Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cư Sĩ Niệm Phật - Động Hay Tịnh?

23 Tháng Tám 202017:00(Xem: 4721)
Cư Sĩ Niệm Phật - Động Hay Tịnh?

CƯ SĨ NIỆM PHẬT- ĐỘNG HAY TỊNH?

(NHẤT TU THỊ, NHỊ TU SƠN!)

 

Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật

Quả thật ở giữa chốn thế gian lao xao này có quá nhiều động loạn. Mở mắt ra là ta gặp ngay “Lục Trần” chào đón: 

* Mắt ta sẽ thấy ngay: nhà cửa, đền đài, dinh thự nguy nga hay những mái nhà xiêu vẹo, những ngôi nhà nhỏ bé đơn xơ, hay những túp lều ọp ẹp không che đủ nắng mưa; xe cộ du lịch đắt tiền sang trọng hay xe tải chở hàng từ loại nho nhỏ cho đến loại to đùng; xe mô-tô oai phong khí phách hay xe gắn máy khiêm tốn giản dị; con người thì cũng đủ hạng từ hèn hạ-nghèo khổ cho đến quí phái-giàu sang-sung sướng; từ sơ sinh-bé bỏng cho đến giả cả tóc bạc-da nhăn-lưng còng, … 

* Tai ta cũng sẽ nghe đủ loại tiếng động, âm thanh: Tiếng nhạc du dương, thánh thoát êm tai làm dịu mát tâm hồn hay là những loại âm thanh quảng cáo đinh tai-nhức óc, những bài nhạc kích động làm bể tim người nghe. Tiếng động thì cũng đủ loại luôn hiện hữu chung quanh ta, vang lên ầm ỉ bên tai chúng ta một cách thoải mái-vô điều kiện! Tai của chúng ta cũng sẽ được nghe lời khen-chê; nịnh hót, hoặc bợ đỡ-dèm xiểm, hại người; hoặc lời khích lệ, an ủi, khuyên lơn, thức tỉnh-khai ngộ; hay lời chê bai, chà đạp, bày chuyện xấu xa gian hiểm hại người.

* Mũi ta cũng sẽ được ngửi mùi một cách bị cưỡng bức, không được chọn lọc những mùi thơm tho-dễ chịu; hay là mùi tanh, hôi, thối-khó chịu. (Ở các nước kém văn minh, môi trường không sạch sẽ)

* Lưỡi ta mỗi ngày cũng sẽ được tiếp xúc những vị chua, cay, mặn, lạt, đắng, chát, ngọt, bùi, … có vị làm ta khoái khẩu muốn ăn, uống thưởng thức hoài không biết chán; cũng có vị khi chạm đến lưỡi làm ta cảm thấy khó chịu ngay lập tức, cảm thấy bực bội, có khi nổi sân lên đùng đùng.

* Thân ta thì sẽ xúc chạm đến những vật mịn màng, trơn láng, êm tay, êm người làm ta khoan khoái, dễ chịu. Rồi ta cũng có thể sẽ gặp những vật thô cứng, xù xì, bén nhọn, gai góc, … làm ta khó chịu, đau đớn, trầy xước, thương tích, …

* Ý của ta cũng sẽ nhảy nhót lăng xăng suốt ngày, suốt đêm (không hề lười mỏi!). Khi thì vui vẻ, hân hoan, phấn khởi, nhiệt tình, chân thật, hòa nhã, … với những suy nghĩ, những công việc, hoặc với những ai đó. Khi thì buồn bực, cau có, thụ động, thiếu nhiệt tình, giả dối, khiếm nhã, … với cả trong suy nghĩ của chính mình, với công việc, hoặc với một số người quanh ta.

Đó là cái “động” chung quanh chúng ta và rất có thể một số người muốn chạy trốn, bỏ các động này để tìm một thế giới êm đềm, tĩnh lặng cho riêng mình chăng? Rất có thể lắm!

 

Nhưng cũng có loại người không thể chịu được sự vắng vẻ, tĩnh lặng, không ồn náo. Họ sẽ cảm thấy buồn chán, thấy như mình bị bỏ rơi, thấy như mình trở nên vô dụng. Cũng có khi sự vắng lặng, êm đềm, tịch mịch gây cho một số người có cảm giác sợ hãi, hoặc rơi vào bệnh trầm cảm.

 

CƯ SĨ PHÙ HỢP VỚI ĐỘNG HAY TỊNH?

 

Rõ ràngthế giới quanh ta luôn luôn động dù ta có muốn hay không! Như thế thì ta có nên vận dụng cách nào để tránh né hoặc làm tiêu đi những động loạn chung quanh ta chăng?

Tôi nhớ trong dân gian có câu: “Nhất tu thị, nhị tu sơn”. Vậy là qua câu nói ngắn gọn này, ông bà ta xưa kia rõ ràng đã trải qua cuộc sống muôn màu muôn vẻ và đúc kết kinh nghiệm quý báu bằng suốt cuộc đời con người, bằng sự nhận thức của biết bao thế hệ để truyền cho hậu thế về bản lĩnh sống và cách áp dụng Phật pháp vào đời sống

 

Thông thường thì chúng ta bắt gặp cách suy nghĩ rất đơn giản, đó là: Ở núi thì vắng vẻ, thanh tịnh, êm đềm, tịch mịch cho nên rất dễ lắng tâm tu học, hành trì Phật pháp. Còn ở chợ thì quanh năm suốt tháng ồn ào, động loạn; tranh danh-đoạt lợi; mê đắm vật chất xa hoa; lăn lộn theo những ham muốn thú vui trần tục; suốt ngày chỉ loay hoay trong vòng thị phi: Khen-Chê; Phải-Quấy; Được-Mất; Hơn-Thua, Thắng-Bại; Trắng-Đen; Vinh-Nhục; Giàu-Nghèo; Sang-Hèn; Già-Trẻ; Khôn-Dại; …Cho nên chúng ta nghĩ ra một phép so sánh trực quan, đó là: TU Ở CHỢ THÌ KHÓ HƠN LÊN NÚI ĐỂ TU!

 

Nếu suy nghĩ như vậy có đúng hay không? Đúng! Nhưng tại sao lại cho rằng đúng? Mà đúng ở mức độ nào? Và cái đúng này có ích gì cho đời tu của chúng ta hay không? Và ông bà ta xưa kia đã dựa vào đâu để khẳng định “Nhất tu thị, nhị tu sơn”. Và câu nói này có ý nghĩa thế nào, áp dụng như thế nào vào sự hành trì Phật pháp trong cuộc sống hằng ngày của người cư sĩ.

Thật ra ông bà ta xưa kia hiểu rất thấu đáo, sâu nhiệm về nghĩa lý ẩn tàng trong Phật pháp, và các vị đã khéo léo chuyển ngữ lại theo cách nhìn trực quan để người đời dễ hiểu hơn và có thể ứng dụng thực hành Phật pháp ngay trong cuộc sống bận rộn này. Vậy là câu nói nào trong Phật pháp là câu nền tảng? Trong “Pháp Bảo Đàn kinh” bài kệ tụng phần sau của phẩm Bát nhã Đức Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác, ly thê mích Bồ Đề, kháp như cầu thố giác”. Nghĩa là: Phật pháp nơi thế gian, Không lìa thế gian (để tìm) giác, Lìa thế tìm Bồ Đề, Giống như tìm sừng thỏ. Tạ ơn chư Phật luôn từ bi gia hộ, thương yêu chúng sanh. Lời dạy dỗ của chư Phật thấm nhuần vào lòng dân tộc Việt Nam chúng con. Ông bà xưa của chúng con đã luôn biết áp dụng, hành trì Phật pháp ngay trong cuộc sống bận rộn hằng ngày. Từ sự giải ngộ sâu sắc, các vị Phật tử ngày xưa đã sống mạnh mẽ, trung kiên ngay trong cuộc đời! Dù gian nguy, bão tố nhưng những người con Phật vẫn thấm nhuần lời dạy của Phật và luôn sách tấn, hỗ trợ nhau đi trọn con đường tự giác - giác tha. Đến đây, có thể có người nói rằng những lời tôi tán thán vể ông bà, tổ tiên người Việt Nam chúng ta giác ngộ giáo lý Phật Đà sâu sắc, thực hành rốt ráo pháp tu Phật dạy; ấy là xuất phát từ sự chủ quan và tưởng tượng lạc quan thần tượng về dân tộc. Nên xin phép cho tôi được trình bày một vài từ tiếng Việt để minh chứng cho sự phong phú, sâu sắc về ý nghĩa Phật học ẩn tàng trong ngôn ngữ Việt Nam.

 

Trước hết tôi xin thuật một câu chuyện mà một người bạn đạo của tôi hay kể: “Phạm Công Thiện có nói rằng tiếng Việt theo ông là rất khó hiểu. Và đến lúc ông nói điều đó, ông vẫn chưa hiểu được. Đó là từ ‘TỰ NHIÊN’”. Thú thật rằng anh bạn tôi nhắc đến chuyện đó nhiều lần, thì tôi chỉ cười lấy lệ chứ thật tình tôi không hiểu điều ông Phạm Công Thiện nói là gi???!!! Rồi đến một ngày (lâu lắm), tôi hốt nhiên bừng tỉnh. À thì ra! Quả đúng “Tự Nhiên” là từ vô cùng khó hiểu trong tiếng Việt. Quý vị, thấy từ này “dễ hiểu” hay “khó hiểu”. theo tôi thì ông Phạm Công Thiện bày tỏ rất đúng, rất chân thật. Bởi vì: …..Làm sao mà một hành giả trên bước đường học Phật, đang lần mò từng bước trên sự hành trì Phật pháp, chưa nhận rõ chân tướng chư pháp đúng-sai, chân-giả, … thì làm sao có thể hiểu được sự “TỰ TẠI - AN NHIÊN”. Đây là một từ ghép vô cùng hay, vô cùng thâm thúy, … và quả thậtvô cùng “KHÓ HIỂU”.

 

Từ thứ hai thì tôi phát hiện trong một giây phút bất chợt trong một ngày nọ. Tôi bỗng dưng nghĩ đến từ “TẾ NHỊ”. (Từ này tiếng Việt diễn tả tính chất của một người lịch sự, khôn khéo, nội tâm thấu đáo-sâu sắc. Quí vị có đồng ý như vậy không?). Ngay giây phút ấy, như một tia chớp lóe lên trong trí tôi và tôi hốt nhiên chợt hiểu ý nghĩa đặc biệt, quan trọng của từ này. Tổ tiên chúng ta quả vô cùng “tế nhị” khi sáng tạo từ này. Tôi xin phép được phân tích: NHỊ có nghĩa là hai; TẾ có nghĩa tinh tế, vi tế. Như vậy, người tế nhị là người thấu được sự vi tế hai đầu đối đãi của chư pháp. Đó là chỗ tôi cảm nghĩ về từ “Tế nhị” ngày xưa; nhưng mới đây tôi được cư sĩ Nguyễn Minh Tiến phân tích chữ “Tế Nhị” theo gốc Hán tự thì nghĩa của nó càng rành mạch, chính xác hơn: 

“Tế nhị (細膩), trong đó chữ tế là nhỏ nhặt, tinh vi đúng rồi, nhưng chữ nhị không phải là hai, mà chữ nhị này nghĩa là trơn láng, trơn nhẵn”. (Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến)

Như vậy là chỗ thấy của tôi trước đây khi nghĩ từ “Tế nhị” là không kẹt hai đầu đối đãi; nhưng thật ra là do tâm tôi bị kẹt ở hai đầu nên đã gán ghép nghĩa cho từ như thế. A Di Đà Phật! Nay nhờ cư sĩ Nguyễn Minh Tiến phân tích chân tướng của từ này, tôi càng yêu quí biết bao sự vun bồi tiếng Việt của tổ tiên. Ông bà ta xưa kia muốn con cháu người Việt sống với tâm hồn thánh khiết, thiện lành trong mọi điều tinh tế, nhỏ nhiệm nhất. Nếu  được  như thế thì thì xã hội, cộng đồng sẽ an lành, hạnh phúc biết bao. Và đó cũng là nhân thù thắng cho những ai thiết tha, thành khẩn tìm cầu, nghiên cứu, và nỗ lực thực hành Phật pháp

Người giữ tâm hồn mình luôn an bình - thanh tịnh (trơn láng, phẳng phiu) dầu việc nhỏ nhiệm, vi tế nhất (vọng tưởng) cũng không để gợn lên tí nào gai góc, xù xì, đó là người “tế nhị”. Ôi, tiếng Việt thật là thâm thúy - diệu kỳ! Thật tổ tiên người Việt chúng ta sâu sắc và chu đáo biết bao!

Như thế, ta có thể vô cùng tự hào về sự thâm trầm-tao nhã nhưng vô cùng phong phú và sâu sắc của tiếng Việt; cũng như không thể nào không tán thán về trình độ am tường Phật pháp của tổ tiên người Việt chúng ta. Các vị đã sáng tạo các từ ngữ để diễn tả sự thâm sâu của giáo pháp Đại thừaTối Thượng Thừa. Điều này minh chứng rằng tổ tiên chúng ta tinh thông Phật pháp và khéo léo ứng dụng, hành trì Phật pháp ngay trong cuộc đời, ngay trong cuộc sống bận rộn này mà tu, mà sống với Tự Tánh Di Đà thanh tịnh, sáng suốt.

 

Tôi nhớ hồi tôi còn nhỏ nghe má tôi sử dụng một từ mà bà hay dùng để “mắng yêu”, nghe rất ngộ nghỉnh. Nhưng sau này lớn lên, nghiên cứu và hiểu Phật pháp phần nào thì tôi rất ngạc nhiên về tính chất sâu sắc, hóm hỉnh của từ này. Đó chính là từ “GIẢ NGỘ”. Vâng chính hồi xưa má tôi hay mắng: Á, cái thằng “giả ngộ” này! Giờ nhớ lại, tôi thấy thật lý thú! Như vậy là hồi xưatình trạng này: “không tu mà nói là tu”; “không ngộ mà nói rằng ngộ”. Từ này được lưu truyền phổ biến trong dân gian. Đây cũng là một điều xác chứng rằng Phật học gắn liền với mạch sống của dân tộc Việt Nam. Phật pháp hầu như gắn liền cùng sinh hoạt của toàn dân. 

 

GIỜ CHÚNG TA CÙNG TRAO ĐỔI, BẮT ĐẦU TỪ VIỆC TU CÙNG SỰ “ĐỘNG” CỦA THẾ GIAN NHÉ?

Đức Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng: “Phật pháp tại thế gian, Bất ly thế gian giác, Ly thế mích Bồ Đề, Cáp như tầm thố giác”. Ta vâng lời dạy của Lục Tổ: ta chỉ tìm Phật pháp tại thế gian này, vì lìa thế gian mà tìm Phật pháp chẳng khác nào đi tìm sừng thỏ. Như vậy, kể từ giờ trở đi ta sẽ không sợ sự “động loạn” của thế gian nữa bởi vì ta đang tìm Phật pháp nơi chính sự “động loạn” của thế gian này. Nhưng ta sẽ hành trì như thế nào? Ta sẽ …

Bắt đầu một ngày mới ngay khi vừa mở mắt thức giấc, ta mỉm cười với lòng thành kính tạ ơn thập phương chư Phật, Tổ, chư vị Tông sư, ân sư, … đã ban mọi ân lành cho ta và khởi niệm hồng danh “Lục Tự Di Đà”. Kính chào cha hoặc mẹ ta và niệm hồng danh A Di đà Phật. Chào vợ (hoặc chồng) ta và niệm A Di Đà Phật. Chào các con và niệm A Di Đà Phật. Đi đánh răng, súc miệng luôn niệm hồng danh A Di Đà Phật. Giả sử định lau mặt, nhưng khăn bị rớt; thay vì bực bội, ta hãy mỉm cười, cúi xuống nhặt chiếc khăn mặt lên trong khi niệm A Di Đà Phật. Bước ra nhà trước, ta nghe trước nhà ta có tiếng người gây lộn, cãi nhau ỏm tỏi, họ đang dùng lời lẽ tục tĩu chửi nhau rất ồn ào. Thay vì trước kia ta rất bực tức, mở cửa ra và quát họ đi chỗ khác ngay lập tức. Nhưng bây giờ, biết tu rồi ta làm thinh bỏ qua như không nghe gì; chỉ một lòng niệm Phật và lo việc của ta. Thay đồ xong dẫn xe ra để đi làm mới chợt nhớ ra hôm qua đi làm về tới nhà thì xe vừa hết xăng; nhưng vì trời mưa nên không đi đổ xăng. Giờ nhận ra, thay vì trước kia ta nổi sân lên; nhưng giờ mỉm cười: “Lỗi tại ta!”, miệng niệm Phật và dẫn xe đi đến trạm xăng để đổ xăng cho chiếc xe; lòng cảm thấy an vui vì câu Phật hiệu luôn hiện hữu cùng ta trên đường. Trên đường đi làm, nhiều xe chạy không lịch sự lấn đường, ép ngay bánh trước làm ta suýt bị ngã xe (xe gắn máy mà bị ép bánh trước rất nguy hiểm). Dầu rất bực bội, phiền lòng nhưng ta vẫn cố bỏ qua vì Phật không bao giờ muốn chúng ta nổi sân. Thật là khó làm! Nhưng cố gắng làm thì thần lực của Phật sẽ gia hộ cho chúng ta vượt qua. A! ta làm được rồi! Rồi đến lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, … ta sẽ làm được, ngày càng dễ dàng hơn, vui vẻ hơn vì chư Phật luôn gia hộ cho chúng ta khi làm được việc tốt mỗi ngày. Rồi đến cuối ngày, khi ra về thì trời mưa thật lớn. Chắc chắn rằng mình sẽ ướt loi ngoi mặc dầuáo mưa. Nhưng nếu không đội mưa để về thì nếu mưa ngày càng to và mưa dai nữa thì đường sẽ ngập lụt mất thôi. Chán quá đi mất! Nhưng đó là chuyện ngày xưa, khi gặp hoàn cảnh như vậy thì ta sẽ lo cuống cuồng, nghĩ biết bao nhiêu chuyện. Rồi lòng cảm thấy bất an. Rồi lòng cảm thấy phiền muộn. Thậm chí còn mắng trời, trách đất. Rồi nhùng nhằng không quyết định được là sẽ đi hay ở lại đụt mưa tiếp. Lằm bằm, rồi lằm bằm; than thở rồi thở than; nhăn mày nhăn mặt rồi chắt lưỡi hít hà. Ôi phiền não cứ nối tiếp phiền não! Vọng tưởng cứ như chuỗi xích sắt quay tròn liên tục, liên tục không dừng không nghỉ. Giờ mới thấy được thế nào là chân tướng chúng sanh si mê, vọng tưởng. Ôi những làn sóng vô minh, phiền não nhấn chìm ta xuống bễ thẳm sinh tử, luân hồi

Nhưng giờ ta có lời dạy của Phật, Tổ rồi. Đấy chính là thế gian hư ảo! Ta sẽ tìm Phật pháp ngay tại vọng tưởng điên đảo ấy. Nam Mô A Di Đà Phật! Câu Phật hiệu vang lên như ánh bình minh rực rỡ xua tan bóng đêm tăm tối, hắc ám. Nam Mô A Di Đà Phật! Phật ban cho ta nụ cười, niềm an lạc diệu kỳ hiện hữu cùng với thần lực A Di Đà Phật trong thân ta, trong tâm ta, trong trí ta. Ôi, con vô cùng biết ơn Phật, Tổ luôn từ bi gia hộ cho chúng con có thể nếm được pháp vị ngay tại thế gian này, ngay chính nơi vọng tưởng điên đảo nếu chúng con chỉ một lòng nhớ Phật A Di Đà.

 

GIỜ CHÚNG TA HÃY TRAO ĐỔI VỀ CẢNH “TỊNH” TRONG PHÁP TRÌ DANH NIỆM PHẬT. Có phải trong cảnh giới vắng lặng, thanh tịnh thì hành giả dễ hành trì pháp môn niệm Phật không? Nghe qua thì có vẻ là như vậy. Rõ ràng là khung cảnh vắng lặng, yên tịnh thì ta dễ tập trung tư tưởng vào việc thực hiện một công việc nào đó. Giả dụ như quý vị tập đàn, đánh bóng bàn, lau nhà, lau xe, lau kiếng, làm bài tập toán, làm bài luận văn, làm bếp, giặt đồ, … thì mọi việc thấy tốt phải không? Nhưng ngẫm nghĩ lại thì những công việc đó thật ra là “Tịnh trong Động”. Giờ chúng ta sẽ tìm một việc “TỊNH” hơn hẳn xem sao nhé?

 

Ta thử chọn thời điểm cuối cùng trong ngày, xong hết cả mọi việc cần làm trong ngày rồi. Giờ, ta sẽ dành một khoảng thời gian trong khung cảnh vắng lặng, yên tỉnh để hành trì niệm hồng danh “Lục Tự Di Đà”. Ta tập trung tâm trí hoàn toàn vào câu Phật hiệu. Ôi, thật là tốt đẹp. Sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” nghe thật ngọt ngào, khoan thai; tuy mềm mại nhưng thật tha thiết, ẩn chứa nỗi lòng thành khẩn, tôn kínhxưng tán hồng danh A Di Đà Phật. Được hai phút, rồi năm phút, rồi mười phút, rồi mười lăm phút, … bỗng dưng đang niệm Phật ta lại sực nhớ là ngày mai có một người bạn từ phương xa hẹn về thăm gia đình ta. Ô là la! Vậy mà suýt nữa là ta quên rồi. Chết chữa! Vậy là mai phải tìm một cớ nào để xin phép nghỉ làm một ngày; vì anh bạn này lâu lắm mới có dịp về thăm ta. Nhưng vợ ta không biết có sắp xếp thời gian rảnh để tiếp vợ của người bạn được không? Vì cô ấy cũng đi làm mà. Tuần này công việc bề bộn quá, nhiều việc lo đến bù đầu bù cổ thôi! May là đến giờ chót này mình lại nhớ được cuộc hẹn. Chứ không thì không biết ra sao nữa! Ôi chà, lát nữa mình sẽ nói cùng bà xã. Chắc lại nghe bã cằn nhằn quá. Thôi kệ, chứ biết làm sao? Rồi sau khi bã đã vui vui thì mình sẽ bàn với bã làm món nào đãi khách nữa chớ. Mình đến nhà người ta tiếp đãi ân cần, giờ mà sơ sót thì kỳ lắm, và có lỗi với họ nữa! Ôi, chết rồi! Nãy giờ chỉ lo chuyện khách ngày mai mà quên bẳng đi việc niệm Phật rồi. Thôi giờ cứ niệm cho xong. Làm nhanh rồi còn bàn công việc với bã nữa. Hôm khác thì chúng ta lại có việc khác. Có khi việc này chưa xong thì việc khác đã xuất hiện trong tâm trí chúng ta rồi. Ta rán bỏ qua việc này thì việc nọ lại đến. Như vậy xét cho cùng thì trong cảnh tịnh, mọi vọng tưởng điên đảo càng làm việc ráo riết hơn cả trong cảnh động nữa. Nếu vậy thì chúng ta có cách nào khắc phục, có cách nào đối trị vọng tưởng không? 

 

Vâng quả là có cách. Rất cám ơn là Ông bà chúng ta xưa kia đã tìm mọi phương tiện để bỗ trợ cho phương cách trì danh niệm Phật. Nếu “TỊNH” làm duyên cho vọng niệm sanh khởi thì ta sẽ biến thế tịch tịnh này thành ra “Động trong Tịnh” hay “Tịnh trong Động” bằng cách rất đơn giản ta là sẽ lần chuỗi trong khi trì danh niệm Phật. Thì trong khi tâm hướng vê Phật, miệng niệm “Lục Tự Di Đà”, tay lần từng hạt chuỗi: vọng tưởng điên đảo nếu móng khởi, ta sẽ niêm chúng dính vào từng hạt chuỗi và như thế chúng sẽ không vùng vẫy mà làm tâm ta loạn động, bất an nữa.

Nhưng nếu giả dụ như dịp nào đó phải đi xa nhà, và khi ấy lại không có chuỗi bên cạnh thì làm thế nào? Nếu quen dùng chuỗi làm neo để cột trói vọng tưởng, mà không có chuỗi thì khó mà an tâm cho được!!! Không sao! Tôi đề nghị quí vị sử dụng ngay chính phương tiện hữu dụng mà chúng ta sẽ không bao giờ quên, không bao giờ thiếu vắng; phương tiện này luôn hiện hữu để giúp đỡ chúng ta. ĐÓ LÀ:

Quí vị sẽ lấy ngón tay Cái của mình tì ngay đầu ngón tay Út và niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, xong quí vị sẽ kéo ngón Cái qua và tì vào đầu ngón Đeo nhẫn và niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, kế tiếp lại kéo ngón Cái qua ngón Giữa và niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, rồi thì kéo tiếp ngón Cái qua đầu ngón Trỏ và niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Xong một lượt quí vị có thể trở lại tư thế ban đầu và cứ tiếp tục, tiếp tục, tiếp tục.

Hoặc giả quí vị có thể niệm Phật với bàn tay trái một lần, rồi chuyển qua niệm Phật với bàn tay phải. Và rồi cứ tiếp tục niệm Phật với sự luân phiên trợ giúp của hai bàn tay, thì quí vị vừa có thể cột trói mọi vọng tưởng loạn động mà còn có thể khống chế được con “ma buồn ngủ” nữa đấy!

 

Tạ ơn Phật, Tổ đã bày mọi phương tiện giúp chúng con vượt thoát sông mê, bể khổ. Chúng con biết rằng chỉ khi chúng con lập chí dõng mãnh, tinh tấn hành trì niệm “Lục Tự Di Đà” miên mật, ngày đêm luôn nhớ tưởng Đức Từ Phụ thì dầu “Động” hay “Tịnh” chúng con sẽ luôn an lạc trong hồng danh A Di Đà Phật!

 

 

Nam Mô A Di Đà Phật!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

 

Kính ghi,

 

Nguyễn Tấn Phát

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20416)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22317)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18756)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27012)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18718)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19936)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38061)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20142)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28317)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46317)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15445)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65656)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13726)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18631)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15537)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14565)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18725)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12627)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17655)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25475)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38715)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17697)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11246)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18594)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17410)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13206)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13312)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17533)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24298)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12373)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13799)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12993)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12882)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14161)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14620)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21100)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22619)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29975)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13865)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18236)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17051)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12619)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30721)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22794)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14630)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 12999)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12737)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12508)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13056)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16304)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15204)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23844)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16177)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 28986)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20273)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15553)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37230)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45026)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36890)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant