Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bảng Chú Giải Thuật Ngữ

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11278)
Bảng Chú Giải Thuật Ngữ

PADMASAMBHAVA

GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
Giáo lý của Đức Padmasambhava về Sáu Bardo
Luận Giảng: Ngài Gyatrul Rinpoche - Phiên dịch: B. Alan Wallace 
Dịch Việt: Tuệ Pháp - Nhà Xuất bản Trí tuệ, Boston 
blank
blank

Bảng Chú Giải Thuật Ngữ


Abhidharma. Giáo lý A Tỳ Đàm. Hệ thống hiện tượng học và thần học của đạo Phật, bao gồm sự mô tả và phân tích thân và tâm con người, các bộ chúng sanh, bản chất và sự hình thành vũ trụcon đường đến giải thoát.
Adhisara. (Tạng, ‘phrul ‘khor) Các tư thế và luyện tập của thân dùng để nâng cao thực hành thiền quán của hành giả.
Anuyoga. Một loại thực hành tantric của Nyingma, tương ứng với giai đoạn hoàn thiện. Thực hành Anuyoga theo sau Mahayoga và tiến đến Atiyoga.
Lỗ mở của địa ngục. Hậu môn, được gọi như vậy vì khi ý thức rời khỏi thân người vào lúc chết bằng đường hậu môn, chỉ ra rằng người đó sắp tái sanh vào cõi địa ngục.
Arya. Một cá nhân đã đạt được nhận biết bất nhị, thiền định phi khái niệm của thực tại tối thượng hoặc tánh không.
Atiyoga. Đồng nghĩa của Đại Viên Mãn (Tạng, rdzogs chen), một hệ thống lý thuyếtthực hành được đi theo chủ yếu bởi luật của Nyingma, Phật giáo Tây Tạng, mục tiêu đạt giải thoát, trực tiếp biết chắc về bản tánh cốt lõi của sự nhận biết.
Địa ngục Avici. A Tỳ. Theo truyền thống sutra, là nơi hành hạ đau đớn nhất của mười tám tầng địa ngục.
Bardo (Phạn, antarabhava). Trạng thái trung gian theo sau cái chết và trước lúc tái sanh kế tiếp của một người. Nói rộng hơn, thuật ngữ bardo có thể ám chỉ bất kỳ sáu tiến trình chuyển tiếp của lúc sống, nằm mộng, nhập định, cận tử, tự thân thực tại và sự trở thành.
Bindu (Tạng, thig le). Dịch tinh túy, hay “giọt”, đi qua kinh mạch trung ương vi tế trong thân người; hình một quả cầu nhỏ, thường được quán tưởng như bản tánh của ánh sáng.
Bodhicitta. Tâm linh Tỉnh thức, hay khát vọng vị tha để đạt được Tinh thần Tỉnh thức viên mãn vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Trong tantra, bodhicitta trắng và đỏ là hai loại bindu thường định vị trong kinh mạch trung ương tại đỉnh đầu và dưới rốn, hội tụ lại ở ngực trong tiến trình cận tử và trong dạngï nhập định sâu.
Bodhisttva. Một cá nhânTâm linh Tỉnh thức dễ dàng khởi lên như động cơ ban đầu của họ, phát sinh lòng từ ái và lòng bi to lớn.
Lỗ mở Brahma. Nơi mở ra trong kinh mạch trung ương tại đỉnh đầu, được gọi như vậy vì khi ý thức rời khỏi thân vào lúc chết qua con đường của đỉnh đầu, nó ám chỉ rằng người đó sắp được tái sanh vào cõi trời hay Brahma (Phạm Thiên).
Xuyên thấu (Tạng, khregs chod). Giai đoạn đầu tiên của hai giai đoạn chính trong thực hành của Đại Viên Mãn, mục tiêu nhằm đạt được việc duy trì nhận biết trực tiếp của bản tánh cốt tủy của tâm.
Phật tánh. Bản tánh cốt tủy của tâm, theo Đại Viên Mãn là không có gì khác hơn tâm Phật.
Citta. Thuật ngữ tiếng Phạn này thường ám chỉ tâm, nhưng trong giáo lý cao hơn của Đại Viên Mãn, đôi lúc nó chỉ cho ngực.
Thanh tịnh quang. Bản tánh cốt lõi của tâm, đó là không thể nghĩ bàn, tuy nhiên được đặc tính hóa một cách ẩn dụ như bản tánh của tánh không và tánh sáng.
Daka. Đối tác nam của dakini; daka thường biểu hiện như vị bổn tôn bảo vệphục vụ giáo lý đạo Phậthành giả.
Dakini. Người nữ tâm linh tham gia vào các hoạt động giác ngộ cho lợi ích của thế gian.
Damaru. Một loại trống lắc bằng tay dùng trong nghi lễ tantric.
Deva. Chư thiên hay “trời”; thành viên cao nhất của sáu bộ chúng sanh trong vòng sinh tử, họ kinh nghiệm cực lạc, năng lựcnhận biết mạnh mẽ, tất cả điều này sẽ biến mất khi họ chết từ trạng thái hiện hữu đó.
Dharmakaya. Pháp Thân, Tâm của một vị Phật, được nói là vô biên về mặt trí tuệ rộng mở, lòng bi và năng lực.
Nguyên tố của năng lượng sự sống. Năng lượng, hay “gió” chảy khắp cơ thể, có năm loại năng lượng sự sống chính và phụ, mỗi loại có chức năng sinh lý học khác nhau. “Năng lượng duy trì sự sống” được kết hợp đặc biệt mật thiết với chức năng của tâm.
Bốn cực lạc (Tạng, dga’ ba bzhi). Cực lạc, cực lạc cao nhất, cực lạc phi thườngcực lạc bẩm sinh, xuất hiện trong tiến trình thực hành tan tric nâng cao.
Bốn quán đảnh. Cái bình, bí mật, trí tuệ-ngộ đạo, và quán đảnh lời, cho quyền một người tham gia vào thực hành tantric nâng cao.
Bốn vô lượng. Lòng từ ái vô lượng, lòng bi, cảm thông hoan hỷ vô lượng, và bình đẳng, cung cấp nền tảng cho sự trau dồi Tâm linh Tỉnh thức.
Bốn Sự Thật Cao Quý. Tứ diệu đế, Chân lý của đau khổ, nguồn gốc của nó, sự chấm dứt nó và con đường đến chấm dứt đó, cung cấp như toàn bộ cấu trúc của lý thuyếtthực hành của đạo Phật.
Bốn Suy Niệm Làm Chuyển Tâm. Sự thiền định về giá trị và sự hiếm có của cuộc sống làm người với nhàn rỗithuận lợi, về cái chết và vô thường, bản tánh không thỏa mãn của vòng sinh tửluật nhân quả đi đôi với hành động và các hậu quả của nó.
 Năm gia đình Phật. Gia đình các vị Phật: Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa), Ratnasambhava (Bảo Sanh), Amitabha (A Di Đà), Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu), và Vairocana (Tỳ Lô Giá Na), tương ứng với năm kết tập (ngũ uẩn) tâm sinh lý của ý thức, nhận biết, cảm nhận, hình thành tâm thức và thân tướng (sắc, thọ, tưởng, hành và thức) trong khía cạnh thanh tịnh của chúng.
Sự đáp ứngsám hối (Tạng,bskang bshags). Một nghi thức thực hành trong đó hành giả cúng dường đến bổn tôn (đáp ứng), với khẩn cầu được bảo vệ khi hành giả thú nhận các vi phạm (sự sám hối).
Cúng dường Ganachakra. Một nghi lễ cúng dường tantric.
Gandhava. (Càn Thát Bà), Các tiên nữ hay các nhạc công của cõi trời.
Garuda. Kim Xí Điểu, một loại chim thần thoại, hoàn toàn trưởng thành khi mới nở và có năng lực phi thường.
Đại Viên Mãn (Tạng, rDzogs chen). Giáo lý cao nhất của phái Nyingma Phật giáo Tây Tạng, bao gồm ba bộ hướng dẫn được biết như Bộ Tâm, Bộ Mở Rộng và Bộ Hướng dẫn Thiết thực.
Guru yoga. Thực hành thiền định trong đó hành giả tự mình hiến dâng đến vị thầy tâm linh như cùng bản tánh với tất cả chư Phật.
Lắng nghe, suy nghĩthiền định. (Văn, Tư, Tu) Ba giai đoạn thông thường của thực hành đạo Phật, mỗi thứ thành công làm phát sinh một hiểu biếttrí tuệ ở cấp sâu hơn.
Hinayana. Tiểu Thừa, cái “nhỏ hơn” hay “cá nhân”, thừa của lý thuyếtthực hành Phật giáo, chủ yếu nhắm đến mục tiêu cuối cùnggiải thoát chính hành giả khỏi vòng sinh tử.
Kinh mạch kati pha lê rỗng. Kinh mạch của trí tuệ bổn nguyên định vị trong ngực của tất cả chúng sanh.
Sự không đồng nhất. Không có tự tánh vốn sẵn, hoặc vật chất. Điều này có hai loại, không đồng nhất của cá nhân và không đồng nhất của hiện tượng, ám chỉ việc thiếu bản chất tự-hiện hữu của con người và của hiện tượng khác theo thứ tự định sẵn.
Jnayakaya. Cũng được biết như Svabhavakaya, theo diễn dịch phổ biến của Nyingma là ám chỉ đến tính bất khả phân của Nirmanakaya, Sambhogakaya và Dharmakaya (Hóa Thân, Báo ThânPháp Thân).
Kriya. Theo sự phân loại của Nyingma, là bộ căn bản nhất của ba bộ ngoại tantra, hai bộ kia là Upaya và yoga.
Lama (Phạn, guru). Vị thầy tâm linh hoặc bất cứ vị tổ tâm linh nào được tôn kính.
Giai đoạn Nhảy-vọt (Tạng, thod rgal ba). Thứ hai của hai giai đoạn trong thực hành Đại Viên Mãn, nhắm đến việc sinh ra nhanh chóng sự hiện diện tự phát, đầy đủ của Phật tánh chính hành giả.
Mara. Ma vương hoặc ảnh hưởng ma quỷ tạo chướng ngại cho sự chín muồi tâm linh. Bản tánh thực tế của “những ma quỷ” như vậy là chính tâm thức phiền não của con người, như tham luyến, sân hậnrối loạn, mặc dù chúng cũng có thể xuất hiện ở bên ngoài.
Mahayana. Đại Thừa, cái “to lớn” hay “phổ quát” thừa của lý thuyếtthực hành Phật giáo, hướng đến việc đạt được Tâm linh Tỉnh thức viên mãn vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
Mandala. 1) Một biểu tượng, biểu tượng đại diện của vị bổn tôn đã chọn với cung điện để trụ và môi trường chung quanh, được quán tưởng bởi hành giả để thăng hoa cảm giác của họ về nhận dạng cá nhânkinh nghiệm của thân, tâm và chung quanh họ. 2) Một biểu hiện, biểu tượng đại diện của thế gian cùng với tất cả sự rộng lớn của một vị vua thế gian, cúng dường đến các đối tượng quy y của hành giả.
Mantradhara (Tạng, sngags ‘chang) nghĩa đen là “người duy trì mantra”, người đã tinh thông khắp các thực hành tantra của đạo Phật.
Núi Meru. Núi Tu Di, ngọn núi thần thoại cao vượt nhất ở trung tâm biểu tượng hóa của thế giới chúng ta, được bao quanh bởi bốn châu lục.
Tự-tâm (Tạng, sems nyid). Nghĩa đen, “sự tỉnh thức,” đây là bản tánh cốt tủy của tâm, đồng nhất với Phật tánh của hành giả.
Dòng-tâm thức (Tạng, rgyud). Tâm thức tương tục của một cá nhân, hiện lên như việc đang xảy ra, luôn thay đổi bất thường suốt quá trình của một kiếp sống và từ kiếp này sang kiếp tới.
Mudra. Thủ ấn, nghĩa đen, “ấn”, đó là biểu tượng tư thế hay chuyển động, thường của hai tay, được thực hành trong thiền định hay nghi lễ thực hành. 2) một phối ngẫu cùng với hành giả thực hành trong giai đoạn nâng cao của thiền định tantric.
Chín yana. Chín “thừa – xe” của thực hành tâm linh, theo sự phân loại của phái Nyingma bao gồm Srvakayana (Thanh Văn Thừa), Pratyekabuddayana (Độc Giác PhậtDuyên Giác Thừa), Bodhisattvayana (Bồ Tát Thừa), Kriya, Upaya, Yoga, Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga.
Nirmanakaya. Hóa Thân, có thể sử dụng hơn của hai Rupakaya (Sắc Thân), hay “Thân Hóa Hiện” của một vị Phật (vị khác của Sambhogakaya), biểu hiện trong mọi cách để dẫn dắt chúng sanh đến giải thoáttâm linh tỉnh thức.
Phi-khách quan. Không xuất hiện như một đối tượng trong phạm vi thói quen, cụ thể hóa cấu trúc chủ thể/đối tượng của tri giác và khái niệm nhận biết; không có tự tánh như một đối tượng.
Paramitayana. Nghĩa đen, “Thừa của sự Hoàn Thiện,” ám chỉ Sáu Hoàn Thiện của bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ, hình thành cấu trúc của bồ tát đạo của cuộc sống và con đường đến Tâm linh Tỉnh thức; giống với Bodhisattvayana.
Parinirvana. Giải thoát cao nhất của một vị Phật, được nói là xảy ra sau khi chết.
Pranayama. Một hệ thống kỹ thuật thiền định để kiểm soát hơi thở như phương tiện điều chỉnh năng lượng sự sống trong thân, lần lượt ảnh hưởng đến trạng thái tâm thức của hành giả.
Pratyekabuddha. Độc Giác Phật, người đạt được giải thoát khỏi vòng sinh tử một mình, không dựa trực tiếp vào một vị thầy.
Preta. Ngạ quỷ, tinh linh của sáu bộ chúng sanh trong vòng sinh tử, được đặc tính hóa với sự đói, khát và thèm muốn mãnh liệt.
Lỗ mở preta. Lỗ mở trong vùng bộ phận sinh dục, qua đó ý thức của một người xuất ra khỏi cơ thể vào lúc chết nếu người đó sắp nhận tái sanh như một ngạ quỷ.
Rsi. Một vị tổ thành tựu cao trong thực hành thiền định.
Rakta. Dịch tinh chất đỏ nhận được từ người mẹ, thường định vị ở dưới rốn, nhưng lại đi lên khi người ta chết và trong giai đoạn nhập định sâu.
Bodhicitta trắng và đỏ. Hai loại dịch tinh chất, hay “giọt,” thường định vị ở đỉnh đầu và dưới rốn một cách tương ứng, rồi hội tụ tại ngực trong tiến trình cận tử và trong nhập định sâu.
Rupakaya. “Sắc Thân” của một vị Phật, gồm Báo ThânHóa Thân, đối tác với Pháp Thân.
Samadhi. Sự thiền định tập trung đưa đến trình độ khác thường của sự chú ý ổn định và trong sáng.
Samaya. Giới nguyện tantric đã thọ khi tiếp nhận quán đảnh tantric, hình thành nền tảng cho thực hành của Vajrayana.
Sanbhogakaya. Báo Thân, thân vi tế hơn của hai loại Rupakaya, hay “thân hóa hiện” của một vị Phật, xuất hiện chỉ với hành giả cao cấp hơn.
Sangha. Tăng Đoàn, nói rộng ra là cộng đồng các hành giả của Giáo Pháp hay đặc biệt hơn là cộng đồng của các tăng, ni đã thọ cụ túc giới, hoặc cộng đồng của chư bồ tát.
Siddha. Thành tựu giả, một người đã thành tựu một hay nhiều siddhi thông thường hay phi thường.
Siddhi. Một khả năng siêu nhiên, trong đó có một số của thế gian, bao gồm khả năng đi trên nước, bay trong bầu trời v.v... còn cái khác là xuất thế gian là sự thành tựu của Tâm linh Tỉnh thức viên mãn.
Sáu hoàn thiện. Sự hoàn thiện của bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ, cung cấp cấu trúc của bồ tát đạo đến sự tỉnh thức.
Tâm linh Tỉnh thức. Về mặt chân lý tương đối, là khao khát đạt được Tâm linh Tỉnh thức viên mãn vì lợi ích của tất cả chúng sanh; và về mặt chân lý tuyệt đối là sự nhận biết của bản tánh tối thượng của thực tại.
Sravaka. Nghĩa đen “người nghe,” ám chỉ đệ tử gián tiếp hay trực tiếp của Đức Phật, dấn thân trong thực hành của đạo Phật để đạt giải thoát cá nhân khỏi vòng sinh tử.
Stupa. Tháp, nơi để thánh tích chứa các đồ vật linh thiêng như những gì còn lại của một bậc giác ngộ cao; một nơi để thánh tích như vậy cũng được xem là biểu tượng tiêu biểu cho tâm Đức Phật.
Tantra. Con đường bí mật của Phật giáo, đưa đến việc “nhận kết quả như con đường,” có nghĩa hành giả tưởng tượng hành động theo cách cư xử của thân, khẩu và ý của một vị Phật như một phương tiện để đạt được Tâm linh Tỉnh thức; một luận thư trình bày lý thuyếtthực hành của Vajrayana (Kim Cương Thừa).
Tathagata. Như Lai, một tính ngữ của Đức Phật, nghĩa đen “Đấng Như Lai,” bậc đã giác ngộ chân lý tối thượng.
Terma. Kho tàng của hướng dẫn tâm linh, có hai loại chính: kho tàng đất; được chôn dấu trong đất, và kho tàng tâm được chôn dấu trong tâm thức của vị tổ và được phát hiện vào thời điểm thích hợphiển lộ cho nhân loại.
Thangka. Tranh cuộn Tây Tạng, hường mô tả một hay nhiều bổn tôn hoặc mandala.
Ba hiện thân. Dharmakaya, Sambhogakaya và Nirmanakaya.
Ba độc. Tham luyến, sân hậnrối loạn, là ba phiền não nền tảng của tâm.
Ba yana. Hinayana, Mahayana và Vajrayana.
Nguồn Giáo Pháp ba-góc. Sự quán tưởng ánh sáng tứ diện ở dưới rốn trong các thiền định tantric nào đó.
Torma. Một nghi lễ cúng dường, thường làm bằng bột lúa mạch nướng trong dạnh hình tròn được dâng cúng trong nghi lễ tantric.
Tulku. Hóa thân của một người trong đời trước hoặc các kiếp trước đã hoàn toàn đạt được sự chín muồi tâm linh cao độ.
Upaya. Bộ giữa của ngoại tantra theo phạm trù hóa của phái Nyingma.
Vajra. Một quyền trượng được sử dụng trong nghi lễ tantric, biểu tượng hóa phương tiện thiện xảo, lòng bi, và cực lạc bất biến.
Vajrayana. Thừa cao nhất của ba yana, hay thừa tâm linh, đã chiếm ưu thế trong Phật giáo Tây Tạng.
Huynh đệ vajra. Nam và nữ cùng nhận quán đảnh tantric, do đó được gồm chung là “gia đình” tantric.
Đấng chiến thắng. Một tên khác của chư Phật, chỉ ra sự chiến thắng mọi loại phiền não và che ám tâm thức.
Vidyadhara. Nghĩa đen “người nắm giữ trí tuệ,” (Trì Minh) ám chỉ vị tổ tantric đã thành tựu cao.
Vinaya. Luật tạng. Kỷ luật đạo đức, đặc biệt cho tăng và ni Phật giáo.
Yaksa. Một bộ bán thiên, hoặc ma quỷ thường ở những nơi đi qua núi và thỉnh thoảng gây hại cho người sống trong vùng của họ nếu họ không được khuyên giải.
Yana. Thừa tâm linh trong Phật giáo, mang hành giả đến bờ bên kia của giải thoátTâm linh Tỉnh thức.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21720)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
(Xem: 20418)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22317)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18757)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27012)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18718)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19937)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38062)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20143)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28318)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46318)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15450)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65660)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13727)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18631)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15538)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14566)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18728)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12628)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17655)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25476)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38717)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17698)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11246)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18594)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17411)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13207)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13312)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17534)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24299)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12374)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13800)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12993)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12883)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14162)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14620)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21101)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22621)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29976)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13867)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18236)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17051)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12621)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30723)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22795)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14642)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13001)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12738)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12510)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13059)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16307)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15206)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23849)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16181)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 28990)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20275)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15557)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37240)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45029)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36893)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant