Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 3: Thanh Tịnh Và Tĩnh Giác

13 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10876)
Chương 3: Thanh Tịnh Và Tĩnh Giác
VÔ NGÃ VÔ ƯU
Thiền Quán Về Phật Đạo
Tác Giả: Ni sư Ayya Khema - Người Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh
Dịch từ bản tiếng Anh: Being Nobody, Going Nowhere - Meditations On The Buddhist Path 
Wisdom Publications 1987
Chương 3 

Thanh tịnh Và Tĩnh Giác 

 Có rất nhiều phương pháp tu Thiền. Trong “Thanh Tịnh Đạo” (Path of Purification) có hơn bốn mươi cách được liệt kê, nhưng chỉ có hai phương hướng, hai con đường ta phải đi đến: Thanh tịnhTỉnh giácThanh tịnhTỉnh giác luôn đi đôi với nhau. Giống như phương hướng, và mục tiêu. Ta phải biết con đường để đi đến mục tiêu.

 Ta cần phải thực tập cả hai phương cách, Thanh tịnhTỉnh giác, để đạt được những kết quả mà Thiền sẽ mang đến cho ta. Phần đông chúng ta đều muốn được an lạc. Ai cũng muốn được bình yên, muốn được có cảm giác vui sướng, mãn nguyện. Trong Thiền định, nếu ta thoáng bắt được cảm giác an lạc đó, ta sẽ hạnh phúc biết bao. Nhiều người đã thỏa mãn khi đạt được đến trình độ đó. Nhưng thanh tịnh không phải là mục đích của Thiền. Đó chỉ là phương tiện đưa đến cứu cánh. Thanh tịnhphương tiện. Sự tỉnh giác trong nội tâm mới là cứu cánhPhương tiện rất cần thiết nhưng không thể lầm lẫn chúng với cứu cánh. Nhưng vì phương tiện đó tạo ra sự thoải mái, dễ chịu, ta trở nên bám víu vào chúng. 

 Vấn đề của chúng ta là luôn chạy đuổi theo sự dễ chịu và xa lánh sự khó chịu. Vì chúng ta coi mục đích của cuộc đời là được dễ chịu, hạnh phúc, nên dường như ta chẳng có mục đích gì cả trong cuộc đời. Không thể nào tước bỏ hết tất cả những điều khó chịu, đau khổ trong đời, mà chỉ giữ lại những gì ta ưa thíchChừng nào ta còn coi đó là mục đích của mình thì ta không có mục đích gì cả. Trong Thiền cũng thế.

 Như thế thì làm cách nào chúng ta có thể đạt được sự thanh tịnh, và điều đó ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào? Bằng cách thực tập chú tâm vào hơi thở, dần dân ta sẽ tìm được sự thanh tịnh. Tâm ta sẽ ngưng suy nghĩ trong một giây phút nào đó, và ta sẽ cảm thấy hoàn toàn thư thái, dễ chịu. Tâm suy nghĩ không bao giờ được thư thái, vì suy nghĩ là một quá trình chuyển động, và bất cứ sự chuyển động nào cũng tạo ra ma xát. Tuy nhiên ta có thể tìm được sự thanh tịnh trong một giây phút nào đó, hay dài hơn, nếu ta tiếp tục tu tập và tăng thời gian tham Thiền lên. Điều đó không có gì khó. Có thể lúc đầu ta thấy khó khăn, nhưng với sự kiên trì, nhẫn nại, một chút duyên lành và một nơi yên tĩnh, ta có thể làm được điều đó.

 Chắc rằng chúng ta đều có duyên lành, nếu không ta đã không có mặt nơi nầy. Những người có ác nghiệp sẽ không tìm được đến với Thiền, hoặc giả như có, họ cũng không trụ lại. Do đó nói ta đã có sẵn duyên lành là vậy.

 Về lòng kiên nhẫn, bạn cũng không thiếu, nếu như bạn đã chịu khó đọc đến những dòng nầy. Chỉ cần thêm một yếu tố nữa đó là ý chí, sự quyết tâm. Khi ngồi xuống chiếu Thiền, bạn cần tự nhủ: ‘Tôi sẽ chú tâm vào từng hơi thở, nếu tôi có lơ là, tôi sẽ bắt đầu trở lại”. Cần làm như thế để giữ cho tâm thăng bằng, giống như người đi trên dây xiếc. Mỗi lần lao đao, ta phải lấy lại thế cân bằng. Vì thế ta cần có sự quyết tâm.

 Khi cảm giác thanh tịnh, thư thái dấy lên -- cái cảm giác mà Phật gọi là sự thanh tịnh ngay giờ phút hiện tại -- rồi qua đi, không thể khác được, vì bất cứ điều gì đã có sinh thì phải hoại, phản ứng đầu tiên mà tâm phải có là nhận ra tính cách vô thường của sự vật, chứ không phải để thất vọng kêu lên: “Ồ, nó lại qua mất rồi”. Hoặc là “Cảm giác vừa rồi dễ chịu quá, làm sao để có lại cảm giác ấy”, như cách ta vẫn phản ứng lâu nay.

 Sống theo Pháp, hành theo Pháp, là những hành động không bình thường. Khác với mọi người chung quanh. Khi Phật còn ngồi dưới cây bồ đề, trước khi Giác ngộ, khi Sujata mang dâng ngài sữa trong chiếc tô vàng, cô cũng cúng dường luôn chiếc tô quí. Đức Phật sau khi uống xong, đã thả chiếc tô vàng xuống dòng sông trước mặt, và nói nếu như cái tô chảy ngược với dòng nước sông, Ngài sẽ giác ngộ. Và cái tô đã chảy ngược dòng. Điều đó có thể xảy ra không? Có lẻ pháp thoại đó muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng khi ta sống với Pháp, chúng ta phải đi ngược lại với dòng chảy của bản năng, của các khuynh hướng tự nhiênChúng ta phải đi ngược lại với những sự dễ dãi, thoải mái, những gì tất cả mọi người khác đều theo đuổi. Chảy ngược dòng bao giờ cũng khó hơn là thuận, xuôi theo dòng.

 Cảm giác thoải mái, tự tại mà ta cảm nhận được trước hết ở thân, rồi đến tâm, cũng sẽ qua đi. Chúng ta phải nhận ra tính cách vô thường của nó, để ta có thể sử dụng nó cho một mục đíchNếu không, ta chỉ sử dụng cảm giác thanh tịnh đó cho sự thoải mái của riêng ta. Mà chỉ để thoải mái cho thân ta là ta đã ích kỷ, chỉ biết đến riêng mình, không phải là để tiến tới vô ngã, là cái gốc của những điều Phật dạy.

 Giáo lý của Đức Phật nhằm hướng ta đến vô ngã. Ngài nói: “Ta chỉ dạy một điều, đó là giải thoát, chấm dứt khổ đau”. Điều đó không có nghĩa là tất cả khổ đau trên đời đều chấm dứt. Điều đó có nghĩa là nếu không có một cái tôi để đón nhận khổ đau, thì không có khổ đau. Cái tôi sẽ biến mất. Nếu không có ai ở đây có vấn đề, thì làm gì có vấn đề? Nếu dùng cảm giác tự tại chỉ cho riêng mình, thì ta đã đi ngược lại với lời Phật dạy.

 Luôn trở về với hơi thở sẽ giúp ta đạt đến trạng thái thanh tịnh. Chánh niệm, trong Bát Chánh Đạo, dạy ta sự chú tâm đúng, đưa đến thiền định. Theo dỏi hơi thở là việc cần làm, nhưng không có ai đạt được thiền định chỉ bằng ao ước hay một vài buổi ngồi thiền. Tất cả cần có thời gian. Do đó khi ngồi Thiền, ta cần đưa bất cứ vọng tưởng nào dấy lên trở về với sự tỉnh thức. Bất cứ ý tưởng nào cũng thế, chúng không phải đến để phá rối chúng ta, cũng không phải là dấu hiệu chứng tỏ ta không thích hợp với Thiền, cũng không phải cảm giác làm ta thấy quá nóng, hay quá lạnh. Không có gì giống như thế cả. Vọng tưỡng không phải là kẻ phá rối trật tự của chúng ta. Chúng là ông thầy của chúng ta.

 Mỗi vọng tưỡng là một ông thầy, ‘dạy’ cho ta biết tâm ta lăng xăng, không thể nương tựa, không thể tin cậy được. Nó suy nghĩ cả về những điều ta không muốn nghĩ đến, cả khi ta chỉ muốn được hoàn toàn yên tĩnh và tự tại. Trước hết, ta cần biết là tâm không phải là một phần tuyệt vời của chúng ta, dù rằng nhờ nó ta có thể thâu thập được kiến thức, có thể hồi tưỡng, có thể hiểu một số khái niệm và phạm trùTuy nhiên nó là một cái tâm lăng xăng, luôn thay đổi và nó sẽ không làm những gì chúng ta đòi hỏi ở nó.

 Điều thứ hai, ta cần nhớ, là khó thể tin vào tâm. Ta không nên tin vào tất cả mọi tư tưởng qua đầu ta. Chúng đã đến không mời mọc, thì tự chúng cũng sẽ ra đi. Chúng chẳng có ích lợi gì, nhất là khi ta đang ngồi thiền. Chúng có thể là những gì đã xảy ra trong quá khứ. Hay chỉ thuần là vọng tưỡng. Đôi khi chúng làm ta khó chịu, hay chỉ nhẹ nhàng như một giấc mơ. Có khi chúng đến lộn xộn không đầu đuôi. Chúng nhanh chóng đi qua đầu ta, trước khi ta kịp nhận mặt chúng. Vậy tại sao ta lại tin vào những điều mình thường suy nghĩ?

 Trong lúc ngồi Thiền, chúng ta có cơ hội để quan sát tâm -tư tưởng đi qua trong đầu- và luyện tập không để bị chúng lôi kéo. Thế thì tại sao trong đời sống hằng ngày ta lại tin vào chúng và để chúng lôi kéo ta theo? Khi tâm nói “Người nầy thật xấu”, “Người kia nói láo”, ta tin theo những điều đó. Khi tâm nói “Tôi chán quá. Mệt mỏi quá”, “Tôi cần thứ nầy” hay “Tôi phải có thứ kia”, ta nghe theo. Ta tin theo tất cả - nhưng tại sao ta phải tin chúng? Trong khi tất cả mọi suy tưỡng đều xảy ra theo một tiến trình, trong đời thường cũng như lúc hành thiền. Tư tưỡng dấy khởi lên, dừng lại trong chốc lát, rồi qua đi không theo một mẫu mực nào hay lý do nào.

 Khi đã thực sự nắm bắt được ý nghĩa của tiến trình nầy, ta có thể thay đổi những suy nghĩ hiện lên trong đầu và các tư tưởng ta muốn nghĩ tới. Điều đó có thể thực hiện được khi ta không còn tin vào những điều tâm nói nữa, mà chỉ quan sát tiến trình của chúng. Cũng như với không khí chung quanh ta. Ta không nắm không khí trong tay và bảo rằng không khí là của riêng mình, dầu rằng không có nó ta không thể nào sống nổi. Đơn giản là không khí có mặt ở mọi nơiTư tưởng cũng thế. Tiến trình của tư tưởng xảy ra tự nhiên trong tâm ta, và khi nào chúng ta còn sống, tiến trình đó triền miên tiếp tục, dầu rằng chúng không đáng tin, không thể dựa vào. Bởi thế, nếu ta có thể gạt bỏ phần lớn các suy tưởng trong đầu mình, thì lại tốt hơn.

 Ta còn có thể quan sát về tâm ở một khía cạnh khác. Là khi ta ngồi thiền, nhưng không thể tập trung tư tưởng, khi ta buồn ngủ, không chú tâm, ta hiểu rằng khi tâm không được ‘giải buồn’, nó muốn ngủ. Tâm luôn muốn được tiêu khiển. Nó cần đọc sách, coi TV, thăm hàng xóm, nó cần được làm một thứ gì đó, bất cứ thứ gì để giải buồn, để được bận rộn. Nó không chịu ngồi yên. Đó là một điều thú vị để biết về chính mình.

 Hãy tưỡng tượng bạn phải ở một mình trong một tuần, chỉ một mình, không có bất cứ thứ gì để tiêu khiển. Bạn sẽ coi đó là cực hình, mà thực vậy, vì tâm không thể chịu đựng nổi. Nó luôn cần được ‘cho ăn’. Giống như thân cần được ăn, tâm cũng vậy. Nó cần một thứ gì đó từ bên ngoài, vì chính tự nó không thể thỏa mãn với chính mình. Khi ngồi thiền, ta sẽ khám phá ra điều đó về tâm.
 Nhưng các vọng tâm thì vô thường. Chúng dấy lên, rồi qua đi. Chúng không luôn có mặt như hơi thở của ta. Nếu chú tâm ta sẽ nhận biết khi nào vọng tưỡng dấy khởi. Khi chúng qua đi, dễ nhận biết hơn là khi nào chúng đến. Ta không thể giữ chúng lại phải không? Tất cả những suy nghĩ nửa giờ trước đây đã qua đi phải không?

 Vô thường và vô sỡ hữu: ta đâu có làm chủ được chúng, phải không? Và chúng cũng chẳng đáng để ta giữ lại, phải không? Vậy tại sao ta muốn làm chủ chúng? Muốn nghĩ chúng là ta? Sao không nghĩ chúng chỉ là một hiện tượng tự nhiên hiện ra, rồi tan mất. Chỉ có thế. Cũng thế, với thân nầy -nó có thực là ta không? Nó cũng chỉ là một hiện tượng tự nhiên phát sinh ra bằng khái niệm, và tan biến đi qua cái chết., một định luật tự nhiên, một sự kiện tự nhiên mà nếu còn chấp Ngã ta không thể nào chấp nhận được điều đó.

 Chấp Ngã hay ngã mạn không có nghĩa là ta ngạo mạn. Chấp Ngã đồng nghĩa với u mê. Chỉ có các vị A-la-hán là không có ngã mạnNgã mạn có nghĩa là ta đang nhìn thế giớibản thân từ quan điểm của ‘cái tôi’, qua cái nhìn đó, thế giới bên ngoài cũng như người chung quanh ta trở nên là mối đe dọa của chúng ta, vì ‘cái tôi’ của ta dễ vỡ, dễ bị chạm và dễ đau khổ.

 Tất cả các vọng tâm dấy lên khi ngồi thiền sẽ giúp cho chúng ta hiểu về chính mình hơn, về tính cách vô thường của các hiện tượng, của thân, tâm, về tính vô sở hữu của chúng. Nếu ta thực sự làm chủ những suy nghĩ của mình, thì tại sao ta lại không làm chủ những suy nghĩ đáng có? Ai muốn làm chủ một đống rác? Như tôi sẽ cố gắng để những vật thuộc sỡ hữu của tôi trở thành quí báu.

 Điều thứ ba ta rút ra được từ sự quán tâm là: đây là dukkha (đau khố) hay sự không vừa lòng, không thỏa mãn. Dukkha không chỉ có nghĩa là sự khổ đau, mà còn bao gồm tất cả những điều không như ý, là một khái niệm bao quát hơn, gồm tất cả những gì ta đã kinh nghiệm qua, cả những việc vừa ý cũng làm ta khổ vì chúng sẽ qua đi (vô thường). Sự không như ý của quá trình tư duy sẽ hiện ra rất rõ trong thiền quán, vì ở đây trong lúc ta thực sự muốn chú tâm, ta lại chỉ toàn ngồi suy nghĩ vẩn vơ.

 Ta phải nhận biết về tính cách vô thường, không như ývô ngã bằng chính kinh nghiệm bản thân của mình. Không ai ‘biết’ ba điều nầy mà chẳng từng kinh qua chúng. Nếu ta không thực sự hiểu một cách trực tiếp bằng nội tâm của mình thì chúng chỉ là những lời hoa mỹ, ở đầu môi. Vì nhiều người vẫn kinh nghiệm những điều nầy từng giây phút, nhưng chẳng hề nhận ra được chúng.

 Chúng ta đang chết từng giây phút, nhưng chúng ta cũng chẳng để ý đến điều đó. Cần phảichánh niệm để nhận biết chúng, và chánh niệm là điều ta có thể đạt được trong quá trình tu tập thiền. Hảy quan sát sự không như ý trong tiến trình tư duy như là một đặc tính không thể thiếu của nó.

 Nếu ta có thể nhìn mọi sự vật như chúng hiện hữu, bằng con mắt tỉnh giác, thì ta đã hiểu điều Phật dạy. Thiệt là vô ích để ngồi đó nghĩ “Giá mà tôi không suy nghĩ”, “Giá mà tôi có thể chú tâm”, “Giá mà ngồi thiền không khó thế nầy” hay “Giá mà chân phải tôi không đau đến thế”. Đó là mộng. Đó là ước mơChúng ta không thể chỉ ngôi mơ mộng hay ước mơ nếu chúng ta muốn thấu đạt được nguyên nhân đã làm ta đau đớn.

 Phật đã nói tất cả chúng sinh đều bịnh, và Pháp là thuốc chữa. Phật có danh hiệu là Đức Y Vương. Như với mọi thứ thuốc chữa bịnh khác, nếu chúng ta chỉ biết về chúng hay đọc toa thuốc thì không thể hết bịnh. Nhân loại đã đọc toa thuốc hàng ngàn năm nay. Hãy ngưng đọc toa thuốc để uống thuốc. Khi đã phân biệt được sự khác biệt giưã đọc toa thuốc và uống thuốc, ta sẽ dễ dàng biết mình phải làm gì.

 Khi cảm giác khó chịu dấy lên vì phải ngồi nguyên một chổ, tâm thức sẽ lên tiếng phản đối, cằn nhằn. Nó vội nói “Tôi không thích chút nào. Thiệt khó chịu hết sức. Tôi sẽ không chịu nổi nữa. Tôi cần ngồi lên ghế”, “hay “Tại sao phải ngồi như thế nầy? Tự cực hình mình à?” hay “Biết có đáng không. Biết có đáng để chịu bao cực khổ ngồi thiền không”, và nhiều thứ nữa. Tâm có khả năng nói với ta bất cứ điều gì. Nó có thể nói về mọi vấn đề, và mọi khía cạnh của vấn đề. Nó vừa đề cao một vấn đề đã quay ra hất đổ. Bất cứ tâm của ai cũng làm thế được. Tâm có thể xoay ngang, trở ngửa.

 Đừng ngồi đó nghĩ “Tôi không thích chút nào, chân phải của tôi, lưng tôi, cổ tôi -hay bất cứ thứ gì - đau quá”. Không. Hãy sử dụng các cảm thọ vừa dấy lên như một cách để tỉnh giácCảm thọ là nền tảng của cuộc sống. Nhưng chúng ta phản ứng thế nào là do sự tiếp xúc với các căn của ta: Sắc, thanh, hương, vị, xúc và thức. (Đức Phật nói về tâm, quá trình tư duy như là giác quan thứ 6 của ta). Thí dụ như nếu ta không nhìn thấy, thế giới sẽ khác hơn bây giờ. Hay điếc. Hay câm... thiếu một giác quan nào cũng thay đổi cái nhìn của ta về thế giới bên ngoài. Nhưng khi có đủ sáu căn, tiếp xúc với sáu trần, từ đó sinh ra các cảm thọ, các phản ứng.. Điều đó không thể tránh. Chúng ta không thể khôngcảm xúc. Một vị A-la-hán cũng có cảm thọ -dễ chịu, khó chịu hay trung tính. Ai cũng có cảm thọCảm thọ trung tính có thể ta không biết đến vì ta chưa có sự chú tâm đủ. Chúng ta chưa đủ chánh niệm. Nhưng với các cảm thọ dễ chịu ta nhận biết ngay, ta bám víu vào chúng, và tìm mọi cách để giữ chúng lại. Mọi nền kinh tế trên thế giới đều dựa vào việc tạo nên các cảm thọ dễ chịu, và tìm cách làm cho người ta càng muốn thụ hưỡng chúng nhiều hơn. Nếu mọi người đều từ bỏ các cảm thọ dễ chịu, thì có mấy nền kinh tế trên thế giới đứng vững được. Các cảm thọ dễ chịu phát sinh ra nhờ quạt máy, tủ lạnh, nệm êm, nước nóng, nước lạnh, đủ loại thực phẩm và còn nhiều, nhiều nữa.

 Ai cũng có cảm thọ: dễ chịu, khó chịu hay trung tính. Chúng dấy khởi liên tục. Phần đông chúng ta bỏ cả cuộc đời mình để đi tìm, nắm giữ các cảm thọ dễ chịu, và xua đuổi, trốn tránh các cảm thọ khó chịu. Một cuộc chiến đấu vô vọng. Không tưỡng. Vì không ai có thể nắm giữ mãi các cảm thọ dễ chịu. Cũng không có ai có thể trốn tránh các cảm giác khó chịu mãi. Khi ta già đi -các cảm thọ khó chịu tăng lên so với lúc trẻ. Không có sự ngoại lệ đối với ai cả. Đó là định luật tự nhiên. Cái chết sẽ đến, đi kèm theo với những cảm thọ khó chịu. Tuy nhiên các khổ thọ nầy không chỉ dành cho tuổi già, cho những người gần đất xa trời. Các người trẻ nhất, mạnh nhất cũng đầy những cảm giác, tình cảm khó chịu, đau khổ.

 Nếu ta quyết ngồi yên giây lát, tự soi lại mình, không còn chạy trốn các cảm giác khó chịu, đau khổ, bám chặt vào các cảm giác dễ chịu -có thể chỉ trong một buổi thiền- ta sẽ biết về mình rất nhiều. Quan sát các khổ thọ dấy lên trong khi ngồi thiền -điều nầy sẽ xãy ra cho nhiều người trong chúng ta- cũng là một cách để tìm hiểu các phản ứng hành động của chính mình. Ta muốn thay đổi cảm giác đó, muốn chạy trốn nó. Một phản ứng gần như phản xạ, lập tức đối với cảm giác khó chịu là di chuyển, thay đổi thế ngồi để tránh sự đau đớn càng sớm càng tốt.

 Trong đời sống hằng ngàychúng ta trốn tránh các khổ thọ bằng cách trốn tránh, xa lánh những người đã tạo cho ta các cảm giác đó, chạy trốn hoàn cảnh, đổ lổi cho người khác, thay vì nhận biết các cảm thọ của mình và nói: “À, nó đã dấy lên. Nó sẽ ở lại giây lát, rồi đi qua. Không có gì tồn tại. Nếu ta nhận biết được cảm thọ của mình, là ta đang soi lại nó trong chánh niệm, thay vì phản ứng bằng hành động”.

 Phản ứng của chúng ta, bằng cách xua đuổi các khổ thọ, bám giữ các lạc thọ, là lý do khiến chúng ta luẩn quẩn trong vòng luân hồi sinh tử, vì ta không có một phương hướng, một ngã rẻ nào khác. Đó là sự chuyển động trong một vòng tròn. Ta không thể thoát khỏi sức hút của nó. Đó là một trò chơi quay vòng. Không có lối ra. Chúng ta quay vòng, quay vòng theo lạc thọ, xua đuổi các khổ thọ, một vòng tròn không kẻ hỡ. Chỉ có một cách để thoát khỏi sức hút đó, là ngưng lại quan sát các cảm thọ và không phản ứng bằng hành động. Nếu trong lúc ngồi thiền, ta có thể làm được như thế dù chỉ trong giây lát, thì ta cũng có thể làm được như thế trong các sinh hoạt đời thường.

 Tất cả chúng ta ai chẳng từng buồn phiền, khổ đau trong cuộc đời. Người nầy nói lời trái tai ta không muốn nghe. Kẻ khác làm những điều ta không muốn thấy. Ta bị hiểu lầm, người khác không nhớ ơn ta, không ngợi khen, không thương yêu ta. Người ta bỏ đi khi ta muốn giữ họ lại. Họ ở bên ta, khi ta muốn xa lánh họ. Không ai tránh khỏi những đau khổ nầy. Chính Đức Phật cũng không tránh khỏiĐức Phật chỉ khác chúng ta là Ngài chỉ cảm nhận các cảm thọ, mà không phản ứng bằng hành động.

 Chỉ nhận biết các cảm thọ. Khi các cảm giác khó chịu dấy lên vì phải ngồi lâu một chổ, đừng trách móc ai, hay việc gì. Không có ai hay việc gì tạo ra các cảm giác đó cả. Chúng chỉ đến rồi đi. Quan sátnhận biết cảm gíac đó. Ta sẽ không thể thay đổi được gì, trừ khi ta có thể tách mình ra khỏi cảm giác khó chịu đó, để không đau khổ vì nó. Ta không thể làm khác hơn thế. Trong hòan cảnh nầy ta chỉ cần biết các cảm giác khó chịu cũng chỉ là cảm giác. Không ai là chúng cả. Ta đâu có mời chúng đến. Vậy tại sao lại nhận chúng là mình?

 Trừ khi chúng ta nhận biết được những gì xảy ra cho tâm khi những cảm giác nầy dấy lên, chúng ta sẽ lại rơi vào thói quen phản ứng của mình. Những suy nghĩ quen thuộc, các phản ứng theo thói quen, ngày nầy qua ngày khác đã tạo thành rãnh, thành nếp trong tâm tưỡng ta. Giống như một con đường sình lầy, khi bánh xe chạy qua chạy lại, các vết lún, càng lún sâu thêm. Tâm của ta cũng thế. Các vết lún sâu, sâu mãi cho đến lúc ta bị dính cứng một chổ, không thể tiến tới nữa.

 Đây là cơ hội, hòan cảnh thuận tiện để chúng ta quan sát phản ứng của tâm đối với các cảm giác khó chịu. Đừng phân tích “Ngồi như vầy máu không lưu thông được, không tốt cho tôi, các bác sỉ đã nói...”. Chỉ quan sát phản ứng của tâm. Tâm ta rất khôn ngoan, lém lỉnh. Nó có thể làm tất cả mọi việc. Ta gọi nó là nhà ảo thuật, cũng không sai. Nó có thể biến hóa ra con thỏ trong chiếc nón không. Nó có thể phân tích, lý luận đến chỗ mà ta thấy tất cả mọi người khác đều sai, và ta thì luôn luôn đúng.

 Đó là điều ta phải luyện tập trong lúc tu tập thiền: Không thể lúc nào ta cũng hòan toàn đúng, 100 phần trăm đúng. Phần lớn chúng ta tranh cãi đều để bảo vệ một lập trường, dựa trên quan điểm của chính cá nhân ta. Vì ta chấp ngã, chấp có ‘cái tôi’ ảo tưỡng, tất cả các quan điểm, ý kiến của chúng ta đều được lọc qua con mắt của Ngã. Nếu ta nhìn qua một màn kính màu đen, tất cả mọi thứ bên ngoài đều đen. Không thể là gì khác hơn thế.

 Khi ta đã thấu rõ tâm, cũng như các phản ứng của nó qua thiền định, chúng ta dễ chấp nhận sự thật là khi ta nghĩ một điều, bốn triệu người khác có thể nghĩ về một điều hòan toàn khác ta. Làm sao có thể là ta đúng và bốn triệu người còn lại sai? Chúng ta tranh cãi bảo vệ cho những quan điểm -đôi khi có thể đúng- nhưng chỉ đúng trong hòan cảnh, cái nhìn của riêng ta. Chỉ có các vị A-la-hán, những người đã không còn chấp Ngã, là có thể hoàn toàn đúng.

 Tất cả các phương pháp nhằm giúp ta đạt được sự tỉnh giác, cần được áp dụng không phải chỉ trong lúc tâm đang theo dỏi hơi thở, mà cả khi tâm phản ứng theo cảm thọ, hay vọng tưởng. Ta cần phải luôn áp dụng chúng để đạt được sự tỉnh giác, và từ đó đưa đến sự an lạc. Mỗi phút tỉnh giác là mỗi phút thanh tịnh. Khi không còn cần phải để ý đến các suy tưởng của mình, ta dễ buông bỏ chúng hơn. Khi không còn cần phải phản ứng theo các cảm thọ, ta dễ buông bỏ các hành động, phản ứng. Mỗi phút thanh tịnh cũng là mỗi phút tỉnh giác. Cả hai đi đôi với nhau như hình với bóng.

 Những điều Phật dạy đi ngược lại với bản năng của chúng ta, do đó không dễ cho ta chấp nhận, thấu hiểu. Chỉ có tâm đã được tôi luyện mới có thể thấu hiểu được Phật pháp. Trong khi tâm bình thường nghi ngờ, lý luận -đó chỉ là việc làm lãng phí thời gian, vô bổ. Muốn thật sự hiểu được Phật pháp bằng chính nội tâm của mình, ta phải nhiếp tâm, giữ tâm tĩnh lặng, và tâm đó phải biết bản chất thực của Ngã, chỉ là những hiện tượng đến, rồi đi.

 Tất cả có thể xảy ra trong lúc ta ngồi thiềntheo dõi hơi thởThanh tịnhtỉnh giácTỉnh giác (Minh Sát Tuệ) là mục đíchThanh tịnhphương tiện. Nếu tâm không thanh tịnh, tâm sẽ đầy những luồn sóng, sóng của sự ghét, sự ưa. Các làn sóng sẽ phủ trùm mắt nhìn của ta. Ta sẽ không thể soi thấy mình trên một mặt hồ đầy sóng phủ. Mặt nước phải lặng, trong. Cũng thế, mặt hồ tâm cũng phải lặng, trong trước khi tâm được khai sáng. Lúc đó ta mới có thể thấy thấu suốt, rõ ràng.

 Thiền định cũng đem lại cho ta những kết quả tương tự. Khi chúng ta chú tâm, theo dỏi từng cử động, thanh tịnh sẽ đến. Nếu vọng tưỡng có dấy lên, ta dùng chúng để nhận biết những diễn biến của tâm.

 Việc đặt tên các vọng tưởng cũng là một cách để theo dõi tâm, trong lúc ngồi thiền, cũng như trong các sinh hoạt hàng ngày. Khi có tâm sân si dấy lên, người có chánh niệm sẽ biết buông bỏ chúng. Đó là phương thức để thanh tịnh hóa tâm. Và sự thanh tịnh của tâm tùy thuộc vào sự thanh tịnh hóa của tâm. Sự thanh tịnh hóa cũng có thể đạt được qua tỉnh giác, qua sự ‘biết’ chính mình. Việc đặt tên cho ta biết tâm đang nghĩ gì. Nhưng khi thực tập thiền, tất cả các tên đặt, các tư tưởng đều phải được buông bỏTrong đời sống hằng ngày, những thứ tên gọi không ích lợi, không tốt cần được buông xả. Khi ta đã làm được như thế là ta đã thanh tịnh hóa tâmCon đường dẫn đến sự thanh tịnh chấm dứt mọi khổ đau.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15482)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22897)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13953)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12898)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54953)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9060)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14343)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14084)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14118)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13811)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36154)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19783)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18096)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19099)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19044)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20192)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17547)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31381)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15848)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14895)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14612)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46044)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35795)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20950)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21472)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23250)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34165)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19404)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18821)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22831)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20086)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18271)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19737)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19453)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33303)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34308)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54358)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37551)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21043)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17797)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63456)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17280)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49478)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27259)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20169)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22896)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18811)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16253)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17796)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20851)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17270)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14388)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16785)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16285)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15926)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17388)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21857)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15008)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13408)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14301)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15305)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14907)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12588)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13274)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27315)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12425)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13114)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14405)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16128)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12326)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15310)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12806)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12131)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13112)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21508)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11204)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22574)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14940)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14858)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46044)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22321)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14378)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12519)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18799)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14631)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43704)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56807)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13759)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47343)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13565)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14466)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28876)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33171)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38251)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15328)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31099)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40211)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43245)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46469)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant