Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

10- Cảm nghĩ về một bài thơ xuân

14 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 7161)
10- Cảm nghĩ về một bài thơ xuân

THẨM MỸ MÙA XUÂN

Thích Thông Huệ 

10- CẢM NGHĨ VỀ MỘT BÀI THƠ XUÂN

Xứ Kinh Bắc, cái nôi của nền văn minh lúa nước sông Hồng, là quê hương những người con ưu tú của đất Việt: Chàng trai châu Cổ Pháp (làng Ðình Bảng) Lý Công Uẩn, tức vua Lý Thái Tổ, người mở đầu cơ nghiệp nhà Lý, người ban chiếu dời đô tạo dựng Thăng - Long thành là Hà Nội ngày nay; vua Lý Thánh Tông, người đã có quyết định táo bạo nhưng sáng suốt - lập Nguyên phi Ỷ Lan làm Nhiếp chính, góp công giữ vững giang sơn, mở rộng cõi bờ. Kinh Bắc là quê mẹ của đại thi hào Nguyễn Du với những áng thơ nôm tuyệt tác Kim Vân Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh. Kinh Bắc có làng quan họ Bắc Ninh, nơi nổi tiếng với những khúc ca đối đáp của những “liền anh, liền chị”, từ tục hát chào đón vua Lý Thánh Tông về thăm quê, biến đổi thành lối hát hội của cả 49 làng quan họ.

Xứ Kinh Bắc cũng là quê hương của Trạng nguyên Lý Ðạo Tái (1254-1334), người cùng Ðại tướng Trần Khắc Chung ủng hộ cuộc lương duyên của Công chúa Huyền Trân cùng vua Chiêm Chế - Mân, đổi lấy sự bang giao giữa hai nước Việt - Chiêm và hai châu Ô - Lý làm sính lễ. Trạng nguyên xuất thân dòng dõi quan liêu nhưng thân phụ lại không tham dự triều chính. Từ nhỏ, Ngài đã sớm thông minh tài trí hơn người, lại có tâm hồn nghệ sĩ.

Năm 21 tuổi, Ngài đỗ đầu kỳ thi Tiến sĩ, được bổ nhiệm tại Hàn Lâm Viện. Khi thấm nhuần Phật pháp, Ngài dâng biểu từ quan, xuất gia theo hầu Sơ Tổ Trúc Lâm Ðiều Ngự Giác Hoàng. Ðược kế thừa ngôi vị, làm Tam Tổ dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, Ngài ủy thác mọi việc trong Giáo hội cho Quốc sư An Tâm, sớm chiều ngao du tự tại. Tâm hồn thi nhân ẩn tàng trong phong cách Thiền sư, nên thơ văn của Ngài dường như man mác tình cảm, mà phần đông người xem cho là đượm màu thế tục. Bài thơ Xuân nhật tức sự (Tức cảnh ngày xuân) sau đây là một trong những bài thơ của Ngài bị hiểu lầm nhiều nhất:

Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
Khả liên vô hạn, thương xuân ý,
Tận tại đình châm, bất ngữ thì.

Nghĩa:

Cô gái mười sáu tuổi ngồi thêu gấm,
Dưới khóm hoa tử kinh, chim hoàng oanh hót.
Ðáng thương vô cùng, thương ý xuân,
Chỉ ở chỗ dừng kim không nói.

Dịch thơ:

Mỹ nhân mười sáu ngồi thêu gấm,
Hoa nở, hoàng oanh hót rộn ràng.
Ðáng thương vô hạn, thương xuân ý,
Thương chỗ dừng kim, chẳng nói năng.

Theo cách hiểu thông thường, đây là bài thơ tả cảnh có lồng vào tình cảm của tác giả đối với nhân vật trong thơ. Bức tranh tố nữ được phác thảo bằng một bàn tay tài hoa - chỉ hai câu thơ đầu mà đủ cả sắc thinh hương:

Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.

Khung cảnh êm ả của một ngày xuân nắng ấm, không khí trong lành thoang thoảng mùi hương huyền ảo - hương của hoa hay của người đẹp tuổi trăng tròn đang ngồi thêu gấm? Tiếng chim hót líu lo như những nét chấm phá tô điểm cho bức tranh Xuân. Hoa và người, vẻ đẹp thuần khiết gần với cái chân mỹ của thiên nhiên, như Xuân Diệu đã từng rung động:

Xuân đầu mùa trong sạch vẻ ban sơ,
Hương mới thắm bền ghi như thiết thạch.

Hương xuân đầu mùa của nét đẹp trinh nguyên, tuy mơ hồ mà ghi đậm nét vào ký ức. Cái đẹp đâu dành cho riêng ai, nhưng cũng không phải là sở hữu của tất cả mọi người, chỉ hiện bày cho người biết trân trọng, biết thưởng thức. Tâm hồn nghệ sĩ một lần diễm phúc được tiếp xúc với cái thuần thiện thuần mỹ, bỗng thoát xác, thăng hoa, người và cảnh như hòa nhập với nhau trong một thực tại vô ngôn. Lúc ấy, chỉ cần vài nét phóng bút đã có một bức họa để đời, một vài lời nhạc đã làm bài hát trở thành bất tử!

Khả liên vô hạn, thương xuân ý,
Tận tại đình châm, bất ngữ thì.

Người đẹp đang thêu, nghĩ ngợi điều chi mà dừng kim không mở lời? Có phải tiết xuân ấm áp, hoa xuân tươi thắm, khí xuân chan hòa khiến lòng xuân cảm thấy nao nao? Ðôi mắt cô mơ màng, nhìn xa xôi không nói nhưng thầm nói bao điều. Nguyễn Bính một hôm nhìn qua nhà bên cạnh, cũng bất chợt gặp được khoảnh khắc “bất ngữ thì” của cô láng giềng:

Ðã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong.

Hai ý thơ tuy khác lời nhưng lại gặp nhau ở nơi chưa nói: Một người tả cô gái dừng tay thêu gấm, người kia vẽ nên cảnh người đẹp hàng xóm, ngước mắt nhìn trời. Cô không cần mở lời, vì chẳng phải “đôi mắt trong” kia đã là cửa sổ tâm hồn cô đó ư? Chỉ khác một điều, người nầy mạnh bạo nói thẳng “thương vô hạn”, còn người kia, bằng sự nhắc lại một cách xót xa “Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm” như tự nhận rằng, tuy gần nhau đấy nhưng vẫn cách xa vạn dặm. Chao ôi là tài hoa, những ngọn bút thi nhân tức cảnh sinh tình!

Người đọc có thể thông cảm, có thể ca ngợi tài nhả ngọc phun châu của thi sĩ Trạng nguyên Lý Ðạo Tái. Nhưng đối với Thiền sư Tam Tổ Huyền Quang, thì những lời thơ dạt dào tình cảm đời thường như thế khó lòng được chấp nhận. Không những Ngài Huyền Quang bị nhiều người đương thời lên án, mà ngay cả một số nhà nghiên cứu phê bình ngày nay cũng đánh giá khá khe khắt về Ngài.

Có rất nhiều lời ca tụng vua Trần Nhân Tông như một minh quân, một Thiền sư đạt đạo, một vị Tổ khai sáng dòng Thiền Việt Nam: “Trần Nhân Tông không chỉ là nhà chính trị nhìn xa trông rộng mà còn là nhà quân sự có tài; không chỉ là nhà ngoại giao mà còn là nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ; không chỉ là vị quân vương mà còn là nhà tu hành; không chỉ là nhà văn hóa mà còn là Thiền sư lỗi lạc”(1) hoặc “Thiền của Trúc Lâm Yên Tử là thiền gì?Ðó chính là Tổ Sư Thiền.

Ðạo Phật mà Trần Nhân Tông đã ngộ là đạo Phật gì? Ðó chính là đạo Phật Thiền. Và trí tuệTrần Nhân Tông đã đạt đượctrí tuệ gì? Ðó chính là trí tuệ Phật, còn gọi là trí tuệ siêu tuyệt, trí tuệ tối thượng thừa” (2). Ngược lại, nói về Tam Tổ Huyền Quang thì: “... Vậy mà Phật giáo đời Trần, với biểu tượng Trúc Lâm Yên Tử đã không tồn tại được quá ba đời. Tổ thứ ba Huyền Quang đã không gánh nổi công việc tăng tiến Giáo hội, chủ yếu được nhìn nhận như một thi nhân” (3)

Thật ra, sự khen chê vốn không cùng, và tùy thuộc ý kiến chủ quan của mỗi người. Hành vi, cử chỉ và ngôn phong của các Thiền sư cũng không dễ hiểu thấu, huống gì việc phán đoán phê bình. Những tài liệu về cuộc đời Ngài Huyền Quang cho đến nay hầu như chỉ còn quyển Tổ Gia Thực Lục, vốn có nhiều chi tiết huyền bí khó tin khó nhận. Người đời sau không biết gì về hành trạng của Ngài, như Ngài ngộ đạo trong hoàn cảnh nào, dạy dỗ đồ chúng ra sao, trạng thái lúc thị tịch có gì đặc biệt, môn đệ truyền thừa gồm những ai... Phần thi văn của Ngài cũng chỉ còn hai mươi ba bài thơ chữ Hán và một bài phú chữ Nôm.

Vì thế, theo quan niệm thế gian, Ngài Huyền Quang chỉ là một Trạng nguyên đi tu, chưa thoát khỏi sự dính mắc với cảnh và người. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm nhà Thiền, Ngài Huyền Quang là một Thiền sư đạt đạo, là vị Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, kế thừa Tổ thứ hai Pháp Loa. Những bài thơ của Ngài phần nhiều đều mượn cảnh để tỏ ý, mượn lời hoa mỹ để chuyển tải lý đạo.

Trở lại bài thơ Xuân nhật tức sự. Thiền sư Huyền Quang đã cảm nhận một cách tinh tế sự toàn mỹ của bức tranh tố nữ ngồi thêu dưới nắng xuân, nhưng không có sự rung động thường tình của nghệ sĩ, càng không có sự đắm luyến thế tục trước một người con gái yêu kiều. Toàn bài chỉ trở về một câu duy nhất: “Tận tại đình châm bất ngữ thì”. Thương vô hạn, nhưng không thương nơi người nơi cảnh, mà thương ở chỗ dừng kim không nói. “Dừng kim” nghĩa là không còn đan dệt nghiệp, tạo nhân luân hồi sinh tử. “Không nói” là đến chỗ vô ngôn, cứu cánh của nhà Thiền.

Ngôn ngữvăn hoa trau chuốt đến mấy, cũng vẫn còn trong vòng đối đãi - có tốt xấu, có thị phi, có nhân ngã. Chân lý tuyệt đối không thể dùng lời để diễn tả, không thể dùng ý để nghĩ suy, càng không thể nhờ suy luậnbiện biệt. Người đạt đạo không còn kẹt trong phân biệt hai bên nên không chỗ mở lời, không còn tạo nghiệp nên thoát vòng kềm tỏa của sinh tử. Ấy chính là GIÁC NGỘGIẢI THOÁT, mục đích tối hậu của đời tu.

Bốn câu thơ sau đây trong bài “Diên Hựu tự” có thể phần nào diễn đạt nội dung tâm chứng của Ngài Huyền Quang:

Vạn duyên bất nhiễu thành già tục,
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan.
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.

Nghĩa:

Muôn duyên chẳng rối nào ngăn ngại,
Nửa điểm không phiền mắt rộng thang.
Tham tột thị phi tướng bình đẳng,
Cung ma, cõi Phật đẹp ngang hàng.(4)

Người đã uống một hớp cạn hết nước Tây giang, không còn cùng làm bạn với muôn pháp. Chẳng còn duyên nào làm rối loạn, chẳng còn điểm nào làm phiền não, thì tâm bao trùm pháp giới, tầm mắt mở rộng thênh thang. Tham cứu đến tột cùng bản chất mọi sự vật, thấu triệt tính bình đẳng giữa thị và phi, giữa Bồ-đề và phiền não, giữa Niết-bàn và sinh tử, giữa Phật quốcma cung, thì Ta-bà hay Tịnh độ cũng chỉ ở tại đây và bây giờ. Lúc này sử dụng hành động hay ngôn từ nào, các Ngài cũng đều từ tục đếtỏ bày chân đế, cốt khai thị cho đương cơ thầm nhận bản tâm thanh tịnh của chính mình. Ðương cơ nếu chấp vào hình thức văn tự, sẽ bị trói buộc vào mớ bòng bong của ý thức suy luận, từ đó xa cách muôn trùng với ý Tổ sư.

Mượn thi ca diễn đạt thiền lý không phải chỉ ở Việt Nam, cũng không phải chỉ có từ đời Trần. Từ thời Lục Tổ Huệ Năng ở Trung Hoa với bài kệ trình kiến giải “Bổn lai vô nhất vật...”, Thiền tông ngày càng phát triển mạnh mẽ và song song đó, thi ca cũng nhuốm mùi thiền vị. Ðường-Tống là thời kỳ hoàng kim của thiền, cũng là giai đoạn phát triển rực rỡ của nền thi ca Trung Quốc. Các nhà thơ nổi tiếng như Ðỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Tô Ðông Pha đều có những bài thơ man mác hương thiền; ngược lại, nhiều vị Thiền sư cũng mượn lời thơ chuyển tải chân lý. Theo tư tưởng Triết học Ðông phương, ấy là đem Hình nhi hạ để biểu hiện Hình nhi thượng, tức mượn vật để sáng lý, mượn cái hữu hạn vô thường để chỉ bày cái vô hạn thường hằng bất hoại. Có người bảo: “Thơ là chiếc áo gấm thêu hoa của thiền khách, thiền là chiếc dao gọt ngọc của thi gia” (5).

Mới nhìn qua, ta cảm thấy thơ và thiền thật khác nhau trời vực. Một bên là ngôn ngữ sản phẩm của ý thức, bên kia là nội dung tâm chứng từ trực giác. Một bên diễn tả tư tưởng chủ quan với đối tượng người hay cảnh, mà độc giả có thể đồng cảm, có thể hiểu thấu; bên kia lại ở nơi “đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt” (ngôn ngữ đoạn đạo, tâm hành xứ diệt), chỉ có thể tự ngộ tự tri. Tuy nhiên, trải qua những quá trình dung hợp, trong đó ngôn ngữ thi cahình thức biểu trưng tâm ý của Thiền giả, còn thiền lý, lại làm lời thơ thêm vẻ sâu sắc ý vị, sự hòa hợp giữa thiền và thơ trở thành như nước với sữa.

Thiền sư Thiên-Y Nghĩa-Hoài có bốn câu kệ để đời:

Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy 
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

Nghĩa:

Nhạn bay trong không 
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để dấu
Nước không có tâm giữ bóng.

 Có chữ nào nói đến đạo lý, vậy mà toàn bài diễn đạt được cái rốt ráo của thiền. Bài kệ về hoa sen của Thiền sư Phật Giám cũng nhân cảnh mà tỏ ý, nhân sự việc tương đốitỏ bày chân lý tuyệt đối:

Hương bao lãnh thấu ba tâm nguyệt,
Lục diệp khinh diêu thủy diện phong.
Xuất vị xuất thời quân khán thủ,
Ðô lô chỉ tại nhất trì trung.

Nghĩa:

Trăng lòng sông, búp thơm lạnh buốt,
Gió mặt hồ, lá thắm đong đưa.
Mọc hay chưa thì anh xem đấy,
Ðều chỉ nằm trong một cái hồ. (5)

Và đây là những bài thơ thắm đượm hương thiền của một số nhà thơ Ðường - Tống:

Nhân nhàn quế hoa lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn không.
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh xuân giản trung.
Vương Duy

Nghĩa:

Người nhàn, hoa quế rụng,
Ðêm tĩnh, núi quạnh hiu.
Trăng mọc, chim rừng tỉnh,
Khe xuân, thỉnh thoảng kêu.
Ðỗ Tùng Bách dịch.

Hoặc: 

Thủy lưu tâm bất cảnh,
Vân tại ý câu trì.
Ðỗ Phủ.

Nghĩa:

Nước chảy, tâm không động,
Mây ngưng, ý lặng dừng.

Có khác gì “Ðối cảnh không tâm chớ hỏi thiền”, có khác gì “Thương chỗ dừng kim chẳng nói năng”? Bao nhiêu ngôn từ chữ nghĩa, bao nhiêu phương tiện lập bày chỉ để nhắm đến cái “không thể nói”. Cho nên, sách Trinh Nguyên Lục Thư viết “Ðiều mà thơ muốn mọi người lãnh hội chẳng phải là điều thơ nói, mà là những điều vượt ra ngoài hình tượng mà thơ không nói ra được”.

*****
Cuộc đời Tam Tổ Huyền Quang, gẫm ra có khá nhiều điều không như ý - lúc còn trẻ, do dung nhan kỳ lạ và gia cảnh bần hàn nên tuy sớm định hôn ước mà chưa được thành thân. Thấy rõ tình đời bạc bẽo, nên khi đỗ Trạng nguyên, được nhà vua gả công chúa, Ngài vẫn một mực chối từ:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn,
Ðến khi đỗ Trạng tám nghìn nhân duyên.
Trở thành người đứng đầu Giáo hội, Ngài lại bị hiểu lầmcung nữ Ðiểm Bích - vụ án đầy tai tiếng do vua Trần Minh Tông lập bày để thử thách đạo hạnh của người tu. Tuy nhiên, một vị Thiền sư đã tự tại trước tám gió, có khi nào bận lòng trước lời khen chê của thiên hạ?
Thủ bả xuy thương hòa mộc đạc,
Tùng giao nhân tiếu lão tăng mang.
Nghĩa:
Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo,
Thiên hạ cười ta, cứ mặc tình.
Nguyễn Lang dịch.
Thiền sư và nghệ sĩ tuy hai mà một - hình ảnh dung hợp thật đẹp đẽ giữa Thiền học và nghệ thuật đời thường. Mặc ai hiểu mặc ai không hiểu thấu, Ngài không động tâm vì biết tất cả đều hư dối không thật. Nhị tổ Huệ Khả ở Trung Hoa, lúc cuối đời thường đến những chốn trà đình tửu điếm, có khi giữa đám đông thuyết pháp hoặc làm những nghề lao công nặng nhọc.
Có người hỏi sư:
- Thầy là nhà tu, tại sao làm như thế?
Sư đáp:
- Ta tự điều phục tâm, đâu có quan hệ gì đến việc của ngươi? (6)
Ðó là phong cách của người tu đạt đạo, luôn an nhiên tự tại trước mọi tình cảm của người đời và mọi thử thách của cảnh ngộ. Bởi vì “Tham tột thị phi bình đẳng tướng” nên không kẹt vào đối đãi hai bên. Thấu triệt tận căn để Lý Bất nhị - chân lý tuyệt đối của nhà Phật, hành giả không còn lời nào để nói mà chỉ biết im lặng tự tri. Cái im lặng sấm sét nầy đã được thể hiện nơi Ðức Phật khi đóng cửa thất ở nước Ma-Kiệt, nơi cư sĩ Duy Ma khi ngậm miệng ở thành Tỳ-Da, và bây giờ cô gái “Tận tại đình châm bất ngữ thì”. Người tu nào không mong nhận ra và thương nơi chỗ dừng kim không nói?
Xin mượn lời Thiền sư Vĩnh-Gia Huyền-Giác trong Chứng Ðạo Ca - viên ngọc quý trong gia tài thi ca của nhà Thiền - để kết thúc bài này:
Nhật khả lãnh, nguyệt khả nhiệt,
Chúng ma bất năng hoại chân thuyết?
Tượng giá tranh vanh mạn tiến đồ,
Thùy kiến đường lang năng cự triệt?
Ðại tượng bất du ư thố kính,
Ðại ngộ bất câu ư tiểu tiết.
Mạc tương quản kiến báng thương thương,
Vị liễu, ngô kim vị quân quyết.
Nghĩa:
Nhật dù lạnh, nguyệt dù nóng,
Lời chân thật ma nào phá hỏng.
Xe voi ngạo nghễ cứ tiến lên,
Mặc sức bọ trời theo ngăn chống.
Voi lớn chẳng đi theo dấu thỏ,
Ngộ lớn nệ gì nơi tiết nhỏ.
Chớ dòm trong ống mỉa trời xanh,
Chưa tỏ, vì anh ta giải rõ!
Thông Phương dịch.
(1) Nguyễn Hùng Hậu: Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam. NXB Khoa học xã hội - 1997, tr. 119
(2) Thượng tọa Thích Thanh Thế: Ðạo đức trí tuệ Trần Nhân Tông... Trần Nhân Tông, vị vua Phật Việt Nam - NXB Tổng hợp TP HCM - 2004, tr. 291

(3) Văn Quân: Phật giáo đời Trần và văn hóa Ðại Việt - Trần Nhân Tông, vị vua Phật Việt Nam - NXB Tổng hợp TP HCM - 2004, tr. 191.

(4) Hòa thượng Thích Thanh Từ: Tam Tổ Trúc Lâm giảng giải - NXB TP HCM - 1997, tr. 619.

(5) Ðỗ Tùng Bách: Thơ Thiền Ðường - Tống. NXB Ðồng Nai - 2000, tr. 306 - 292.

(5) Ðỗ Tùng Bách: Thơ Thiền – Ðường - Tống. NXB Ðồng Nai - 2000, tr. 306 - 292

(6) Hòa thượng Thích Thanh Từ: Sử 33 vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa - Nhà in Hợp Thịnh - 1972, tr. 181
Vi tính: Nguyên Trang
Người gửi bài: Toàn Trung
07-12-2007 06:23:12

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15544)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22979)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14008)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12936)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55072)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9122)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14406)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14141)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14166)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13867)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36265)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19851)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18149)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19170)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19093)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20262)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17610)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31490)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15896)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14951)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14649)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46136)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35884)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21012)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21564)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23348)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34331)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19456)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18911)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22903)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20145)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18315)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19811)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19506)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33378)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34431)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54465)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37655)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21104)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17857)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63583)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17347)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49605)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27372)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20247)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22996)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18876)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16308)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17888)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20922)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17332)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14436)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16836)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16352)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15983)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17448)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21942)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15082)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13469)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14344)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15357)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14959)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12671)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13323)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27364)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12485)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13165)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14451)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16188)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12374)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15374)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12847)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12172)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13179)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21598)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11259)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22679)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15033)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14920)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46166)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22407)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14523)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12599)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18880)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14705)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43830)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56925)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13811)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47445)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13629)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14548)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28972)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33256)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38316)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15377)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31184)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12508)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40356)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43371)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46614)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant