Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

7. Sự Giải Thoát Tự Nhiên Của Cái Thấy: Những Hướng Dẫn Dựa Trên Kinh Nghiệm Về Tiến Trình Chuyển Tiếp Của Tự Thân Thực Tại

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10508)
7. Sự Giải Thoát Tự Nhiên Của Cái Thấy: Những Hướng Dẫn Dựa Trên Kinh Nghiệm Về Tiến Trình Chuyển Tiếp Của Tự Thân Thực Tại

PADMASAMBHAVA

GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
Giáo lý của Đức Padmasambhava về Sáu Bardo
Luận Giảng: Ngài Gyatrul Rinpoche - Phiên dịch: B. Alan Wallace 
Dịch Việt: Tuệ Pháp - Nhà Xuất bản Trí tuệ, Boston 
blank
blank
PHẦN HAI

GIÁO PHÁP UYÊN THÂM CỦA 
GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN QUA SỰ THIỀN ĐỊNH HIỀN MINH VÀ PHẪN NỘ
GIAI ĐOẠN HOÀN THIỆN
CÁC HƯỚNG DẪN VỀ SÁU BARDO

7

Sự Giải Thoát Tự Nhiên Của Cái Thấy:
Những Hướng Dẫn Dựa Trên Kinh Nghiệm Về

Tiến Trình Chuyển Tiếp Của Tự Thân Thực Tại

Trong chủ đề chung thứ năm, tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại (hướng dẫn thiết thực, giống như đứa trẻ bò vào lòng mẹ, về lòng tin liên quan đến tự thân hình tướng), nên sự giải thoát tự nhiên của cái thấy đã được dạy. Sự hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của cuộc sống đưa đến giải thoát tự nhiên của nền tảng, sự hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của thiền quán ổn định đưa đến giải thoát tự nhiên của nhận biết v.v... đưa đến sự xác quyết qua thẩm tra bản tánh của sinh tử của tự thân thực tại thanh tịnh bổn nguyên rồi thực hành. Chúng được gọi là “chu trình Xuyên Thấu nền tảng.” Nhờ nhận ra tánh giác nhận biết trực tiếp tự thân thực tại và trở nên quen thuộc với nó, giờ đây bạn định rõ được tướng mạo của tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại; và điều đó được gọi là “con đường giải thoát của sự Nhảy Vọt Qua.” Trong đây có bốn chủ đề: (1) đánh vào những điểm then chốt của thân, khẩu và ý, (2) sự bừng sáng của nhận thức trực tiếp trên bản thân mình nhờ ba loại điểm then chốt, (3) cách bốn cái thấy xuất hiện do thực hành, và (4) cuối cùnglời khuyên kết thúc.

Sự thực hành của tiến trình chuyển tiếp đầu tiên, thứ hai v.v... là cho mục đích nhận ra tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại. Tương tự, trong Paramitayana năm hoàn thiện đầu tiên (năm ba la mật) được trau dồi vì mục đích của hoàn thiện thứ sáu, tức trí tuệ.

ĐÁNH VÀO CÁC ĐIỂM THEN CHỐT CỦA THÂN, KHẨU VÀ Ý

Trong việc đánh vào các điểm then chốt có ba phần: (a) các điểm then chốt của thân, (b) các điểm then chốt của khẩu, và (3) các điểm then chốt của ý.

Các Điểm Then Chốt Của Thân

Trong các điểm then chốt của thân cũng có ba phần: (i) tư thế Nirmanakaya, ngồi xổm như một rsi, (ii) tư thế Sambhogakaya, như con voi nghỉ ngơi, và (iii) tư thế Dharmakaya, giống như sư tử trong tướng con chó. Tantra Nguyên Thủy về sự Xuyên Thấu của Âm Thanh trình bày:

Với tư thế sư tử của Dharmakaya, hành giả thoát khỏi mọi sợ hãi lừa dối và thấy với mắt vajra. Dựa vào tư thế Sambhogakaya của con voi nghỉ ngơi, hành giả lưu xuất thân tướng của tự thân thực tại và thấy với mắt của Giáo Pháp.

Chuỗi Hạt Ngọc Trai trình bày:

Có ba loại điểm then chốt của thân, cách thức của sư tử, của voi, và giống như rsi.

Với không hơn bảy học trò khi bầu trời trong sáng và không có gió hãy dẫn học trò của bạn đến nơi hiu quạnh. Trước tiên, tư thế Dharmakaya giống như sư tử trong dạnh con chó đòi hỏi vị trí của thân trong hình dáng một con chó. Đặt hai lòng bàn chân bạn trên đất; tay kết ấn kim cang quyền; bấu ngón chân cái xuống đất; duỗi phần thân trên của bạn như sư tử, đem hết sức của bạn làm dựng đứng; dồn sức mạnh của bạn vào cổ họng và hướng tri giác vào đối tượng của nó.

Sự rèn luyện trước này cần được dạy khi bầu trời hoàn toàn trong sáng, không mây, không mưa và không có sương mù. Bạn có thể rời thành phố để hoàn thiện rèn luyện này. Khi bạn “dồn sức mạnh vào cổ họng,” bạn uốn cong cổ một chút. Trong khi ép cằm xuống bạn vươn cổ ra sau. Khi “hướng tri giác vào đối tượng của nó,” giác quan mà bạn hướng là thị giác, hay cái nhìn chằm chằm của bạn.

Trong thời kỳ thực hành này liên quan đến giai đoạn Nhảy vọt qua của thực hành Đại Viên Mãn, được dạy một các truyền thống chỉ cho một vài đệ tử vào lúc họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho thực hành này. Họ đã hoàn tất đầy đủ mọi thực hành chuẩn bị; đã rèn luyện trong thực hành liên quan đến kinh mạch và năng lượng cần cho sự sống và đã rèn luyện trong giai đoạn phát triểnhoàn thiện. Họ cũng đã rèn luyện trong thực hành Xuyên Thấu, đòi hỏi kinh nghiệm trong sự trau dồi chỉ và quán. Các đệ tử với nền tảng thực hành như vậy là kinh mạch thích hợp cho sự trau dồi của giai đoạn nâng cao của Nhảy-vọt lên.

Giáo lý cao cấp Đại Viên Mãn không thiết kế cho người thậm chí không có bất cứ ý thức quy y nào. Vậy tại sao tôi lại cống hiến điều này như giáo lý công truyền? Có một số vị đại lama đương thời nói rằng bây giờ là lúc để ban giáo lý công khai này. Ngài Yangthang Tulku Rinpoche, Đức Jigmey Phuntsok, và Đức Orgyen Kusum Lingpa đã tuyên bố rằng bây giờ là lúc khi giáo lý về sáu tiến trình chuyển tiếp đã được dạy rộng rãi. Bản thân Ngài Karma Lingpa, vị lama hiển lộ đầu tiên giáo lý này cũng viết một bài nguyện rằng giáo lý này có thể được nuôi dưỡng trong cuối thời đại suy thoái và cư xử của con người không thích hợp với Giáo Pháp. Do vậy, thời điểm cho giáo lý này trở nên công khai là bây giờ.

Tuy nhiên, nếu bạn học giáo lý này theo cách hời hợt hoặc tò mò vu vơ sẽ dẫn bạn tái sanh vào cõi thấp trong trạng thái khổ cực của sinh tử. Nhưng nếu lắng nghe và học giáo lý này với niềm tin. Thậm chí không thực hành chúng, bạn cũng sẽ nhận được hạt giống giải thoát, đó là lợi ích to lớn. Thế nên, không ai nên bác quan điểm này và không ai nên khuyên các Pháp hữu của họ không tiếp nhận giáo lý về Đại Viên Mãn này, vì chúng quá bí mật hay cao cấp với họ. Xin đừng hủy lời khuyên của các vị đại lama này.

Chẳng hạn, giáo lý về “giải thoát qua sự nghe” trình bày rằng chỉ cần nghe giáo lý này với niềm tin đã đặt hạt giống giác ngộ trong dòng tâm thức của hành giả. Thế nên đừng để hoài nghi ngăn cản người khác có cơ hội tiếp nhận giáo lý này. Những hoài nghi như vậy không có trí tuệ vượt hơn Ngài Karma Lingpa, người đã phát hiện giáo lý này đầu tiên. Hãy nhớ rằng Ngài là người nói đây là thời điểm thích hợp giáo lý này nên được công truyền. Giáo lý rất quý báu và có thể đại lợi ích cho bạn vào lúc chết. Dù thế nào đi nữa đừng cản trở lẫn nhau trong thực hành của bạn.

Thứ hai, tư thế Sambhogakaya giống như con voi nghỉ ngơi đòi hỏi nằm úp mặt xuống như con voi; ép hai đầu gối vào ngực đưa các ngón chân ra ngoài; ép cùi chỏ trên đất và nâng cổ họng bạn lên một chút.

Thứ ba, tư thế Nirmanakaya giống như vị rsi ngồi xổm, đòi hỏi thân bạn trong tư thế ngồi xổm; đặt hai mắt cá cùng nhau; cắm hai lòng bàn chân trên đất; hoàn toàn duỗi thẳng thân, ép hai đầu gối tựa ngay ngực bạn, bắt chéo hai cổ tay ôm hai đầu gối và vươn cột sống thẳng, đứng.

Do đánh vào ba loại điểm then chốt của thân, bạn đánh vào điểm then chốt của sự hiện diện trí tuệ bổn nguyên của tánh giác trong thân để nó được nhận biết trực tiếp. Điều này giống như việc con rắn có nọc độc, nếu nó không bị ép lấy nọc, nọc độc vẫn tiềm ẩn.

Các Điểm Then Chốt Của Khẩu

Trong các điểm then chốt của khẩu cũng có ba phần: (i) rèn luyện trong khẩu, (ii) tịnh khẩu, (iii) kiên quyết. Trước tiên, rèn luyện trong khẩu đòi hỏi trong một ngày không được nói nhiều hơn ba hay bốn lần và càng ngày càng ít nói hơn. Thứ hai, tịnh khẩu đòi hỏi hoàn toàn không nói bất kể điều gì. Thứ ba, kiên quyết đòi hỏi sự kiên định như thể bạn bị câm hoàn toàn không nói bất cứ gì.

Các Điểm Then Chốt Của Ý

Không để nhận biết của bạn bị sao lãng ở nơi khác, đừng để nó chuyển hướng mục tiêu tập trung của bạn.

SỰ BỪNG SÁNG CỦA NHẬN THỨC TRỰC TIẾP TRÊN CHÍNH MÌNH TRONG VIỆC PHỤ THUỘC VÀO CÁC ĐIỂM THEN CHỐT

Ở đây có ba phần: (a) các điểm then chốt của những lỗ mở, (b) các điểm then chốt của đối tượng, (3) các điểm then chốt của năng lượng cần cho sự sống.

Các Điểm Then Chốt Của Những Lỗ Mở

Điểm then chốt của lỗ mở là mắt, Tantra nguyên thủy về Âm thanh xuyên thấu trình bày:

Về phần lỗ mở,53 hãy nhìn bằng mắt của ba kaya.

Vô Tự trình bày:

Về phần mắt, hãy nhìn chằm chằm vào lãnh vực không gian.

Chuỗi hạt Ngọc trai trình bày:

Về mặt các lỗ mở, đừng chuyển động từ chính nơi đó.

Dấu vết Nirvana trình bày:

Các điểm then chốt của những lỗ mở là nhìn chằm chằm lên trên, xuống dưới, và bên cạnh.

Ở đây có ba phần: Mục đích của cái nhìn chằm chằm Dharmakaya, bạn trợn mắt nhìn lên trên là để ngưng lại lập tức những hình tướng lừa gạt; mục đích của cái nhìn chằm chằm Sambhogakaya, trong đó bạn nhìn sang bên là để thấy kiến thanh tịnh của trí tuệ bổn nguyên và mục đích của cái nhìn chằm chằm Nirmanakaya đó là nhìn xuống dưới là để có được sự kiểm soát trên năng lượng sự sống và tâm. Thế nên, đừng tách rời ba cái nhìn chằm chằm, đó là các điểm then chốt của những lỗ mở.

Trong cái nhìn chằm chằm Dharmakaya, bạn hơi trợn mắt lên trên nhưng không nhiều giống như bạn chết. Một số lama dạy rằng sau khi hành giả thực hiện bất kỳ tư thế nào ở trên, hành giả hãy để cái nhìn chằm chằm nghỉ ngơi trong bất cứ cách nào thoải mái. Tuy nhiên, theo truyền thống có sự phù hợp giữa các tư thế và cái nhìn này. Đó là cái nhìn chằm chằm Dharmakaya tương ứng với tư thế Dharmakaya v.v...

Các Điểm Then Chốt Của Đối Tượng

Ở đây có hai phần: bản tánh tuyệt đối bên ngoài và bản tánh tuyệt đối bên trong. Tantra Nguyên thủy về Âm thanh Xuyên thấu trình bày:

Bản tánh tuyệt đối là bên ngoài và bên trong. Bên ngoài được biết như bầu trời không mây, và bên trong là con đường của ngọn đèn.

Ngọn Đèn Rực Rỡ trình bày:

Nhờ đặt nhận biết của bạn trong bản tánh tuyệt đối bên ngoài, sự nhận biết của chính bạn được tịnh hóa trong trạng thái của chính nó và trong sự xuất hiện của nó.

Tánh Giác Tự-Hiện trình bày:

Bản tánh tuyệt đốihào quang tự nhiên.

Dấu Vết Nirvana trình bày:

Điểm then chốt của đối tượng là không gian thoát khỏi điều kiện.

Bản tánh tuyệt đối bên ngoài là không gian thoát khỏi điều kiệnbản tánh tuyệt đối bên trong là ngọn đèn của bản tánh tuyệt đối hoàn toàn thanh tịnh. Vì không gian trống rỗng là đối tượng xuất hiện đến sự nhận biết rỗng không, do tập trung vào điểm then chốt của đối tượng, trí tuệ bổn nguyên xuất hiện tự do.

Các Điểm Then Chốt Của Năng Lượng Sự Sống

Ở đây có ba phần: giữ lại, tống ra và nhẹ nhàng ổn định. Tantra Nguyên thủy về Âm thanh Xuyên thấu trình bày:

Bằng mọi phương tiện hãy nhẹ nhàng với năng lượng sự sống. Điều này xảy ra nhờ thải hết chúng ra.

Dấu Vết Nirvana trình bày:

Điểm then chốt của năng lượng sự sống là phải rất nhẹ nhàng.
Trước tiên nhẹ nhàng giữ chúng, sau đó tống chúng ra ngoài xa như một mũi tên và sau đó rất nhẹ nhàng để năng lượng sự sống lắng xuống tự nhiên. Về phần điểm then chốt của sự nhận biết, hãy giam hãm tính cách. Vô Tự trình bày:

Tinh túy xuất hiện giống như tính cách, vi tế, lung linh và phóng ra.

Giác Tánh Tự-Hiện trình bày:

Thân ánh sáng mang năm trí tuệ bổn nguyên xuất hiện rực rỡ như tính cách, đến và đi, phóng ra và che lại.

Sức Mạnh Hoàn Hảo Của Sư Tử trình bày:

Thực tại của tánh giác tự-hiện là sự hiện diện như tính cách của trí tuệ bổn nguyên.

Hành giả giam hãm tính cách bằng việc giữ chúng ở trong. Để biết ý nghĩa của chữ “tính cách” bạn phải tham gia trong thực hành Nhảy-vọt lên tối thiểu trong vòng vài tháng. Trong thực hành này dòng ánh sáng trong trẻo, tượng hình, và cách sắp xếp xuất hiện trong phạm vi cái thấy của bạn. Lung linh, vi tế, phóng ra, và trong suốt, các hình tướng này là biểu hiện bên ngoài của trí tuệ bổn nguyên của tánh giác. Theo sau sự xuất hiện các hình tướng này nhiều loại bindu cũng xuất hiện, trong đó ánh sáng cầu vồng và cái thấy của vị bổn tôn bạn chọn có thể được thấy. Hàng loạt các hình cầu đồng tâm cũng xuất hiện bên trong những bindu này. Cái thấy của các bindu này là biểu hiện sáng tạo của trí tuệ bổn nguyên trong lúc tính cách là tự thân sự nhận biết, có thể nói là trí tuệ bổn nguyên của tánh giác. Một lần nữa bạn phải áp dụng giáo lý vào thực hành, và chính mình thấy chúng có ý nghĩa gì.

Để có một số gợi ý của kinh nghiệm này, mắt bạn hơi liếc nhìn một chút trong lúc nhìn chằm chằm vào ánh sáng đèn điện. Bạn sẽ có thể thấy kiểu ánh sáng, đó là tiền thân của hình tướng sẽ xuất hiện trong thực hành xác thực Nhảy-vọt lên. Trong thực hành như vậy, bạn có thể nhìn chằm chằm vào nguồn ánh sáng như mặt trăng. Giáo lý Nhảy-vọt lên nói, “Khi mặt trời mọc ở hướng đông, bạn nên quay mặt về hướng tây. Khi nó ở hướng tây bạn nên nhìn về hướng đông.” Điều này ngăn mắt bạn không bị hại. Đừng thực hành Nhảy-vọt lên trong lúc nhìn mặt trời vì bạn sẽ bị mù. Thậm chí tốt hơn đừng nhìn trực tiếp vào đèn nến. Nhìn vào ánh sáng điện mờ cũng được và thấy một số hình ảnh nhưng đừng nhầm lẫn đó là thực hành chân chính của Nhảy-vọt lên.

Dấu vết Nirvana trình bày:

Hãy giam hãm các tính cách của nhận biết.

Do đó, nhờ không tách rời ba điểm then chốt, quán sát các hình tướng của sự nhận biết. Thoạt tiên, làm điều này trong nhiều thời ngắn, sau đó tiếp tục ngày càng dài hơn. Kế tiếp thực hành vào những lúc đặc biệt trong ngày và đêm. Bạn sẽ rèn luyện trong một tháng rưỡi.

Chúng ta thường được khuyên bắt đầu bằng những thời ngắn và dần dần tiến dài hơn. Nhưng nhiều người lại làm ngược lại; họ bắt đầu tiến hành với thời dài và sau đó giảm xuống cho đến lúc bỏ hẳn. Hãy bắt đầu bằng những thời ngắn rồi dần dần gia tăng thời gian của mỗi thời và giảm số thời trong ngày. Bạn có thể tiến dần thời công phu lên một giờ, một giờ rưỡi, hai giờ và mười hai giờ, sau đó là suốt ngày. Đây là chiến lược các vị lama ở quá khứ đã đi theo. Nếu bạn thực hành tốt giống như vậy thì sau một tháng rưỡi bạn sẽ hoàn thiện nó.

CON ĐƯỜNG TRONG ĐÓ BỐN CÁI THẤY XUẤT HIỆN TÙY THEO THỰC HÀNH NHƯ VẬY

Ở đây có bốn phần; cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại, cái thấy của kinh nghiệm tiến bộ, cái thấy của nhận biết tột bậc và cái thấy của sự tiêu hủy vào trong tự thân thực tại. Dấu vết Nirvana trình bày:

Về phần cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại, quan điểm bám chấp vào sự tan rã khái niệm. Về phần cái thấy dựa trên kinh nghiệm tiến bộ, trí tuệ bổn nguyên của tiến trình chuyển tiếp được làm cho xuất hiện. Nhờ sự nhận biết tột bậc, bạn nhận ra Sambhogakaya. Nhờ cái thấy của sự tiêu hủy vào tự thân thực tại, bạn đạt được quả của Đại Viên Mãn, thoát khỏi hoạt động. Vì thế một khi bạn đến tột bậc của nền tảng và con đường thì chẳng còn tìm kiếm nirvana ở đâu khác.

Cái Thấy Trực Tiếp Của Tự Thân Thực Tại

Vị thầy tâm linh dạy, “Hãy thực hiện các điểm then chốt của thân giống vậy, thực hiện các điểm then chốt của khẩu giống điều này và các điểm then chốt của ý hãy tập trung trên đó.” Nhờ thực hành như vậy không dựa trên sự thêm vào đối với sự phân tích tâm thứclời nói, đệ tử thấy trực tiếp như đối tượng cái thấy của sự nhận biết tự thân thực tại trong không gian trống rỗng của họ, không bị nó làm nhiễm ô bởi bất kỳ quan niệm ép buộc nào do vậy, điều đó được gọi là “cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại.”

Cái thấy này xuất hiện trực tiếp không có bất cứ sự thêm vào của quán tưởng. Ví dụ, trong giai đoạn phát triển, bạn thêm vào nhiều quán tưởng dựa trên kinh nghiệm của bạn. Bạn thêm vào nơi chốn, bổn tôn trong nơi chốn v.v.... bạn cũng thêm vào lời nói như lời của sadhana, nên bạn gây ra kinh nghiệm này qua lời và quán tưởng. Đó là sự thêm vào cũng như các loại thực hành khác.

Tuy nhiên, trái với điều đó, trong thời kỳ Nhảy-vọt lên, cái thấy xuất hiện không dựa vào bất cứ sự thêm vào nào dù của quán tưởng hay tụng niệm. Điều này xảy ra trên nền tảng của không gian trống rỗng. Đây là nơi cái thấy được kinh nghiệm và nó không cách nào bị nhiễm ô bởi quan niệm ép buộc hoặc suy nghĩ thông thường. Điều đó được gọi là cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại. Lý do tại sao giai đoạn Nhảy-vọt lên của Đại Viên Mãnthật kinh sợ vì nó là sự trực tiếp. Nó không có trung gian bởi quan niệm ép buộc và không lệ thuộc vào khái niệm hay lời nói thêm vào.

Tantra Nguyên Thủy Về Âm Thanh Xuyên Thấu trình bày:

Cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại chắc chắc xuất hiện từ các lỗ mở của giác quan và nó rực rỡ trong bầu trời không mây.

Vì thế, nhờ thực hành phù hợp với các điểm then chốt, giữa hai lông mày bạn ở đó được gọi là “ngọn đèn của tự thân thực tại bổn nguyên.” Nó xuất hiện giống như màu sắc của cầu vồng hoặc con mắt của lông công. Bên trong nó được gọi là “ngọn đèn của bindu trống rỗng,” và nó giống như những vòng tròn gợn sóng đồng tâm khi bạn ném hòn đá vào hồ nước.

Trong giai đoạn thực hành này, bạn có thể thấy hào quang trắng hay xanh dương. Loại cái thấy bạn kinh nghiệm tùy thuộc vào sự chuyển hóa của chính bạn, nên thay đổi từ người này sang người khác.

Bên trong hình dạng giống như những dĩa tròn của một khiên, xuất hiện ở đó một bindu kích thước bằng hạt mù tạt hay hạt đậu. Bên trong đó là “tính cách vajra của nhận biết” điều đó là sự tinh tế, giống như nút buộc trong bộ phận đuôi ngựa, giống như chuỗi xích sắt, như hàng rào hoa di chuyển với gió v.v... Tất cả chúng xuất hiện đều trong sự kết hợp của hai hay ba v.v... và chúng được gọi là “bindu độc nhất của tính cách nhận biết chính bạn.”

Trong giai đoạn thực hành này, bạn có thể thấy nhiều ánh sáng sủi tăm nhỏ xíu, thanh mảnh. Chúng vô số và có thể xuất hiện trong nhiều màu sắc khác nhau. Tất cả chúng đều sủi tăm, tỏa sáng lung linh, nhanh như tên bắn và di chuyển vòng quanh. Chúng không “ở ngoài kia”, hiện hữu như một số thực tại độc lập trong không gian trước bạn. Đúng hơn là ánh sáng này xuất hiện theo sự di chuyển của năng lượng sự sống trong thân bạn. Khi bạn dần dần an địnhđiều phục được năng lượng sự sống trong thân, thì cái thấy này cũng lắng xuống.

Đa dạng các cái thấy có thể xuất hiện trong giai đoạn thực hành này. Những dây ánh sáng nhỏ này có thể giống như tóc, hay sợi tơ ánh sáng đi qua khu vực của cái thấy bạn. Đôi khi chúng giảm số lượng trong lúc bạn nhìn chằm chằm vào nó. Đôi lúc chúng có thể trở nên dầy đặc hơn. Thỉnh thoảng chúng có thể thẳng và đôi khi có thể cong, đôi khi chúng cũng có thể xuất hiện trong khuôn tròn. Chúng có thể thay đổi trong mọi cách khác nhau này.

Bản tánh tuyệt đối và sự nhận biết chẳng kết hợp cũng chẳng tách rời mà hiện diện trong cách mặt trời và những tia sáng của nó. Dấu ấn của bản tánh tuyệt đốihào quang, sự biểu lộ của trí tuệ bổn nguyên là bindu, dấu ấn của sự nhận biếthiện thântính cách. Về mặt vị trí, chúng hiện diện ở giữa citta,54[54] và về mặt con đường chúng xuất hiện trực tiếp đến mắt, đó là tinh túy nguyên chất của các giác quan. Tantra Nguyên Thủy Về Âm Thanh Xuyên Thấu trình bày: 

Cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại chắc chắn xuất ra từ các lỗ mở của giác quan và nó chiếu sáng rực rỡ trong bầu trời không mây.

Vì thế, quan điểm phân tích, bao gồm quan điểm bắt phải bám chấp vào khái niệm, ngôn từ, hiểu biết trí năng v.v... đều tan biến. Dấu vết Nirvana trình bày:

Đối với cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại, quan điểm gây ra bám chấp vào khái niệm được tan biến.

Cái Thấy Của Sự Tiến Bộ Cái Thấy Dựa Trên Kinh Nghiệm

Giữa kinh nghiệm cái thấy và kinh nghiệm nhận thức, kinh nghiệm nhận thức xuất hiện trong nhiều cách khác nhau như cảm giác cực lạc, cảm giác trong sángcảm giác của rỗng không. Tính không ổn định và nhất thời đều chung cho các yana khác nhau và ít được nhấn mạnh. Hơn nữa, nhiều truyền thống như Mahamudra cũng nói rằng kinh nghiệm nhận thức giống như màn chehành giả không nên đặt tin tưởng vào giá trị của kinh nghiệm này. Đúng hơn, hành giả nên đặt sự nhấn mạnh rõ rệt nhất về giá trị của nhận biết. Ở đây, tiêu chuẩn cho giá trị nhận biết được xác định bằng con đường của kinh nghiệm cái thấy và vì kinh nghiệm cái thấy là không tạm thời, chúng phải được nhấn mạnh rõ rệtõ nhất.

Vì thế, như một kết quả của việc tham gia trong kinh nghiệm của cái thấy, vào lúc bản tánh tuyệt đối và sự nhận biết trở nên rõ ràng và vào lúc chúng không rõ ràng. Nhờ tiếp tục thực hành, bản tánh tuyệt đối và sự nhận biết bị tách khỏi điểm giữa hai chân mày, chúng bị tách khỏi hiện tượng giác quanngọn đèn của bindu rỗng không, được tiếp cận và xuất hiện rõ ràng. Bindu chuyển thành kích cỡ của hạt đậu và sự nhận biết bắt đầu giống con chim sắp bay.

Như đã nhắc đến trước đây một hành giả ngay lập tức là người có được nhận biết tức thời trên việc nghe giáo lý cũng giống như chim garuda; ngay khi chim con mới nở lập tức nó có thể bay. Trái lại, người bình thường chúng ta càng giống như con nít: chúng ta cần đi qua nhiều giai đoạn rèn luyện khác nhau, nghe giảng giáo lý, hiểu được quan điểm và dấn thân vào thực hành. Sau đó sự nhận biết dần dần xuất hiện.

Nhờ tiếp tục thực hành, cái thấy của năm ánh sáng chuyển hóa khiến chúng xuất hiện trong kiểu không mạch lạc, ngang, dọc, giống như mũi giáo, tương tự như lều bằng lông trâu yak đen, và giống như ô vuông của bàn cờ; và ánh sáng này tỏa khắp mọi thứ phía trước bạn. Ngoài ra, các bindu cũng chuyển hóa để chúng giống như một gương và sự nhận biết xuất hiện trong cách của con nai đang chạy. 

Nhờ tiếp tục thực hành, cái thấy của bản tánh tối thượng xuất hiện trong vẻ ngoài của lưới ngọc, hàng rào, đầy đủ và một nửa của hàng rào ánh sáng, kẻ ô vuông, sáng rực, giống như mũi giáo, và một bảo tháp nhiều tầng, hoa sen ngàn cánh, hào quang, mặt trờimặt trăng, lâu đài, thanh kiếm, chày vajra, bánh xe, và giống hình dạng của mắt con cá. Ngoài ra, ánh sáng đó tràn đầy môi trường bạn sống trong đó. Bindu giống như bình bát bằng đồng và sự nhận biết của bạn giống như con ong bay lượn trên mật.

Tất cả cái thấy như vậy có thể xuất hiện như một hay nhiều hiện tượng. Tuy nhiên, điều quan trọng là bạn đừng lấy làm ghê gớm lắm về các hình tướng đó. Đừng phản ứng bám chấp hay thù ghét chúng. Đơn giản chỉ chứng kiến chúng.

Nhờ tiếp tục thực hành, ánh sáng tràn ngập môi trường, bindu trở thành như lớp da bảo vệ của con tê giác, ánh sáng tỏa sáng khắp nơi bạn nhìn, bản tánh tối thượng và sự nhận biết liên tục xuất hiện cả ngày lẫn đêm. Thân của bổn tôn xuất hiện trong mỗi bindu và các hiện thân cá nhân thiêng liêng vi tế xuất hiện ở giữa sự nhận biết. Sự nhận biết vẫn bất động.

Các bổn tôn có thể xuất hiện bên trong bindu làm nên tính cách của nhận biết, và trong lúc, “sự nhận biết vẫn bất động.”

Khi những hình tướng như vậy khởi lên, hiện tượng của tiến trình chuyển tiếp được thiết lập trong cách đó để sau này không còn trạng thái trung gian giữa chết và tái sanh.55[55] Vì thế, sự thực hành tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại chỉ là thực hành chính này.

Tantra Nguyên Thủy Về Âm Thanh Xuyên Thấu trình bày:

Trong sự tiến bô của cái thấy dựa trên kinh nghiệm, màu sắc của trí tuệ bổn nguyên chiếu ra ngang và dọc; các bindu xuất hiện rõ ràng như nhiều hiện thân thiêng liêng khác nhau và môi trường tỏa sáng xuất hiện đến sự nhận biết.

Dấu vết Nirvana trình bày:

Đối với sự tiến bộ của cái thấy dựa trên kinh nghiệm, trí tuệ bổn nguyên của tiến trình chuyển tiếp được làm cho xuất hiện.

Có nhiều vấn đề khác nhau chắc chắn xuất hiện trong giai đoạn tha thiết thực hành Giáo Pháp. Trước tiên, có thể bạn có khả năng làm nhẹ bớt một số vấn đề này. Song, nếu chỉ thực hành vì lợi ích chính mình thì chẳng bao giờ bạn thành tựu được bất cứ gì. Đã có vô số các bậc giác ngộ trong quá khứ và không một ai đạt được giác ngộ tâm linh qua sự tự cho mình là trung tâm. Nó không hoạt động. Chúng ta đã ở trong chu trình sinh tử này từ thời vô thủy và nó là sự tự cho mình là trung tâm khiến kéo dài mãi mãi chu trình sinh tử này. Nó là một phần của vấn đề, không phải là một phần của giải pháp. Nó xuất hiện qua sự biểu lộ bám luyến và thù ghét. Sống theo nguyên tắc bám luyến và thù ghét là không thích hợp với Giáo Pháp và thậm chí nó không thích hợp với sự hoàn thành các mục đích thế gian. Ba độc tham, sân và si phải được trục xuất giống như nọc rắn độc. Đặc biệt là chất độc của bám luyến phải được loại bỏ. Tới mức độ mà bạn có thể dẫn dắt cuộc sống mình thoát khỏi ba độc này thì bạn sẽ thành tựu các mục đích thế giantâm linh của bạn.

Trong lúc nhiều người hỏi tôi làm thế nào để phong phú thực hành tâm linh của họ, tôi thấy rằng các đối thoại của họ phần nhiều là biểu lộ của tham và sân. Tôi có thể bảo đảm rằng chừng nào người ta còn nuôi dưỡng các chất độc của tâm thức này thì sẽ chẳng có tiến bộ trong thực hành tâm linh của họ. Chừng nào mà cuộc sống bạn vẫn theo nguyên tắc của bám luyến và thù ghét thì giáo lý của đạo Phật về Tứ Diệu Đế sẽ trở nên vô dụng. Giáo lý về Bốn Tư Duy làm Chuyển Tâm cũng trở nên vô nghĩa. Giáo lý về sáu hoàn thiện trở thành vô dụng. Tất cả đều lãng phí. Trong trường hợp đó chẳng có quan điểm nào trong việc là người Phật tử. Phật giáo không thích hợp để sử dụng trên bạn.

Cái Thấy Của Sự Nhận Biết Tột Bậc

Sau đó, nhờ tiếp tục thực hành, năm hiện thân thiêng liêng với phối ngẫu xuất hiện bên trong mỗi bindu trước đó. Các Ngài là vô sốbất biếnđạt đến một số lượng tột bậc, như thể khoảng gần bằng một vốc tay hay một cân. Thậm chí sau đó bạn có thể ngừng thiền định. Vào lúc đó thân bạn được giải thoát vào thanh tịnh quang; các nguyên tố của thân tiến đến thanh tịnh tự nhiên của chúng; xuất hiện nhưng vẫn không có tự tánh, bạn được giải thoát tự nhiên như một Sambhogakaya và Sambhogakaya được nhận biết một cách không che đậy, bám chấp vào hiện thângiải thoát vào chính trạng thái của nó.

Với giai đoạn kế tiếp của kinh nghiệm xảy ra này, bạn phải tiếp tục thực hành. Đừng từ bỏ như đã thường xảy ra. Nhờ tiếp tục thực hành, năm hiện thân thiêng liêng của chư Phật xuất hiện cùng với các phối ngẫu bên trong mỗi bindu trước đó. Trong cái thấy trước có nhiều bindu tràn đầy trong phạm vi cái thấy của bạn, bạn sẽ thấy năm vị Phật với phối ngẫu của các Ngài. Nếu bạn đạt đến điểm này trong tiến trình thiền quán, bạn chẳng còn thiền định nữa. Từ điểm này trở đi kinh nghiệm sẽ xuất hiện phù hợp với chính nó.

Điều này giống như nghề nông, một khi đất đã được cày cấy kỹ và gieo hạt, nếu mặt trời ló dạng người nông dân có thể nghỉ ngơi. Bây giờ mọi sự xảy ra theo tiếân trình tự nhiên. Tương tự, một khi con bạn đã trưởng thành chúng vượt khỏi sự kiểm soát của bạn nên bạn có thể nghỉ ngơi và chỉ xem điều gì xảy ra. Giống như vậy, trong giai đoạn phát triển tâm linh này bạn có thể chỉ ngồi và nghỉ ngơi; phần còn lại của sự phát triển tâm linh bạn sẽ tự nó chăm nom.

Vào lúc đó, bạn được giải thoát tự nhiên như Sambhogakaya. Ngoài ra cũng chẳng có ý niệm về, “Tôi là hiện thân này”. Mọi bám chấp như vậy đã được giải thoát và bạn giải thoát trong chính trạng thái của mình.

Tantra Nguyên Thủy Về Âm Thanh Xuyên Thấu trình bày:

Trong cái thấy của sự nhận biết tột bậc, các dấu hiệu và biểu tượng của Sambhogakaya xuất hiện rõ ràng và từ màu sắc vô hạn của cầu vồng, các bổn tôn và phối ngẫu của năm gia đình xuất hiện. Sau đó năm đôi hợp nhất với bindu chiếu sáng rực rỡ; và với sự xuất hiện của thân các bổn tôn với phối ngẫu, các hình tướng lừa dối tan hòa vào cõi tịnh độ.
Dấu vết Nirvana trình bày:

Nhờ cái thấy của sự nhận biết tột bậc, Sambhogakaya được nhận ra.

Cái Thấy Của Sự Tiêu Diệt Vào Tự Thân Thực Tại

Sự tiến triển của cái thấy trước đi đến kết thúc, và trong kinh nghiệm của cái thấy đó không có bản tánh bám chấp vào sự xuất hiện hay không xuất hiện. Vào lúc đó, cái xảy ra này được gọi là, “cái thấy của sự tiêu diệt vào tự thân thực tại.” Kinh nghiệm bị dập tắt, thân vật chất bị tiêu hủy, sự bám chấp vào các giác quan bị phá hủy, sự tụ hội của các tư tưởng dối gạt bị tiêu hủy, mọi nguyên lý triết họchình tướng lừa gạt bị tiêu diệt, thân vật chất của bạn biến mất và bạn trở thành một vị Phật. Điều đó được gọi là “sự tiêu diệt vào tự thân thực tại,” vì nó đưa đến sự tiêu hủy của hoạt động, các hình tướng lừa dối và sự tiến bộ của cái thấy dựa trên kinh nghiệm. Nó được gọi là “sự tiêu hủy vào tự thân thực tại,” nhưng nó không phải không hiện hữu như trong trường hợp của chủ nghĩa hư vô, trong đó có sự tiêu hủy vào sự không có gì cả. Đúng hơn là trí tuệ bổn nguyên của tri kiến và các phẩm tính tối ưu trở nên hiển nhiên. Tóm lại, năng lực các phẩm tính của ba hiện thân được đem đến viên mãn.
Vào lúc đó, không có cảm giác “đây là hình tướng” hoặc “đây không phải là hình tướng.” Không có bất tịnh cũng như không có bất cứ cảm giác nào về việc “đây là sự thanh tịnh.” Mọi khái niệm xây dựng như vậy hoàn toàn được siêu vượt.

Cho đến nay các kinh nghiệm được tiêu diệt ở đây là nhiều cái thấy khác nhau đã xảy ra. Sự bám chấp vào tất cả đối tượng của năm giác quan về âm thanh, sắc tướng v.v... đều bị tiêu trừ. Thân vật chất của hành giả ám chỉ thân nhiễm ô, đó là thân được tạo ra bởi hành động trướcphiền não tâm thức cũng được biến mất. Đừng hiểu điều này theo cách đoạn kiến. Không phải nói rằng mọi sự chỉ trở nên không có gì. Tự thân thực tại đưa đến sự đáp ứng các phẩm tính của tâm linh tỉnh thức, bao gồm vô số hoạt động giác ngộ của Đức Phật. Việc nói thực tại quy ước biến mất giống như nói mọi đám mây bị tiêu tan trong bầu trời xanh trong, mà không ám chỉ mặt trời biến mất. Mặt khác, bạn không bám chấp vào bầu trời, nói rằng, “Điều đó thật sự hiện hữu.” Loại bám chấp đó đơn giản là một biểu lộ của cực độ khác của thuyết đoạn kiến, vì nó không đơn giản là không có gì cả. Song, vì tự thân thực tại không thể bị bám chấp như thực sự hiện hữu, nó thoát khỏi sự cực đoan của thuyết đoạn kiến.

Trí tuệ bổn nguyên của tri kiến là của hai loại: bản thể học và hiện tượng học. Tri kiến của bản thể học là tri kiến của thực tại như nó là. Tri kiến hiện tượng học là tri kiến của toàn bộ phạm vi hiện tượng. Trong Phật quả có hai cách thức tri kiến đi đến viên mãnvô số phẩm tính giác ngộ trước đó tiềm tàng bây giờ được hiển lộ.

Do đó, trên việc thấy cái thấy trực tiếp của tự thân thực tại, trong việc tùy thuộc vào cái thấy tiến bộ của cái thấy dựa trên kinh nghiệm, trong đó bản tánh tuyệt đối và sự nhận biết tiến bộ ngày càng cao hơn, sự nhận biết được đem đến tột bậc, bạn kinh nghiệm cõi tịnh độ của ba hiện thân. Giống như mặt trăng đến lúc tròn, thân thể đi đến sức mạnh hoàn toàn của nó, khi sự tiến bộ của kinh nghiệm ngưng lại, trí năng bị tiêu hủy, hiện tượng được tiêu trừ, và bám chấp được tiêu diệt. Điều này đơn giản được gọi là “cái thấy của sự tiêu trừ vào tự thân thực tại.”

Bạn có thể tự hỏi liệu sự tiêu trừ vào tự thân thực tại của Đại Viên Mãncon đường tột bậc và phẩm tính của năm con đường của truyền thống sutra là giống nhau. Chúng hoàn toàn không giống nhau. Thậm chí nếu có người đã đi đến sự tột bậc của việc viên mãn năng lực sáu ngàn phẩm tính của mười địa bodhisattva và năm con đường của tự thân truyền thống sutra, người đó cũng không hoàn toàn thấy các phẩm tính và năng lực của tantra, và họ chưa viên mãn. Do vậy đây là một khác biệt lớn giữa sự tiêu trừ vào tự thân thực tạicon đường cuối cùng.

Tantra Nguyên Thủy Về Âm Thanh Xuyên Thấu trình bày:

Cái thấy của sự tiêu trừ vào tự thân thực tại là sự rỗng không của cái thấy dựa trên kinh nghiệm. Thân thể bị tiêu hao, các đối tượng của giác quan bị tiêu hủy, tập hội các tư duy lừa gạt được giải thoát tự nhiênkế tiếp có sự thoát khỏi ngôn từ đó là nền tảng của khẩu.

Và:

Vì thế, trên việc chấm dứt sự liên tục của thân, các kết tập nhiễm ô biến mất, dẫn đến Phật quả hiển nhiên.

Nếu gieo hạt giống cây táo, bạn nuôi dưỡngcho đến lúc lớn thì chẳng cần tìm táo ở đâu khác. Để bắt đầu, bạn có hạt táo; sau đó nuôi dưỡng nó và kế tiếp nhận được quả ngay đó chẳng cần đi đâu khác. Tương tự, chúng ta đã có nhân của Phật quả trong mình và cũng có thân người với cuộc sống nhàn rỗi và thuạân lợi. Trong bối cảnh này chúng ta có cơ hội lắng nghe, suy nghĩthiền định. Với sự kết hợp của nguyên nhân bên trong chúng ta và các điều kiện của cuộc sống làm người quý báu và nhiều giai đoạn thực hành khác nhau, chúng ta có thể gặt hái kết quả của giác ngộ viên mãn.

Như chúng ta đã biết từ các kinh nghiệm rộng rãi, chỉ có nguyên nhân thì chưa đủ mà phải có các điều kiện góp phần. Sự quyết định, điều kiện góp phần cho tỉnh thức tâm linh là sự kiên trì trong thực hành.
Dấu vết Nirvana trình bày:

Nhờ cái thấy của sự tiêu trừ vào tự thân thực tại, kết quả của Đại Viên Mãn, thoát khỏi hành động được đạt đến. Trong cách này, trên việc đi đến tột bậc của nền tảng và con đường, chẳng có nirvana để tìm ở đâu khác.

Đây là con đường tột bậc của Đại Viên Mãn. Nên không có những phẩm tính của nirvana và chẳng có con đường nào khác để tìm. Đây là sự tối thượng. Thậm chí nếu con đường tột bậc của các thừa thấp được đạt đến, nếu cánh cổng của những phẩm tính tantra không được thấy, thì hành giả phải đi vào tantra và rèn luyện trong sự nghe và suy nghĩ. Do vậy, ngay cả nếu hành giả đi đến tột bậc của thực hành sutra, hành giả vẫn chưa đi đến tột bậc của tantra. Vì đây là sự tột bậc của mọi con đường, chẳng có con đường nào cao hơn, nên nền tảng được viên mãncon đường được viên mãn. Vì không có con đường nào cao hơn nên được gọi là Đại Viên Mãn. Đó là giáo lý về con đường trong đó bốn cái thấy xuất hiện

LỜI KHUYÊN KẾT THÚC

Thiết lập nền tảng trong ba không hoạt động, thiết lập tiêu chuẩn của ba vị trí, đóng đinh vào ba thành tựuhoàn thiện bốn trạng thái của tự tin. Điều này được đề cập rộng rãi hơn ở nơi khác. Đây là những hướng dẫn về tiến trình chuyển tiếp của tự thân thực tại được gọi là sự giải thoát tự nhiên của cái thấy. Samaya.

Đã niêm, đã niêm, đã niêm.

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31585)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10514)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11208)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12725)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10796)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16622)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10799)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22935)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12002)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11479)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10669)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12318)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11185)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10001)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10318)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11898)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10689)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12356)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9792)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11244)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13825)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9571)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12611)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9685)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10443)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10538)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10298)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9885)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11044)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11999)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10133)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10775)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9531)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9887)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8759)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9487)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14506)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8768)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12540)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10405)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9062)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10549)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9323)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8781)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10494)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9173)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8347)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12009)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9688)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10207)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10221)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19116)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9391)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8965)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9572)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9011)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14730)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10073)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8340)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8934)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8959)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8730)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9359)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14576)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9027)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8752)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9027)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10514)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8629)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9982)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24255)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10155)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11009)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8990)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9456)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7997)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9237)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15331)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10325)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9560)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17428)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21362)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12147)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10225)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19215)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26009)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7966)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14749)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10619)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11340)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9525)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18634)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12338)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11864)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10729)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13324)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9971)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9259)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9364)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15871)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant