9047)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11734)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13363)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 11962)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11201)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11508)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10241)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10159)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10818)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28053)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10718)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7333)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9256)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11689)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11584)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10997)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10201)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10161)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13706)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14787)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10406)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11792)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10757)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10425)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10519)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9798)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10549)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9184)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 9860)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10082)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10386)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10517)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10430)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10000)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9721)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13396)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16184)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13358)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11445)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11033)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 10999)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12103)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15223)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10501)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11615)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10491)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 10992)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 9932)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10278)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11332)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 10891)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12788)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24115)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12508)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10205)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28369)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19214)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10816)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23105)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant