Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lời Nói Đầu Của Dịch Giả

06 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10259)
Lời Nói Đầu Của Dịch Giả

PADMASAMBHAVA

GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN

Giáo lý của Đức Padmasambhava về Sáu Bardo

Luận Giảng: Ngài Gyatrul Rinpoche - Phiên dịch: B. Alan Wallace 
Dịch Việt: Tuệ Pháp - Nhà Xuất bản Trí tuệ, Boston 

Lời Nói Đầu Của Dịch Giả

blankQuyển sách này bao hàm một bản dịch và luận giảng về bản văn của vị thầy vĩ đại Padmasambhava của Phật giáo Ấn Độ, có tiêu đề Giáo Pháp Thâm Sâu Của Giải Thoát Tự Nhiên Qua Sự Thiền Định Hiền Minh Và Phẫn Nộ: Giai Đoạn Hướng Dẫn Đầy Đủ Về Sáu Bardo. [1] Có thể đoán sách được soạn thảo khoảng cuối thế kỷ thứ VIII. Bản văn này được Đức Padmasambhava đọc cho vị phối ngẫu Tây Tạng Yeshe Tsogyal của Ngài. Truyền thống Tây Tạng xem Đức Padmasambhava là một hiện thân của Phật A Di Đà, Đức Phật Vô Lượng Quang, và nhắc đến Ngài như Guru Rinpoche, hay Vị Thầy Tâm Linh Thông Tuệ Quý Báu. Tên Ngài, Padmasambhava, có nghĩa “Liên Hoa Sanh” cho thấy sự hóa sanh kỳ diệu của Ngài trong một hoa sen giữa hồ ở vùng Oddiyana. Được Vua xứ Oddiyana nhận làm con nuôi, Padmasambhava đã cống hiến cuộc đời Ngài cho sự học và thực hành mật tông, Phật giáo Kim Cương Thừa.

Vào thế kỷ thứ tám, Vua Trisong Detsen mời Ngài Padmasambhava đến Tây Tạng để giúp đỡ Tu Viện Trưởng Santaraksita của Ấn Độ trong việc xây dựng tu viện lâu dài đầu tiên ở xứ sở đó. Ở Tây Tạng, Pamasambhava đã tự Ngài cống hiến để hàng phục nhiều thế lực xấu ác ngăn cản sự học tập và thực hành Phật giáo ở đó, và đã ban rất nhiều giáo lý cho các đệ tử của Ngài, trong số đó có hai mươi lăm người nổi tiếng, tinh thôngthành tựu xứng đáng với chính họ. Truyền thống nói rằng khi công việc của Ngài ở Tây Tạng đã hoàn tất, Padmasambhava khởi hành đến hướng tây trong thân ánh sáng thanh tịnh tới cõi Phật được biết như Núi Huy Hoàng Màu Đồng, Ngài trụ ở đó cho đến ngày nay. . [2] 

Đức Padmasambhava đã chôn dấu nhiều giáo lý của Ngài trong cách “vỏ bọc-thời gian của tâm linh” được biết như “các kho báu” (gter ma; phát âm là terma) để được phát hiện dần dần qua nhiều thế kỷ khi nền văn minh của nhân loại sẵn sàng tiếp nhận. Sự phát hiện chậm trễ các giáo lý này diễn ra song song với cách học thuyết Đại Thừa cuối cùng được phát hiện cho việc công truyền trong vài thế kỷ sau khi Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni viên tịch, và nhiều tantra của Phật giáo được phát hiện lần đầu tiên ở Ấn Độ trong những thế kỷ cũng theo cách đó. Một số giáo lý chôn dấu của Padmasambhava – được biết như các kho tàng đất (sa gter) được viết ra và chôn dấu dưới đất, trong các hang động, hoặc thậm chí ở trong những tảng đá lớn. Các giáo lý khác – được biết như kho tàng tâm (dgongs gter) – là sự huyền nhiệm bí mật trong dòng tâm thức các đệ tử của Ngài, chờ đợi tâm thức của các đệ tử phát hiện trong những kiếp sau đó. Trong những thế kỷ sau khi Ngài khởi hành đến Núi Huy Hoàng màu Đồng, rất nhiều các bậc “khai mật tạng” (gter ston; phát âm terton) là những người thường được xem là hóa thân của Đức Padmasambhava hoặc các đệ tử chính của Ngài, đã phát hiện một số lớn các kho tàng này và sau đó truyền bá những giáo lý này. . [3] 

Lời kết thúc “Samaya. Đã Niêm, đã niêm, đã niêm” vào cuối mỗi chương của bản văn này là độc nhất cho các bản văn của kho tàng chôn dấu, hay terma. Chữ samaya trong bản văn chỉ ra rằng người sử dụng bản văn này phải nhớ lại samaya của họ, hoăïc các nguyện tantric. Chữ “đã niêm, đã niêm, đã niêm” là một cảnh báo rằng nếu người nào đó không phải là một khai mật tạng, tình cờ gặp được các bản văn này trong khi chúng vẫn phải được chôn dấu, thì họ phải để nguyên bản văn. Những lời này cũng cảnh báo vị khai mật tạngý định phát hiện bản văn chỉ nên phát hiện vào thời điểm thích hợp. Cuối cùng, với người đọc bản văn thì những lời này cảnh báo không nên cho người không có lòng tin hoặc những người mà samaya của họ bị suy đồi được thấy bản văn.

Một trong các vị khai mật tạng nổi tiếng nhất ở Tây Tạng là Karma Lingpa, Ngài sống trong thế kỷ thứ mười bốn và được xem là một hóa thân của chính Đức Padmasambhava. Ngài là người đã phát hiện luận thư hiện nay – một ví dụ kinh điển của kho tàng đất (terma đất) – trong một hang động ở Núi Gampo Dar, trung tâm Tây Tạng. Đề cập đến sáu tiến trình chuyển tiếp, hay bardo, bản văn này nhanh chóng trở thành một luận thư quan trọng của nghi lễ Nyingma của Phật giáo Tây Tạng; hiểu theo cách thông thường, luận thư đã được giảng dạy và thực hành rộng rãi bởi người Tây Tạng suốt từ thời gian đó, nhưng chỉ hoàn toàn dành cho người đã nhập môn vào chu trình giáo lý của Phật giáo Kim Cương Thừa. Luận thư này cũng có thể được xem là quyển sách đồng hành với quyển Tạng Thư Sống Chết.[4] nổi tiếng, vì cả hai đều được bao gồm trong cùng chu trình phát hiện kho tàng bởi Ngài Karma Lingpa. Tạng Thư Sống Chết chủ yếu quan tâm đến tiến trình cận tử và trạng thái trung gian sau đó, hay bardo.[5], trước sự tái sanh kế tiếp của con người. Tác phẩm hiện nay có phạm vi sâu rộng hơn nhiều, cung cấp các hướng dẫn gắn liền với thiền định thực tế cho tất cả sáu tiến trình chuyển tiếp, hay bardo, cụ thể là về cuộc sống, giấc mộng, thiền định, cận tử, trạng thái trung gian sau khi chết, và tái sanh.

Bản văn kho tàng này có thể sử dụng cho mọi người ở phương Tây, trong đầu những tháng năm 1995, khi Ngài Gyatrul Rinpoche Tôn Quý, một lama thâm niên của dòng truyền Payul của nội quy Nyingma, đã giảng dạy nó rộng rãi cho một nhóm bao gồm cả hai Phật giáo và không Phật giáo tại trung tâm Phật giáo Orgyen Dorje Den ở San Francisco, California. Sinh ra trong vùng Gyalrong ở phía Đông Tây Tạng năm 1925, Gyatrul Rinpoche đã được nhận ra từ thời niên thiếu bởi Ngài Jamyang Khyentse Lodro Thaye như một hóa thân của Sampa Kunkyab, một thiền giả của dòng truyền Pagyul, người đã dùng cuộc đời trong nhập thất và sau đó ban quán đảnh, trao truyền từ hang động nhập thất của Ngài cho rất nhiều đệ tử. Sau khi được đem đến Tu Viện Pagyul Domang, ngôi nhà của lần tái sanh trước của Ngài, thiếu niên Gyatrul được dạy dỗ bởi Ngài giám hộ Sangye Gon. Trong sự rèn luyện tâm linh sâu rộng, Ngài nhận được hướng dẫn cá nhân về nhiều luận thư của Đạo Phật, bao gồm luận thư hiện tại này, bởi đông đảo vị thầy nổi tiếng của nghi lễ Nyingma, bao gồm các Ngài Tulku Natsok Rangdrol, Payul Chogtrul Rinpoche, Apkong Khenpo, và His Holliness Dudjom Rinpoche. Ở Tây Tạng Ngài nhận được trao truyền và hướng dẫn miệng về luận thư hiện tại này từ Lama lỗi lạc Norbu Tenzin.

Sau khi đào thoát khỏi Tây Tạng vào Ấn Độ năm 1959, Gyatrul Rinpoche tiếp tục rèn luyện tâm linh của Ngài và phục vụ cộng đồng Tây TạngẤn Độ trong nhiều cách cho đến năm 1972, khi His Holiness Dalai Lama gửi Ngài đến Canada để cống hiến sự hướng dẫn tâm linh cho những người Tây Tạng định cư ở đó. Từ đó, Ngài đã giảng dạy rộng rãi khắp Bắc Mỹ, xây dựng rất nhiều trung tâm Phật giáo ở Oregon, California, New Mexico, và Mexico. Hiện nay, Ngài di chuyển đi và về giữa trung tâm chính của Ngài, Tashi Choeling, gần Ashland, Oregon và nhà của Ngài ở Cảng Half Moon, California.

Khi Gyatrul Rinpoche dạy bản văn này năm 1995, Ngài đã mời tất cả mọi ngườiniềm tin vào giáo lý này – dù họ có quán đảnh tantric hoặc chỉ là Phật tử – để lắng nghe và áp dụng vào thực hành. Trong số các tập thể đệ tử có một số người bị đau khổ vì bệnh tật khủng hoảng, bao gồm bệnh AIDS đã làm cho giáo lý về tiến trình cận tử được thấm thía hơn cho tất cả người nghe. Ngài cũng mời tất cả những ai đã đọc sách này với niềm tin tham gia trong thực hành đã mô tả ở đây vì lợi ích của chính họ và tất cả chúng sanh.

Thêm vào bản văn chính của Đức Padmasambhava, cùng với luận giảng miệng, biên tập và sao chép lại được ban bởi Ngài Gyatrul Rinpoche năm 1995, tác phẩm này cũng bao gồm bản dịch của các tác phẩm khác ngắn hơn kết hợp mật thiết với luận thư về sáu tiến trình chuyển tiếp. Để người đọc dễ dàng sử dụng các tác phẩm này, chúng được sắp xếp trong sách này thành ba phần riêng biệt. Phần 1 mô tả các thực hành chuẩn bị, được xem là cần thiết trong các thực hành được mô tả trong bản văn chính. Phần 2 gồm bản văn chính. Và Phần 3 gồm một số bài nguyện bổ sung. Tất cả ba phần cũng bao gồm một bản chép giáo lý miệng của Ngài Gyatrul Rinpoche.

Sự giới thiệu, đề cập đến chủ đề động cơ bao gồm lời khuyên ban đầunhận xét được ban bởi Ngài Gyatrul Rinpoche trước khi bắt đầu giảng dạy năm 1995. Trong chương 1, Gyatrul Rinpoche dẫn giải về một đề tựa của bản văn, Các Thực Hành Chuẩn Bị Để Điều Phục Dòng Tâm Thức Chính Bạn: Một Phụ Lục Cho Sự Xuất Hiện Tự Nhiên Của Hiền Minh Và Phẫn Nộ Từ Giác Tánh Giác Ngộ: Các Hướng Dẫn Dựa Trên Kinh Nghiệm Về Tiến Trình Chuyển Tiếp. Bản văn này đã được soạn thảo bởi Ngài Choje Lingpa, đệ tử chính của Karma Lingpa, và được Guru Nyida Ozer viết ra. Mặc dù truyền thống Tây Tạng tính đến tác phẩm này như một phụ lục cho chu trình giảng dạy hiện nay, Ngài Gyatrul chọn việc giới thiệutrước tiên vì lợi ích của những người mới thực hành Phật giáo Kim Cương Thừa. Bản văn yêu cầu thiền định từng khía cạnh để điều phục dòng tâm thức lan man của họ như một điều kiện tiên quyết cần thiết để tham gia trong các thực hành gắn liền với sáu tiến trình chuyển tiếp. Các thiền định từng khía cạnh này liên quan đến sự đau khổ của luân hồi, sự khó khăn có được cuộc sống con người với sự nhàn rỗithuận lợi, và cái chết thì vô thường. Sự thực hành guru yoga, mantra 100 âm tịnh hóa của Phật Vajrasattva, và sự cúng dường mandala cũng bao gồm trong tác phẩm này bởi Choje Lingpa, nhưng không được dịch ở đây, vì các thực hành này được bao gồm trong phần sau đây.

Chương 2 gồm bản văn liên quan khác gọi là sự giải thoát tự nhiên của bản tâm: Bốn Thời Yoga Của Hoạt Động Tâm Linh Của Mantra Bí Mật Kim Cương Thừa, do Choje Lingpa soạn thảo và được viết ra bởi Guru Suryacandra. Giống như tác phẩm trước, truyền thống bây giờ cũng bao gồm chu trình giảng dạy liên quan đến sáu tiến trình chuyển tiếp tương tự. Cái đầu tiên của bốn thời thảo luận ở đây bắt phải thiền định về thọ quy y bên ngoài, bên trong, và bí mật, phát triển tinh thần tỉnh thức của Đại Thừa, và trau dồi tứ vô lượng tâm. Thời thứ hai là một thiền định liên quan đến sự tụng niệm mantra một trăm âm của Phật Vajrasattva. Trong thời thứ ba người ta tạo nghi lễ cúng dường mandala, và thời thứ tư bao gồm một cầu nguyện đến dòng truyền của vị thầy tâm linh và một thiền định về tiếp nhận bốn quán đảnh. Nếu hành giả tham gia trong thiền định nhập thất về sáu tiến trình chuyển tiếp, tất cả thực hành trên có thể thực hiện trên nền tảng hàng ngày, cùng với các thực hành đã dạy trong tác phẩm chính này. Nếu hành giả kết hợp các cầu nguyệnthiền định này trong thực hành hàng ngày trong lúc đang sống một cách sống hoạt động trong thế gian, các tụng niệm thêm vào này có thể làm từng lúc khi muốn.

Sau hai chương chuẩn bị này xuất phát từ Phần 2 của quyển sách, trình bày bản văn chính, Giáo Pháp Uyên Thâm Của Giải Thoát Tự Nhiên Qua Sự Thiền Định Hiền Minh Và Phẫn Nộ: Giai Đoạn Của Hướng Dẫn Đầy Đủ Về Sáu Bardo, cùng với luận giảng của Ngài Gyatrul Rinpoche. Mỗi một trong sáu chương của bản văn chính được giới thiệu tách biệt, trong chương 3 qua 8 tập giới thiệu. Mỗi chương trong sáu chương này đề cập đến một trong sáu tiến trình chuyển tiếp, hay bardo, bắt đầu với tiến trình chuyển tiếp của cuộc sống và phát triển qua tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng, thiền định, cận tử, tự thân-thực tại, và trở thành. Mỗi chương cũng mô tả một khía cạnh khác nhau của giải thoát tự nhiên, chẳng hạn như sự giải thoát tự nhiên của nhầm lẫn, xảy ra trong tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng, và sự giải thoát tự nhiên của cái thấy, xảy ra trong tiến trình chuyển tiếp của tự thân-thực tại. Trong mỗi chương, bản văn đưa ra các hướng dẫn chi tiết để thực hành được thiết kế nhằm giúp hành giả chuyển hóa mỗi tiến trình chuyển tiếp thành một cơ hội thâm sâu cho giải thoátgiác ngộ.

Phần 3 của sách này gồm một số bài nguyện bổ sung, tất cả được xem là một phần của chu trình kho tàng đi kèm với bản văn chính. Chương 9 có tiêu đề Ba bài nguyện liên quan đến các tiến trình chuyển tiếp,” gồm ba bài nguyện. Cái đầu tiên là một bài nguyện để nhớ lại các hướng dẫn thực tế của vị thầy tâm linh hành giả. Bài nguyện thứ hai có đề tựa “Sự giải thoát tự nhiên của mọi thành tựu. Tự thân bài nguyện này có hai phần: “Bài nguyện cho sự giải thoát qua con đường hẹp của tiến trình chuyển tiếp,” đòi hỏi sự khẩn cầu đến năm vị Phật và các phối ngẫu ban phước để chuyển hóa năm tâm thức độc hại thành năm loại trí tuệ nguyên sơ; và “Bài nguyện để bảo vệ khỏi sợ hãi trong tiến trình chuyển tiếp,” đặc biệt nhắm đến việc chuyển hóa tiến trình chuyển tiếp của cận tử để nó trở thành một đại lộ cho sự tỉnh thức tâm linh. Bài nguyện thứ ba trong chương này là “Bài nguyện kêu cầu được giúp đỡ đến chư Phật và bồ tát,” để kêu cầu chư Phật và bồ tát ban phước khi hành giả tại ngưỡng cửa của cái chết. Đức Padmasambhava là tác giả của ba bài nguyện này, cũng như chúng cũng thuộc về kho tàng được phát hiện bởi Karma Lingpa.

Trong chương 10, người đọc sẽ thấy một bài nguyển khẩn cầu có tiêu đề, “Giải thoát tự nhiên của sự rộng mở bao la của ba hóa thân,” trong đó, hành giả khẩn cầu rất nhiều hiện thân của Đức Phật để ban phước cho sự phát triển tâm linh của hành giả trên con đường. Chương 11 gồm một bài nguyện có đề tựa “Sự giải thoát tự nhiên của ba độc mà không cần phản kháng chúng: một cầu nguyện guru yoga đến ba thân.” Bản văn này có mục đích giúp hành giả chuyển hóa ba tâm thức độc hại thành ba thân của Đức Phật. Cả hai bài nguyện này đều được bao gồm trong cùng chu trình giảng dạy như bản văn chính của chúng ta, nên tác giả vẫn là Đức Padmasambhava, và chúng được phát hiện bởi Karma Lingpa.

Sự phiên dịch bản văn gốc được chuẩn bị trong cách sau: trước tiên Ngài Gyatrul Rinpoche xem xét kỹ lưỡng các bản văn này với tôi, từng dòng một, để giúp tôi phiên dịch chúng sang tiếng Anh. Sau đó, Ngài cung cấp một luận giảng miệng cho các luận thư này tại Orgyen Dorje Den, giải thích từ nguyên bản Tây Tạng, trong lúc tôi phiên dịch luận giảng miệng của Ngài và lột tả từ bản dịch phác thảo tiếng Anh của tôi. Sự giải thích và luận giảng thứ hai này làm cho bản dịch nguyên thủy của tôi được tinh tế hơn. Kay Henry, một đệ tử sùng mộ Ngài Gyatrul, đã tình nguyện nhận nhiệm vụ to lớn sao chép toàn bộ luận giảng miệng và kết hợp điều này với bản dịch đúng nguyên văn. Sau đó đến tôi biên soạn luận giảng miệng, và – cùng với John Dunne và Sara McClintock, các biên tập viên của chúng tôi tại Nhà Xuất Bản Trí Tuệ – để chuẩn bị toàn bộ tác phẩm trong hình thức hiện nay của nó. Tôi mong muốn biểu lộ lòng cảm ơn sâu sắc đến Ngài Gyatrul Rinpoche đã dẫn dắt tôi trong việc phiên dịch bản văn này và luận giảng rõ ràng có thể sử dụng của Ngài và đến Kay Henry, John Dunne, và Sara McClintock, không có họ thì tác phẩm này không thể hoàn tất. Cầu mong mọi nỗ lực của chúng tôi được lợi ích!

B. Alan Wallace
Santa Barbara, California

Mùa xuân năm 1997

Sách liên quan:
Chết An Bình Tái Sinh Hạnh Phúc, Harold Talbott - Bản dịch Việt ngữ: Tuệ Pháp
Tàng Thư Sống Chết, Sogyal Rinpoche - Ni sư Thích Nữ Trí Hải dịch
Chết Trong An Bình, Visuddhacara - Thích Tâm Quang dịch
Chết Có Thật Đáng Sợ Không, HT Dhammananda - Thích Tâm Quang dịch Việt


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25579)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37837)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19521)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18603)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14197)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20065)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9478)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14334)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35507)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10628)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19650)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23163)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13340)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10728)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20166)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10574)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9929)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14841)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17614)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17552)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13152)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31097)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25690)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13950)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17469)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10939)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12257)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10441)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12239)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11736)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9598)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12317)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9161)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8465)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9927)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9742)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12002)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14382)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9885)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11183)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8282)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10950)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14049)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9874)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15161)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13005)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23043)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23912)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12532)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15397)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17741)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15008)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16512)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16013)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17554)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11565)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11594)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17785)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10739)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10501)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11287)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12051)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11015)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36362)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8936)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9642)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34666)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17228)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10216)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10442)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12171)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13583)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14620)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9127)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24763)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11615)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10295)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15898)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15536)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14479)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12974)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12415)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14538)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18317)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9552)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18491)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18546)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18985)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18790)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11792)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13301)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47950)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11031)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13524)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13010)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11046)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12530)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11037)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31729)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11644)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant