Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Sự Truy Cầu Của Milarepa

08 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10976)
Sự Truy Cầu Của Milarepa

JETSUN MILAREPA
GỬI LẠI TRẦN GIAN
Bản dịch: ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG

SỰ TRUY CẦU CỦA MILAREPA

1

Khi đã gọi tên, ta là người cách biệt;

ta là hiền nhân Tây Tạng;

ta là Milarepa.

Ta nghe ít nhưng an ủi nhiều;

ta suy tư ít nhưng kiên tâm nhiều;

ta ngủ ít nhưng bền bỉ thiền định nhiều;

Biết một sự ta kinh nghiệm tất cả mọi sự;

biết mọi sự ta thấy rõ tất cả là một;

ta có kinh nghiệm về chân thực tại.

Chiếc giường ta hẹp khiến ta co lại dễ dàng;

áo quần mong manh làm thân ta ấm áp;

thức ăn đạm bạc làm bụng ta thỏa mãn.

Ta là mục tiêu của chư đại thiền giả;

ta là nơi họp mặt của những kẻ tín thành;

ta là vòng sinh tửhoại diệt.

Ta không có sự ưu tiên cho bất cứ quốc gia nào:

ta không có quê hương nơi đâu cả;

ta không tích tụ lương thực cho sự sống của ta.

Ta không ham thích vật chất;

ta không phân biệt thức ăn sạch hay không;

ta ít bị khổ đau dằn vặt.

Ta ít dục vọngtự ái;

ta ít bị triền phược hay tà kiến;

ta đã tìm thấy tự do của Niết bàn.

Ta là kẻ an ủi của những người già yếu;

ta là bạn nô đùa của những đứa trẻ thơ;

hiền nhân, ta rong chơi khắp cõi miền vương quốc trần gian.

Ta cầu nguyện thần và người sống chung dễ dãi.

2

Cúi đầu đảnh lễ trước uy lệnh của chư bậc tôn sư.

Ta nhất tâm cầu nguyện được trú nơi ân từ của họ.

Khi các người nhìn ta thì ta là kẻ giải đãi, nhàn nhân;

khi ta tự nhìn ta thì ta là người bận rộn, việc nhiều.

Vì trên cánh đồng bằng của vô cùng bất tác

ta đang tạo dựng, tạo dựng nhiều tháp chánh định;

ta không có thì giờ để tạo xây nhà cửa.

Vì trên triền dốc chân không chân thực

ta đang đập phá, đập phá xích xiềng đau khổ,

ta không có thì giờ để cày bừa ruộng đất gia đình.

Vì trong dòng nhất thể bất sinh,

ta đang khắc phục, khắc phục con quỉ thù: bản ngã,

ta không có thì giờ để khắc phục kẻ thù sân hận.

Vì trong lâu đài thức tâm siêu việt nhị nguyên,

ta đang chờ đợi, chờ đợi kinh nghiệm tâm linh như chờ đợi tân nương,

ta không có thì giờ để tạo lập gia đình.

trong vòng chư Phật của thân ta

ta đang chăm sóc, chăm sóc đứa con trí huệ,

ta không có thì giờ để chăm sóc những đứa con khóc than giả dối.

Vì trong thân này, nơi ngự tọa của trọn niềm hoan hỉ;

ta đang dành dụm, dành dụm lời giáo huấn và sự suy tư quí giá,

ta không có thì giờ để dành dụm của cải thế gian.

Bởi vì trên núi cao của chân lý vô hạn

ta đang canh giữ, canh giữ con ngựa hoang tự tri,

ta không có thì giờ để canh giữ những con cừu.

Bởi vì bên ngoài thịt xương đất sét

ta đang chế tạo, chế tạo chiếc hộp thánh tích diệu kỳ,

ta không có thì giờ để đúc xây thánh tượng.

Bởi vì trên chóp đỉnh trái tim tam giác của ta

ta đang nâng cao, nâng cao ngọn lửa tịnh quang,

ta không có thì giờ để dâng lửa tế thần.

Bởi vì trong điện đền chân không vô sai biệt của miền cực lạc,

trước hình ảnh của thức tâm an tĩnh,

ta đang dâng, đang dâng những tế vật muôn đời,

ta không có thì giờ để làm việc cúng bái thông thường.

Bởi vì nơi phiến tâm khiết bạch

ta đang viết, đang viết những lời vô dục,

ta không có thì giờ để vẽ tranh thần thánh.

Bởi vì trong chiếc sọ chân không

ta đang khuấy động, khuấy động những phiền não độc dược,

ta không có thì giờ để khuấy động lời nịnh hót thánh thần.

Bởi vì trong nơi qui ẩn bí mật của thiện ý

ta đang âu yếm, âu yếm những bạn bè

những hiện thể hữu tình của sáu loại chúng sinh,[1]

ta không có thì giờ để âu yếm thân nhân quyến thuộc.

Bởi vì trước mặt chư sư chư phụ,

ta đang mang nặng, mang nặng những lời khuyên răn,

ta không có thì giờ để sành sỏi những trò giải trí tầm thường.

Bởi vì trong cô tịch của hang động trên núi cao

ta đang hoàn thành, hoàn thành ánh sáng lòng ta,

ta không có thì giờ để lãng quên trong giấc ngủ.

Bởi vì trong chiếc tù-và tam giác của miệng ta;

ta đang hát, đang hát khúc hát tâm linh,

ta không có thì giờ để nói chuyện tầm phào.

3

Cúi đầu đảnh lễ chư sư, chư phụ.

Núi cao không thiên lệch

tu viện của trí huệ ta.

Những kẻ bố thí, nam và nữ của vương quốc

là những người cung cấp thực phẩm trí huệ ta.

Ta nghĩ, ta - bậc hiền nhân sẽ đến cư ngụ

trong các tu viện trên núi cao hoang vắng

Lời khuyên răn mà thầy đã hoan hỉ ban cho,

nếu mang vào sẽ nhẹ hơn lông

nếu cất đi sẽ quí hơn vàng;

nếu thực hành trong âu lo sẽ vững chãi hơn thành trì.

Ta, bậc hiền nhân, là sư tử giữa loài người.

Ba mùa đông rồi ta vui chơi trong rừng thẳm;

ba mùa hạ rồi ta vui chơi trên đỉnh tuyết trắng phau;

ba mùa xuân rồi ta vui chơi trên đồng cỏ cao nguyên;

ba mùa thu rồi ta đã tìm của bố thí bất cứ loại nào.

Lòng ta đã vui với lời khuyên nhủ của thầy ta,

miệng ta đã vui với những khúc hát của hồn ta,

thân ta đã vui với chiếc áo vải xứ Nepal.

Ta đã sống vui, sống vui như thế

Ôi các người, các người có sống vui như thế hay không?

4

Khi năm con cọp hết

và năm con thỏ bắt đầu

vào ngày mùng sáu tháng con chồn kêu,

ta đã chán dần, chán dần sự vật thế gian này,

bởi vì nồng nàn mến yêu cô tịch

ta đã lên tận đỉnh Everest, nơi thánh địa hoang vu.

Rồi trời đất khuyên nhau

gửi gió lốc đi làm thiên sứ.

Gió và nước sục sôi

và mây đen bắc phương cuộn hội;

đôi tinh cầu vô song, mặt trờimặt trăng bị nhốt tù,

hai mươi tám vì tinh tú của chị hằng buộc chặt vào nhau; tám hành tinh bị ném tung vào xiềng xích

và giải ngân hà yếu đuối bị buộc ràng

những vì sao nhỏ đã hoàn toàn bị hơi mù khâm liệm

khi vạn vật bị vùi lấp trong hỗn mang và chín ngày chín đêm tuyết trời băng giá

rơi xuống, rơi xuống đều đặn mười tám lần.

Khi tuyết rơi nhiều

những bông tuyết lớn như những khối lông cừu,

và rơi mênh mang bập bềnh như những đàn chim lông trắng.

Khi tuyết rơi ít

những bông tuyết chỉ nhỏ như những con thoi,

và rơi quay tròn như những con ong;

những bông tuyết nhỏ như những hạt đậu ve hay hạt cải sen,

và rơi quay tròn như những con quay cuộn chỉ.

Tuyết luôn luôn vượt quá độ cao sâu,

trên cao, đỉnh tuyết trắng cao vút trời xanh

và dưới thấp, cây rừng cúi đầu chào đón.

Tuyết trắng mặc áo những ngọn đồi âm u

giá băng đóng ngập sóng mặt hồ

và dòng Tsangpo[2] xanh xanh dẫy dụa dưới lòng sâu.

Trái đất giống như đồng bằng không núi đồi thung lũng,

dĩ nhiên, trong cuộc tuyết rơi vĩ đại như thế

bậc phàm phu đâu nói được lời nào,

đói chết cả các loài gia súc

và nhất là các chú nai tơ không tìm được thức ăn,

những chim trời thiếu thực phẩm,

những chú sóc ngắn đuôi

và những chú chuột đồng trốn chui vào hang ngách;

đôi hàm răng của những con thú bắt mồi cứng nhắc.

Trong những tình cảnh hãi hùng như thế

một định mệnh kỳ lạ đã đến với ta, Milarepa.

Là ba thứ này: bão tuyết tự trời cao,

cơn lốc băng giá mùa đông

và chiếc áo vải mà ta, hiền nhân Mila, mặc;

cùng nhau đua tranh trên đỉnh tuyết trắng ngần.

Tuyết rơi xuống tan thành nước lạnh;

gió mặc dù cuồng liệt cũng tiêu tan,

và chiếc áo vải của ta sáng lên như lửa đỏ.

Sống và chết vật nhau tranh kỷ lục

giáo và gươm mong chiến thắng giao đua.

Thì nơi đó ta đã là kẻ vô địch trong cuộc đua tranh anh dũng

ta sẽ là tấm gương cho những kẻ tín thành

và sẽ là tấm gương cho những kẻ trầm tư,

và nhất là đã chứng tỏ một tuyệt diệu

của chiếc áo vải duy nhất và lửa ấm bên trong.

Vì tất cả nguyên nhân ẩn kín của vô trật tự được quân bình

và từ đây mối xung đột trong ngoài từ xưa được
hòa giải.

Cả hai hơi thở nóng và lạnh

đã đem lại sự kiên cường

và ta đã hoàn toàn khắc phục được con quỉ mặt tuyết

mà nó đã hứa theo lệnh ta từ đó.

Rồi ta đã ra lệnh được trong tĩnh lặng

và không cần tụ tập những đoàn quân thế gian này

hiền nhân là kẻ chiến thắng huy hoàng cuộc xung đột hôm đó.

Vì ta là cháu của ông ta và ta mặc áo da cọp

nên khi ta mặc áo da chồn không ai nói điều gì.

Ta là con của cha ta và ta thuộc dòng giống vô địch:

nên chưa từng chiến bại trước kẻ thù nóng giận nào.

Thuộc dòng họ sư tử là chúa tể sơn lâm:

ta luôn luôn chỉ sống trong tuyết lạnh.

Thế nên sự chuẩn bị của địch thủ ta trở thành vô ích.

Nếu các ngươi chịu vâng lời lão nhân này

giáo lý tu tập nhiếp tâm

từ đây sẽ lan rộng mãi và nhiều thánh nhân sẽ xuất hiện;

và ta - hiền nhân Milarepa - sẽ là người lừng danh nhất

của tất cả những vương quốc trần gian này.

Các ngươi, đệ tử của ta, những kẻ tụ hội nơi này

sẽ tràn đầy tín đức

và lời đồn đãi các ngươi sẽ được bàn tán ra ngoài.

5

Núi Tisé và hồ Mapang (được biết nhiều hơn với danh hiệu núi Kailas và hồ Manasnowar), chân núi nguyên là thánh địa của Bon Milarepa, tuy nhiên chúng ta biết rằng bậc thầy của các tu sĩ Bon huyền bí, từ đó đã giáo hóa họ và lấy danh hiệu Phật giáo. Cho tới ngày nay, nơi đó người ta vẫn còn tổ chức những cuộc hành hương quan trọng nhất của Phật giáo, nhiều hành giả yoga sinh hoạt và nhiều người hành hương thăm viếng hàng năm. Đây là ca khúc khải hoàn của Milarepa.

Đây đỉnh Tisé băng giá trắng ngần danh vang dội

là núi cao tuyết phủ chập chùng,

chứng tỏ lời Phật đà khiết bạch.

Đây hồ Mapang bích ngọc danh vang

là nước biếc chảy qua miền nước lạnh

chứng tỏ rằng tạo vật dung thông.

Đây ta, Milarepa, danh vang lừng lẫy

chỉ là một ông lão trần truồng

chứng tỏ rằng ta đã từ bỏ và không cần tư lợi.

Đây ta là kẻ hát những khúc ca nho nhỏ,

chứng tỏ rằng ta đã đọc thế giới này như đọc quyển sách con.

Đây ta cầm tích trượng trong tay,

chứng tỏ rằng ta đã lội qua biển luân hồi sanh tử.

Vì ta đủ năng lực khắc phục được cả thân tâm,

khi ta biểu diễn những pháp thuật diệu huyền hùng mạnh, ta không còn lệ thuộc vào chư thần của thế gian này.

Đây Tisé, sơn vương của núi non trên mặt đất;

là hùng lực đối với mọi kẻ theo Phật đà,

nhất là với Milarepa, một Kargyudpa[3] Tây Tạng.



[1] Các nơi có đánh số, xin xem bảng ngữ vựng ở cuối sách.

[2] Tức sông Brahmaputra.

[3] Danh hiệu môn phái của Milarepa.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31305)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10452)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11140)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12623)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10735)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16471)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10739)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22766)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11910)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11413)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10585)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12251)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11097)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9937)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10239)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11793)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10612)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12254)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9706)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11178)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13749)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9507)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12524)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9608)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10340)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10434)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10208)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9801)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10982)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11934)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10076)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10696)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9461)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9816)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8694)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9417)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14436)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8703)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12449)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10329)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8981)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10473)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9237)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8709)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10419)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9069)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8287)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11923)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9629)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10145)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10165)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18967)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9335)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8912)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9493)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8931)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14657)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10021)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8271)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8820)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8883)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8662)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9257)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14451)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8956)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8673)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8963)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10437)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8546)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9912)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24143)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10080)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10947)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8911)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9382)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7938)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9176)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15238)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10248)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9476)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17278)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21216)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12065)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10155)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19097)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7902)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14664)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10554)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11267)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9437)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18484)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12260)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11794)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10610)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13244)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9898)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9193)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9299)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15721)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant