Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ngụ Ngôn

08 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11105)
Ngụ Ngôn


JETSUN MILAREPA
GỬI LẠI TRẦN GIAN
Bản dịch: ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG

NGỤ NGÔN

28

Hỡi những người nghe được ban phúc từng người

trong chén thánh của thân này hợp tạo

là xác thân của thần tính bẩm sinh.

Nếu các ngươi có thể nâng cao ngọn đèn tịnh quang

các ngươi mới thật sự soi sáng được chân thân nội ngoại.

 

Trong tổ chim ưng của tư tưởng phân biệt

là con ó con giác ngộ.

Nếu các ngươi có thể tặng đôi cánh tri thức và nghệ thuật

các ngươi mới thực sự tung bay trong bầu trời toàn tri.

 

Trong núi tuyết uy nghi của thân này

là con sư tử phân biệt.

Nếu các ngươi có thể trầm tư không thiên lệch về đối tượng của tâm và thức

các ngươi mới thực sự siêu việt được thế giới này và thế giới bên kia.

 

Trong biển cả của vòng tròn bất giác

là chiếc thuyền bé nhỏ của sáu loại chúng sinh (1).

Nếu các ngươi có thể bước lên chiếc thuyền lớn ba thân(5)

các ngươi mới thực sự được cứu vớt khỏi sóng thần đau khổ.

 

Trong xác thân này, nơi ác niệm của thức quan thao túng

là tên cắp đánh cướp của chúng sự cứu vớt.

Nếu các ngươi có thể bắt hắn bằng chiếc nút thòng lọng tinh khôn

các ngươi mới thực sự thoát vòng sợ hãi

 

Trong chân thân giống như bầu trời này

châu báu lấp đầy tất cả dục vọngcần cầu.

Nếu các ngươi có thể bình tĩnh trầm tư

như thế các ngươi mới thực sự hái được ba thân như trái chín.

 

Trong sự canh giữ lâu đài thế gian này

tất cả loài người đều bị xiềng xích.

Nếu các ngươi có thể tự giải thoát bằng sự khôn khéo của đạo sư

các ngươi mới thực sự không là tù nhân nữa.

 

Trong đấng đạo sư giống như viên ngọc vô giá

là giòng thánh thủy của suối nhủ khuyên.

Nếu các ngươi có thể uống được nước suối này với đức tin kiên định

mới thực sự làm các ngươi đỡ khác

29

Hỡi cha, kẻ chiến thắng vinh quang đoàn quân quỷ sứ,

con xin kính chào người, hỡi dịch giả Marpa.

 

Mặc dù ta không tự khoe tiền nhân ta,

ta là con của loài bạch sư gầm thét.

Trong lòng mẹ ta, ta đã hoàn thành ba lực của tâm; (3) trong những năm thơ ấu ta đã ở trong hang cọp;

những năm tuổi trẻ ta đã canh giữ lối vào hang;

trong những năm trưởng thành ta đã bước đi trên những vùng tuyết giá hoang vu.

 

Dù bão tuyết quay cuồng ta không biết sợ;

vực thẳm ngoác mồm ta chẳng hãi hùng.

 

Mặc dù ta không tự khoe tiền nhân ta,

ta là con của chim ưng, vua của các loài cầm điểu.

Ngay trong trứng, lông cánh ta đã mọc,

trong những năm thơ ấu ta đã ở trong tổ chim ưng;

trong những năm tuổi trẻ ta đã canh giữ lối vào cửa tổ;

trong những năm trưởng thành ta đã vút cánh chẻ đôi vòm trời thẳm.

 

Dù trời cao mênh mông ta không biết sợ;

dù thung lũng trần gian nhỏ hẹp ta chẳng hãi hùng.

 

Mặc dù ta không tự khoe tiền nhân ta,

ta là con của loài kình ngư thân lấp lánh.

Trong lòng mẹ ta, ta đã đảo đôi mắt vàng;

trong những năm thơ ấu ta đã ở với bầy cá nhỏ;

trong những năm tuổi trẻ ta đã là con cá đầu đàn;

trong những năm trưởng thành ta đã lượn vòng theo mép bờ hồ.

Dù sấm gầm ác liệt ta không biết sợ;

dù lưỡi câu nhiều ta chẳng hãi hùng.

 

Mặc dù ta không tự khoe tiền nhân ta,

ta là con của đạo sư Kargyudpa;

Trong lòng mẹ, đức tin đã xuất hiện trong ta;

trong những năm thơ ấu ta đã hướng về giáo pháp;

trong những năm tuổi trẻ ta đã là một môn đồ;

trong những năm trưởng thành ta đã thiền định trên núi cao.

Dù quỷ ma đe dọa ta không biết sợ;

dù chư thần hoá phép ta chẳng hãi hùng.

Con sư tử trong tư thế sắp phóng mình trong tuyết giá thấy lạnh nơi móng vuốt

hoàn thành ba lực cũng chẳng lợi bao nhiêu.

 

Con chim ưng đang bay xuyên trời thẳm không thể rơi xuống

nếu con chim ưng vĩ đại bay qua trời thẳm rơi xuống

có lớn dần đôi cánh cũng chẳng lợi bao nhiêu.

 

Con kình ngư đang bơi trong nước không thể chết đuối;

nếu con kình ngư đang bơi trong nước chết đuối

có sinh ra trong nước cũng chẳng lợi bao nhiêu.

 

Tảng thiết thạch không thể bị viên đá bổ đôi;

nếu tảng thiết thạch bị viên đá bổ đôi

có tan thành mảnh nhỏ cũng chẳng lợi bao nhiêu.

 

Ta, Milarepa không sợ ma quỷ,

nếu Milarepa sợ ma quỷ,

đạt được chân tri thực tại cũng chẳng lợi bao nhiêu.




30

Chí tâm đảnh lễ Marpa từ ái.

 

Mi tìm kiếm cơ hội để chế nhạo ta

và tự hiện thân trong hình thức hãi hùng,

hỡi thần đá của núi đá Lingwa,

phải chăng mi là con quỷ của những hành vi độc ác?

Ta không biết làm sao tạo khúc ca vừa ý

nhưng mi có thực lắng nghe lời ca chân lý hay không?

 

Trên cao kia, nơi vòm trời xanh thẳm

là vầng nguyệt và thái dương, đôi tinh cầu may mắn.

Từ lâu đài của các thần vô song đó,

phát hào quang cho hạnh phúc loài người.

Khi chúng lượn vòng quanh bốn đại lục mỗi ngày

cầu mong sao quỷ xâm thực không nổi dậy chống chúng như kẻ thù.

 

Trên đỉnh tuyết pha lê hùng vĩ phương đông

là tiếng gầm may mắn của loài sư tử trắng.

Nó là vua của tất cả thú quần thần

và như là dấu hiệu cao cả, nó không ăn thịt xác chết.

Khi nó xuống mép triền dốc đá xanh đen

cầu mong sao bão tuyết không nổi lên chống nó như kẻ thù.

 

Dưới tàng cây rậm mát của khu rừng phương nam

là con cọp gấm may mắn.

Nó là con thú bắt mồi vô địch

và như là dấu hiệu huy hoàng không dành cho đời nó.

Khi nó bước đi trên con đường vực thẳng bên vực sâu

cầu mong sao bẫy sập không nổi lên chống nó như kẻ thù.

 

Trong hồ Mapam lấp lánh màu bích ngọc phương tây

là con kình ngư bụng trắng may mắn.

Nó là kẻ nhảy múa trong thủy đại

và đảo tròn đôi kim nhãn một cách diệu kỳ.

Khi nó bơi đi tìm thức ăn thích thú

cầu mong sao lưỡi câu không nổi lên chống nó như kẻ thù.

 

Trên núi đá đỏ màu thần bí phương bắc

là con linh thứu may mắn, chúa của loài chim.

Nó là kẻ thấu thị trong loài có cánh

và trong sự khôn ngoan kỳ diệu, nó không cướp đoạt sự sống của ai.

Khi nó bay tìm thức ăn trên núi cao ba đỉnh

cầu mong sao bẫy thừng không nổi lên chống nó như kẻ thù.

 

Trên núi đá Lingwa, nơi chim linh thứu xây tổ

là nơi Milarepa được ban phước lành.

Hắn đang hoàn thành việc tốt cho đồng loại và chính hắn,

và như là dấu hiệu của chân lý, hắn đã từ bỏ thế gian

và đã giục tâm thức đến giác ngộ tối thượng.

Như là mục đích duy nhất khi hắn khao khát

thành Phật trong đời này và trong thân xác này,

hỡi thần đá Lingwa

cầu mong mi không nổi lên chống hắn như kẻ thù.

 

Khúc hát là sáu lần năm ba mươi

hình ảnh ví von kèm thêm lời giải thích.

Hỡi thần đá Lingwa, mi hiểu chăng chân lý

đã kết lời như những chi tiết này như chuỗi xích vàng?

Trong tích số những hành vi, mà mi đã gây bao tội nghiệp.

Mi đừng cần mẫn gia thêm vào nữa

mà từ đây mi phải chiến thắng ma tính ác tâm mi.

Nếu một người không biết tất cả là tâm

thì những quỷ dữ là tâm phân biệt sẽ có cả đoàn,

và nếu hắn không biết chính tâmchân không

làm sao hắn tiêu diệt được đoàn quân ma quỷ?

Hỡi quỷ nữ ác độc, đừng làm hại, đừng làm hại,

đừng làm hại ta là kẻ đã đến lúc khởi hành.

31

Ta tạ ân thầy ta vì ưu ái của người

và cầu mong người vì từ tâm

ban cho hồn ta được chín muồi trong giải thoát.

 

Với các ngươi:

những tín đồ được phúc lành của đức tin đã ngồi tại nơi đây,

ta sẽ tặng sự khuyên nhủ quan trọng sâu xa trong lời hát,

hãy lắng tai và chăm chú lắng nghe.

 

Con sư tử trắng của những cánh đồng tuyết giá trên cao

đang há miệng giữa những đỉnh tuyết trắng phau

hẳn không sợ một con nào khác,

thói quen kiêu hãnh của nó là vươn mình giữa vùng tuyết lạnh.

 

Con linh thứu oai hùng của núi Drakmar hùng vĩ

đang xòe đôi cánh giữa khoảng trời cao rộng

hẳn không sợ rơi xuống vực sâu,

thói quen kiêu hãnh của nó là vút cánh chẻ đôi vòm trời thẳm.

 

Trong dòng sông và biển hồ dưới thấp

con cá kình mình lấp lánh lao đi

hẳn không sợ chết đuối,

thói quen kiêu hãnh của nó là lội bơi lấp loáng.

 

Trên những cành cây làm áo cho triền dốc núi Mon

những con khỉ đuôi dài và đuôi ngắn diễn trò khéo léo

hẳn không sợ rơi xuống dốc cao,

thói quen kiêu hãnh của chúng là diễn lắm trò vui.

 

Dưới những cành rậm lá của cây rừng

con cọp gấm Tây Thiên tỏ sự can đảm của mình

hẳn không biết sợ,

bản tính của cọp là khôn ngoan rực rỡ.

 

Trong những khu rừng của Singghala

Milarepa thiền định về chân không

hẳn không sợ cuộc trầm tư mình thất bại,

thói quen kiêu hãnh của Milarepa là nhập định lâu dài.

 

Trong chu kỳ thanh tịnh của tinh cầu chân lý

hắn vui hưởng kinh nghiệm chẳng cuồng điên

hẳn hắn không sợ sai lầm ý nghĩa,

thói quen kiêu hãnh của hắn là đứng trong thực tại.

 

Trong kinh nghiệm về sức sống lưu hành dòng nội hướng

hắn bực mìnhảo ảnh đến cản ngăn

hắn như thế không lạc ngoài chân tri giải,

sai lạc là huênh hoang về tiến bộ.

 

Từ năng lực bẩm sinh của nhiếp tâm thành tựu

tuôn trào đầy cho hắn vô số tư tưởng cao siêu và hèn hạ

thế nhưng hắn không buông tâm theo tư tưởng

vì tâm là sân khấu buộc ràng vô số ý hiện ra.

 

Bằng năng lực chín muồi theo nhân quả

hắn ngồi nhìn chân thể của đức hạnh và thói hư

hẳn không bị quấy rầy trong chánh định

vì lời hắn nói là: "chân lý không sai" phân chia thiện ác.

32

Con tuấn mã của ta có nước nhanh của tâm phân biệt.

Nó huy hoàng trong những nùi lụa bình tâm,

nó mang làn da cừu thành công giữa cuộc đời hư ngụy

và chiếc yên loè loẹt của tự tri rực rỡ trên lưng,

được ba khổ thế gian (11) làm dây giàm buộc chặt.

Nó còn mang thêm dây buộc yên đuôi tri thức và nghệ thuật;

trên đầu nó là chiếc cương giữ cầm hơi thở

nơi hai mày phe phẩy tua vải nhiếp tâm

trên chóp mũi lúc bình minh, ngọ thiên, khi chiều xuống,

và trên trán nhô cao chòm lông bờm cơn lụt thanh bình bên trong.

Miệng nó được bộ cương thân huyền bí dắt đưa;

được thúc giục bằng chiếc roi dòng tâm tuôn chảy.

Nó được chứng minh đầu tiên trong chủng loại, trên đồng bằng kinh nghiệm siêu việt.

Như thế đó là con ngựa của hiền nhân ta.

Nếu chạy trốn nó sẽ thoát được đầm lầy thế gian này.

Nếu theo đuổi, nó sẽ đến được cõi trời hoàn toàn thanh tịnh.

 

33

Một du khách đến bên đường cầu xin lời khuyên của Milarepa. Anh ta đang chán đôi giày ống của anh ta làm bằng da nai đế nỉ mà người Tây Tạng thường dùng. Đôi giày được tô điểm bằng hình vẽ vui vui trên lụa và có nạm những nút đồng. Milarepa coi đôi giày như một biểu tượng thế gian và làm trở ngại hiền nhân.

 

Hãy nhìn xem cơ nghiệp ba vương quốc thế gian này

bị khâm liệm trong u minh mịt mờ bất giác.

Những đồng cỏ khát vọng là hố thẳm bùn sâu.

Những vũng lầy ganh tỵ tràn đầy gai nhọn.

Con chó dại nóng giận sủa vang, cắn đớp.

Vùng đá chởm kiêu mạn vươn cao trên đỉnh núi.

Khi ta đã lội qua dòng sông đời,

ta cầu nguyện cho ta được trốn trong đồng bằng cực lạc.

Trong những chiếc giày của ta đốm điểm mơ ảo ảnh mong manh

và đôi đế nỉ cố ý sai lệch của thế gian này

được kết chặt với nhau bằng tin tưởng vào sự động hành nhân quả.

Được nạm bằng những nút đồng đeo đuổi thành đạt

được gắn bằng ba móc khóa triền phược căn nguyên (12)

là đôi giày Trung hoa của hiền nhân ta đấy.

34

Hỡi kẻ bố thí đầy hơi kiêu mạn,

hỡi phú hộ Ngendzong, hãy lắng nghe ta hát. 

 

Suốt ba tháng mùa xuân

khi mọi người Tây Tạng cày ruộng họ

và ta, bậc hiền nhân, cũng cày ruộng của ta.

Trên mặt đất cứng đau khổ sơ nguyên

ta bón phân đức tin và tiên triệu

và tưới nước no nê bằng năm thứ cam lồ (13).

Là một nông dân đầy tin tưởng,

ta đã gieo hạt giống tự do không lầm lạc của suy tư.

Đã mắc ách vào cổ đôi bò siêu việt nhị nguyên

ta đã gắn hết những luống cày trí huệ,

và được dẫn dắt bằng kinh điển thiêng liêng

đã kéo chiếc cày tịch nhiên bất động,

đã dùng chiếc roi nhiệt tâm khoảnh khắc.

Hạt giống chắc và mạnh;

mầm non thánh tín sẽ bung lên;

bông lúa sẽ chín vàng đúng lúc.

Ngươi làm nông dân của thế gian này;

ta làm nông dân của trưởng thành vĩnh cửu.

Vào mùa gặt, chắc chắn chúng ta sẽ thấy gia tăng;

và khi mùa gặt xong, chắc chắn chúng ta sẽ đua nhau vui vẻ.

Khúc hát này được hát lên như một ngụ ngôn;

đây là khúc hát dân cày của ta.

Hãy tạo đức tin trong lòng ngươi, hỡi kẻ đầy hơi kiêu mạn;

hãy làm việc thiện cho chính ngươi và tích tụ những hành vi xứng đáng.

35

Hỡi kẻ bố thí đã hỏi dồn ta câu này sang câu khác,

ngươi là kẻ có thiện năng, hãy lắng nghe ta hát.

Ngươi biết hay không biết tên ta?

Nếu ngươi không biết tên ta,

ta là Milarepa.

Ta là người sám hối;

ta là người thiền định với hùng tâm tha thiết;

ta là hiền nhân đã quên phân biệt.

Tích trượng ta cầm tay này

đầu tiên đã mọc trên triền núi đá chập chùng bên Thiên Trúc,

sau đó được trì xuống và đốn ngã bằng con dao Ấn Độ

cuối cùng được buộc bằng dây da mềm mại.

Nguồn gốc tích trượng là núi Mon phương nam;

được chuyên chở trên lưng con bò mộng kéo xe Đại Thừa;

được du hành qua nhiều phố chợ;

được cúng dường cho một kẻ tín thành.

Tích trượng của ta là như thế đó.

Ngươi hiểu hay không ý nghĩa tích trượng này?

Nếu ngươi không hiểu,

hãy lắng nghe ta giảng giải.

Chặt trúc tại gốc

có nghĩa là cắt đứt nguyên nhân cội rễ thế gian này.

Chặt trúc tại ngọn

có nghĩa là cắt đứt lỗi lầm do nghi ngờ tạo tác.

Cái ngã xuống chỉ cao hai thước mộc

có nghĩa là sự từ bỏ thế gian của phàm phu cũng chỉ cao như thế.

Tính tốt tự nhiên và dễ uốn của trúc

có nghĩa là thiện tính trường tồn của tâm nguyên thủy.

Nhựa sống ngọt ngào và màu sắc đẹp đẽ của trúc

có nghĩa là sự bồi dưỡng chân lý của bổn tâm.

Tính dễ uốn cong của thân trúc ngay thẳng

có nghĩa là sự thực hành của chân lý không sai.

Khe lõm trên thân trúc

có nghĩa là con đường hoàn toàn đưa đến dòng thánh tính.

Thân trúc bốn lóng

có nghĩa là sự tràn đầy của bốn hạnh vô lượng (14).

Thân trúc ba mắc nối

có nghĩa là sự toàn hảo của ba thân (5) bất hoại.

Màu sắc không thay đổi của trúc

có nghĩa là tính bất di dịch của chân lý căn nguyên.

Tính tròn của những lóng trúc

có nghĩa là tính bất sinh của chân lý.

Men bóng trắng mãi của trúc

có nghĩa là tánh không ô nhiễm của chân thân.

Tính rỗng của thân trúc

có nghĩa là tánh không của vạn vật bất hư.

Những vết lốm đốm trên thân trúc

có nghĩa là chân tri như là hạt giống của thể tánh duy nhất.

Những chấm đen nhỏ trên thân trúc

có nghĩa là hiền nhân áo vải Tây Tạngtrí phân biệt tinh vi.

Tiền nhân cao quý đời đời của trúc

có nghĩa là sự chăm chỉ thực hành pháp giáo của hiền nhân.

Vẻ đẹp xinh tươi của trúc

có nghĩa là nhiệt tâm hiền tâm vì tín ngưỡng loài người.

Mảnh sắt nhọn bịt đầu trúc trượng

có nghĩa là sự rong chơi của hiền nhân trong núi cao rừng thẳm.

Bao đồng bịt nơi tay nắm

có nghĩa là năng lực của hiền nhân khắc phục được các nữ thiên thần.

Những đinh sắt đóng trên thân trúc trượng

có nghĩa là sự kiên tâm vĩ đại của hiền nhân.

Chiếc khâu đồng gắn nơi đó

có nghĩa là hoàn toàn thừa thãi bên trong của hiền nhân.

Sợi dây da buộc nơi đó

có nghĩa là sự khôn ngoan nhu nhuyễn của hiền nhân.

Hai tao của dây da

có nghĩa là tiến trình của hiền nhân trên đường hợp nhất của hai thành một.

Sự xoắn vào nhau của dây nguyên thủy với một dây tương tự

có nghĩa là sự hợp nhất của hiền nhân với ba thân nguyên thủy.

Chiếc đĩa đựng của bố thí bằng xương gắn nơi đó

có nghĩa là sự rong chơi của hiền nhân khắp cả trần gian.

Chiếc túi nhỏ đựng bùi nhùi mồi lửa gắn nơi đó

có nghĩa là sự tình bằng hữu của hiền nhân hướng về mọi vật.

Chiếc tù và bằng vỏ ốc trắng gắn nơi đó

có nghĩa là linh phù về chân lý của hiền nhân.

Mảnh da cọp nhỏ gắn nơi đó

có nghĩa là sự hoàn toàn vô úy của hiền nhân.

Tấm gương soi gắn nơi đó

có nghĩa là cảnh bình minh của trực thức hoàn toàn bên trong hiền nhân.

Con dao bén gắn nơi đó

có nghĩa là sự cắt đứt những khổ não của hiền nhân.

Viên pha lê duy nhất gắn nơi đó

có nghĩa là sự khước từ tính bất tịnh của dục vọng của hiền nhân.

Xâu chuỗi kết bằng những hạt ngà gắn nơi đó

có nghĩa là dây tình thương của hiền nhân nối buộc với thầy.

Bộ chuông mõ gắn nơi đó

có nghĩa là sự rao giảng đạo lý của hiền nhân khắp miền khắp cõi.

Chiếc y bằng len trắng vải đỏ gắn nơi đó

có nghĩa là sự tạp đa của môn đệ hiền nhân.

Sự sử dụng trúc trượng trong tay hiền nhân

có nghĩa là sự chuyển hóa thường nhân bằng chánh pháp.

Tra vấn ý nghĩa của nó

có nghĩa là hướng ý về nơi tôn kính.

Họp mặt cùng ta

có nghĩa là việc làm của kẻ cầu nguyện xưa kia.

Bài hát về ý nghĩa của chiếc gậy trắng này

tất cả thần và người đều hiểu được.

Nhờ lòng tin chân thành khiến ngươi có được đạo nghĩa của nó,

hãy luôn luôn thực hành đức tin thánh linh trong hạnh phúc.

36

Ở đây Milarepa, bằng lối ngụ ngôn, bày tỏ những nguy hiểm mà người môn đệ có thể gặp phải trong cuộc nhiếp tâm quán tưởng xảo diệu và ông mô tả cách giữ mình cho người môn đệ khỏi bị nguy hại trong những cuộc tấn công ma quỷ như thế. Người môn đệ phải kiên gan và đứng vững, dùng uy lực của thần chú huyền bí mà thầy đã dạy buộc những kẻ thù ma quỷ phải phục tòng rồi lại dẫn dụ họ, như thế tâm người môn đệ sẽ được an tịnh và thấy được cảnh an lạc.

 

Nơi phương đông trong đế quốc Trung Hoa huy hoàng

một thiếu phụ Trung Hoa dệt lụa.

Nếu con thoi mang sợi chỉ bên trong của nàng không sai lệch

nàng sẽ không chán nản vì cơn gió thời gian nhanh chóng bên ngoài,

nhưng nàng làm việc với sự chăm chú bên trong

nàng sẽ hoàn thành tấm lụa của nàng.

 

Nơi phương bắc trong vương quốc Hoa Hạ

một chiến sĩ vô địch đi đến chiến trường.

Nếu người chiến sĩ không đứng lên chống lại thế giới ma quái bên trong

hắn sẽ không sợ đoàn quân của Gesa bên ngoài,

nhưng hắn tự bảo vệ mình bằng thuật trừ ma quái

hắn sẽ chiến thắng vinh quang.

 

Nơi phương tây trong vương quốc Ba Tư trũng thấp

là cổng thành bằng đồng của đoàn chiến sĩ du mục.

Nếu biển đồng tan chảy bên trong không được khuấy đều

nó sẽ không sản xuất được tên súng bên ngoài

nhưng thoát khỏi đường nứt bên trong

nó sẽ chống lại cuộc tấn công của địch.

 

Nơi phương nam trong miền đất Népal sấm sét

chiên đàn hương đứng xoa dịu giữa rừng.

Nếu lưỡi rìu quái ác không bủa vào bên trong

nó sẽ không bị bổ đôi bởi lưỡi búa của tiều phu núi Mon bên ngoài.

nhưng chống lại tất cả sức tàn phá bên trong

nó sẽ lớn cao trong rừng rậm.

 

Nơi cô tịch Chubar xứ Drin

là mi, Milarepa, kẻ trầm tư thiện nghệ.

Nếu không tạo sự phân biệt bên trong thành con quỷ thù địch

mi sẽ không sợ sự tấn công của ma quái bên ngoài,

nhưng thanh tịnh bổn tâm bên trong

mi sẽ thành hiền nhân đích thực.

 

Mi đã tự tập kiểm soát những tưởng tượng nhục cảm của mi

và trên núi đá chập chùng của chân không chân lý

mi đã tìm thấy lâu đài trầm tư tịch nhiên bất động;

đã mặc vào chiếc áo giáp giác ngộ tâm linh

và đã mài bén vũ khí trí huệtừ tâm.

Mặc dù những đoàn quân quỷ sứ vây quanh

mi sẽ không chạy trốn vào thị thành khoái lạc.

Mặc dù thế giới diêm vương nổi dậy chống mi như kẻ thù mi sẽ không chiến bại với đoàn quân diêm chúa

nhưng mi sẽ chiến thắng rất mực vinh quang.

Song nên biết bề ngoài ước mơ của ngoại vậtkỳ diệu,

và sự nhiếp tâm tịch tĩnh bên trong gây nhàm chán,

lòng ham muốn lạc thú giác quan là người bạn đồng hành trường thọ,

và khi mơ chìm trong dòng ảo tưởng chảy qua tri thức

con quỷ phân biệt tinh ranh tìm kiếm phương tiện thù hằn,

bao giờ cũng nằm chờ trên ngõ hẹp giữa hố thẳm hy vọngsợ hãi

nó có thể bắt mi bằng chiếc nút thòng lọng ích kỷ.

Nhưng mi hãy canh giữ trí nhớý thức mi

và, là kẻ giỏi canh gác lâu đài, mi sẽ là hiền nhân.

Bài hát này gồm bốn ẩn dụ với lời giải thích thành năm.

Lời hát được kết thành khéo léo như chuỗi ngọc nạm trên mặt dây chuyền,

và lời giảng giải là tấm gương đẹp tặng linh hồn.

Hãy học cho hiểu, hỡi những môn đồ may mắn.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15481)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22895)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13952)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12898)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54952)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9059)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14342)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14082)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14118)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13811)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36152)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19775)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18095)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19099)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19042)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20188)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17547)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31379)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15847)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14894)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14611)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46043)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35794)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20949)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21472)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23249)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34164)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19404)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18820)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22823)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20086)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18266)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19737)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19453)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33303)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34307)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54354)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37547)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21043)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17795)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63455)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17279)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49477)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27259)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20167)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22896)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18810)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16251)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17788)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20847)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17269)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14387)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16783)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16282)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15922)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17381)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21855)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15007)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13406)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14301)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15296)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14906)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12588)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13274)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27310)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12425)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13114)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14405)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16128)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12325)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15310)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12806)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12129)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13112)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21503)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11203)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22573)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14940)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14858)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46042)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22320)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14371)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12519)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18798)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14631)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43702)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56807)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13759)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47343)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13565)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14464)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28875)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33171)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38248)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15327)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31098)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40210)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43243)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46469)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant