Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hình Ảnh Con Trâu Trong Nhà Thiền Trúc Lâm

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 13056)
Hình Ảnh Con Trâu Trong Nhà Thiền Trúc Lâm


Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam

Nhưng điều đáng nói là từ hình ảnh chú tiểu (mục đồng) chăn trâu, thổi sáo vi vu trên đồng xanh ruộng lúa, để rồi nó trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật (thí dụ, ẩn dụ, điển cố) trong văn học Phật giáo nói chung, văn học thiền tông nói riêng.

Nhớ lại thuở còn thơ, ta thường nghe lời ru của mẹ “Trâu ơi ta bảo trâu này, trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta”, rồi lớn lên, hình ảnh con trâu theo cuộc sống mà hiền hòa thể nhập vào lòng mọi người theo thời gian năm tháng. 

Thế rồi, hình tượng con trâu nghiễm nhiên trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo trong văn chương qua ca dao, thi ca nghệ thuật. Người đọc bắt gặp ở đó những triết lý, thông điệp sống hướng thiện được ẩn tàng qua lớp ngôn từ nghệ thuật.

Khi đạo Phật vào Việt Nam, hình ảnh con trâu lại được minh họa cho những triết lý uyên áo thâm nghĩa của kinh điển Đại thừa. Những bản kinh như Pháp Hoa, Duy Ma, Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, Tứ thập nhị chương, Di Giáo…, có rất nhiều phẩm, chương, đoạn được Đức Phật dùng hình ảnh con trâu như là thủ pháp nghệ thuật để diễn đạt các giá trị nội dung thông điệp văn bản và giá trị thông điệp giải thoát tâm linh đối với người học đạo

Ai từng đọc kinh Pháp Hoa, một bộ kinh ẩn tàng nhiều triết lý uyên áo của giáo nghĩa kinh văn Đại thừa, tức sẽ thấy kinh này có đến 9 dụ: dụ Nhà lửa (phẩm Thí dụ 3), dụ chàng Cùng tử (phẩm Tín giải thứ 4), dụ Cỏ thuốc (phẩm Dược thảo thứ 5), dụ Hóa thành (phẩm Hóa thành dụ thứ 7), dụ Cột châu chéo áo (phẩm Ngũ Bá đệ tử thọ ký thứ 8), dụ Cao Nguyên đào giếng (phẩm Pháp sư thứ 10), dụ Viên Minh Châu trong búi tóc (phẩm An lạc hạnh thứ 14), dụ Cha trẻ con gìa (phẩm Tùng Địa Dũng xuất thứ 15), dụ Vị lương y (phẩm Như Lai thọ lượng thứ 16)(1). 

Trong đó, phẩm Thí dụ chứa nội dung tiêu biểu, có giá trị về thủ pháp nghệ thuật thí dụ. Phẩm kể về một trưởng giả giàu có, sở hữu một tòa nhà lớn nhưng chỉ có một lối ra. Con cái ông đang vui chơi trong đó, nhưng phút chốc ngôi nhà bốc cháy. Các con ông mãi vui chơi, không hề hay biết. Ông phải dùng các xe dê, xe hươu, xe trâu để dụ các con ông ra khỏi. Ngôi nhà lửa ở đây là ngôi nhà tâm thức chúng sinh trú ngụ, nó đang thiêu đốt bởi các ham muốn, nhu cầu của vọng tâm điên đảo. Các người con đang vui chơi nơi nhà lửa mà không hay biết nhà đang bốc cháy, dụ cho chúng sinh đang bị sinh, già, bệnh, chết đốt cháy. 

Trưởng giả dùng ba xe để dụ cho chúng sinh ra khỏi nhà lửa là Phật dùng ba thừa Thanh văn, Duyên giác, Phật thừa để dẫn dắt chúng sinh ra khỏi luân hồi. Điểm đặc trưng của thủ pháp thí dụ mà Phật diễn giải trong kinh điển mà ta khảo sát trên được Phật kết cấu theo mối quan hệ nhân quả khách quan trong triết lý nhân sinh cũng như trong đời sống thực. Việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật thí dụ để diễn đạt chân lý thì chân lý càng hiển lộcon người có thể thấu đạt. 

Bản kinh Tứ thập nhị chương, bài 41, Phật đã minh họa hình ảnh con trâu đi trong đám bùn sâu để chỉ cho hàng xuất gia cần phải nỗ lực tu hành mới ra khỏi cảnh luân hồi sinh tử, thoát khỏi hệ lụy phiền não: “Sa môn hành đạo như con trâu mang nặng đi trong bùn sâu, mệt nhọc đến mấy cũng không dám ngoái đầu nhìn hai bên, mà phải đi cho mau, rời khỏi bùn sâu mới được nghỉ ngơi. Sa môn coi ái dục còn hơn bùn sâu, nên thẳng tắp một mạchhành đạo, mới thoát khỏi sự khổ lụy”(2). 

Ngay những ngày Đức Phật sắp nhập Niết bàn, Đức Phật cũng giáo huấn hàng đệ tử của mình bằng hình ảnh chăn trâu để khuyến giáo họ về việc chánh niệm tỉnh giác, giữ gìn bản tâm thanh tịnh. Phật nói “Y như chăn trâu, cầm gậy canh chừng, không để nó buông lung phạm vào lúa mạ của người”(3). 

Rõ ràng, hình ảnh con trâu rất quen thuộc và gần gũi với chúng sinh, bản tính của trâu không hung hăng, thuần hậu, siêng năng, nhẫn nại, dễ điều phục, nhưng thỉnh thoảng vẫn làm bậy, ngu si. Kinh điển lấy hình ảnh trâu để nhấn mạnh đến sự vô trí có trong con người. Danh hiệu của Đức Phật là “Điều ngự sư” nên cũng có thể hiểu là Ngài là một người chăn, một người đánh xe kéo, đưa chúng sinh ra khỏi bể khổ, giải thoát an lạc.

Như vậy, hình ảnh con trâu đã được văn học Phật giáo diễn đạt rất bài bản, ẩn chứa những nội dung triết lý uyên áo, huyền diệu từ lâu, nhưng khi vào thế giới thi ca văn chương Thiền tông nói chung, văn chương Thiền phái Trúc Lâm đời Trần nói riêng, thì nó trở nên sinh độnghấp dẫn đến người học đạo trong tiến trình tu tập và thăng chứng của mỗi người. 

Không chỉ trong văn thơ, trong công án mà cả trong hội họa với bộ “Thập mục ngưu đồ" (Mười bức tranh chăn trâu). Tranh vẽ này thường được diễn đạt theo hai khuynh hướng: khuynh hướng Đại thừa vẽ lại quá trình tu chứng, từ việc tự thắng bản năng mình, đến tự tri và cuối cùngđạt đến tự tại; còn khuynh hướng Thiền tông thì khắc họa tiến trình thực nghiệm tâm linh với ba giai đoạn: sai tâm bắt tâm, tâm vô tâmtâm bình thường. Trong các công án của các thiền sư, được ghi trong các ngữ lục, hình ảnh con trâu hiện lên khá sinh động

Chẳng hạn, Thạch Củng một hôm đang làm việc trong nhà trù (nhà ăn), Mã Tổ hỏi: “Làm việc gì?. Sư thưa: “Chăn trâu”. - “Làm sao chăn thế?” - “ Một khi trâu vào cỏ bèn nắm mũi kéo lại”. - “Con thật là biết chăn trâu”. Hay trong một công án khác, ngài Phước Châu - Đại An hỏi ngài Bách Trượng: “Tôi khao khát muốn hiểu Phật pháp, việc đó như thế nào?”. Bách Trượng đáp: “Hệt như cưỡi trâu.” Hỏi: “Hiểu rồi như thế nào?” Đáp: “Như người cỡi trâu về nhà”. Hỏi: “Rồi làm sao giữ cho trước sau khế hợp?” Đáp: “Như người chăn trâu cầm roi giữ mình, đừng cho phạm vào lúa mạ của người”. 

Trong Vô môn quan, có ghi lại một công án rất hiểm hóc. Ngũ Tổ nói: “Ví như con trâu đi qua khung cửa, đầu sừng, bốn chân đã lọt, sao đuôi không lọt được”… Xem ra, từ hình ảnh con trâu trong kinh điển Đại thừa, rồi đến hình ảnh con trâu trong Thiền tông Trung Hoa, đều là biểu tượng của quá trình “hàng phục tâm”. 

Tuy nhiên, tùy theo đối tượng, tùy theo môi trường tu tập khác nhau mà về mặt hình thức, hình ảnh con trâu được xem là biểu tượng được thể hiện thành những cách biểu đạt khác nhau, với những tính chất độc đáo của nó. 

Trong thơ văn thiền phái Trúc Lâm đời Trần, biểu tượng con trâu được ngụ dưới hình thức là những con trâu bùn, trâu đất, hay trâu đá mang những phong thái đồng quê Việt Nam, con người Việt Nam. Đó là hình ảnh “Nhập hải nê ngưu thất cước trung” (Trâu bùn xuống biển mất hết tung tích”(4) trong thơ Trần Thái Tông, khi trả lời cho một hành giả học hỏi thế nào là vô vị chân nhân?. Trần Thái Tông trả lời: “Vô vị chân nhân càn thỉ quyết, Tòng giao Thích tử táng gia phong. Khan khan hướng hạ hoàn tri phủ, Nhập hải nê ngưu thất cước trung”(Người giác ngộ như cục phân khô, Người theo Phật thì mất hết gia phong. Không tin hãy nhìn xem rồi sẽ biết, Trâu bùn xuống biển mất hết tung tích). 

Trần Thái Tông phát biểu như thế, là tác giả ví người giác ngộ là người bước ra thế giới hữu ngã hư vọng muôn màu và huyễn ảo, bước vào thế giới vô phân biệt ngã và ngã sở, cũng như trâu bùn xuống bể chẳng thấy tung tích nào. 

Đúng như hình ảnh “trâu bùn” của thiền sư Long Sơn dùng để trả lời cho câu hỏi của Động Sơn trong Truyền Đăng ngữ lục: - “Thiền sư thấy đạo lý gì mà trụ trì núi này?” - Thiền sư Long Sơn đáp: - “Ta chỉ thấy hai con trâu bùn đánh nhau rồi chạy xuống bể. Từ bấy đến nay vẫn không tin tức gì”. 

Hay hình ảnh “Mục đồng địch lý quy ngưu tận” (Trong tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết”)(5) trong bài thơ “Thiên trường vãn vọng” chữ Hán của Trần Nhân Tông rất thân thuộc với con người qua cảnh chân quê dân dã, mộc mạc nhưng rất trữ tình. Có gì đẹp hơn chú mục đồng, cưỡi trâu, thổi sáo vi vu, tâm trong sáng, không vướng bận điều gì. Còn trong “Cư trần lạc đạo phú” được viết bằng chữ Nôm, ở hội thứ 9, Sơ Tổ Trúc Lâm đã viết: “Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu, răn đàn việt, lượm xá nghênh ngang”(6).

Thơ văn Lý - Trần giải thích: “Trâu thầy Hựu” tức là thiền sư Linh Hựu, hiệu Quy Sơn, chăn một con trâu ba mươi năm, hễ lạc đường vào cỏ rậm thì nắm mũi dắt về, hễ ăn lúa má của người thì đánh roi; thuần hóa lâu ngày, biến thành một con trâu trắng, ở bên mình suốt ngày. Lại một hôm, sư lên tòa nói: “Lão tăng một trăm năm sau sẽ biến thành một con trâu ở dưới núi”(7). 

Rất sống động và rất hồn nhiên, tự tại, nhưng có dấu ấn hơn hết vẫn là hình ảnh con trâu trong thơ của Tuệ Trung. Tác giả đã thi hóa quá trình điều phục trâu bùn như là quá trình điều phục tâm của mỗi người, trong bài Phóng ngưu, ông viết: “Ngẫu hứng Quy Sơn đắc đệ lân, Hoang vu cam tác mục ngưu nhân. Quốc vương đức trạch khoan như hải, Tuy phận ta ta thủy thảo xuân” (Quy Sơn xóm nọ bỗng quay sang, Cam nhận chăn trâu chốn nội hoang. Ơn đức quốc vương như biển cả, Riêng vui cỏ suối với hoa ngàn”(8). 

Hơn ai hết, Tuệ Trung trong cuộc hành trình tìm về miền đất an lạc, từ việc tự nhận làm kẻ chăn trâu cho chính mình và cũng tự mình chuyển hóa hình tượng con trâu ban đầu thành hình tượng con trâu đất Việt Nam quen thuộc ngày nào. Nhưng việc chăn trâu đâu có dễ dàng gì, nó đòi hỏi công phu, kiên nhẫn để điều phục, thuần tịnh “Kim tiên đả sấn nê ngưu tẩu, Thiết sách khiên trừu thạch hổ ngồi” (Trâu bùn chạy tuốt, roi vàng đuổi, Cọp đá lôi về, gậy sắt giong)(Nhập Trần)(9). 

Chưa dừng tại đó, việc giữ trâu cần được thuần hóa bằng cách tiến thêm một bước nữa. Quá trình xỏ mũi trâu được người chăn trâu khéo léo điều ngự để “xỏ mũi dắt trâu về”. Ai từng chăn trâu trên đồng xanh cỏ nội, ắt hẳn sẽ hiểu quá trình này như thế nào. Nó thật tế nhị và thiện xảo biết chừng nào “Nhất thân độc thủ nhất nê ngưu, Đằng tỵ khiên lai vị khẳng hưu. Tương đáo Tào Khê đô phóng hạ, Mang mang thủy cấp đả viên cầu” (Một mình riêng giữ con trâu đất, Xỏ mũi dắt về chưa từng chịu nghỉ. Đem đến Tào Khê thì thả ra, Mênh mông nước chảy cuốn quả cầu tròn) (Thủ Nê ngưu)(10). 

Cuối cùng là hình con trâu đã hoàn toàn được thuần phục dưới sự điều phục của người chăn trâu cần mẫn sau một thời gian tương thân, tương thích. Cả người chăn trâu và trâu không còn phân biệt người chăn và được chăn, ở đây có hòa điệu, trong cái thế ung dung tự tại: “Nhất khúc vô sinh xướng liễu thì, Đảm hoành tất lật cố hương quy. Thượng đầu đả quá hồ hà hữu, Nhất cá nê ngưu nhậm đảo ky” (Khi hát xong khúc hát vô sinh, Thì cầm ngang ống sáo trở về làng cũ. Bỏ qua cái trước đây không gì cả, Mặc sức cưỡi ngược con trâu đất) (Điệu tiên sư)(11). 

Và như thế, quá trình hàng phục trâu là quá trình hàng phục tìm lại chân tâm thường tịnh trong mỗi con người thường xuyên giáp mặt những ham muốn của cuộc sống quá nhiều bụi trần đeo bám. Hình tượng con trâu được Tuệ Trung cho người đọc thấy được tiến trình chuyển hóa tâm linh của ông rất thực và rất sống động mà bất cứ ai cũng cảm nhận được. Từ khi phát hiện, gặp gỡ trâu cho đến việc chăn dắt, rồi điều phục, thuần hóa, tương thích, tương thân giữa người chăn và trâu trong tinh thần vô phân biệt, an nhiên tự tại, thong dong… 

Cuối cùnghình ảnh của một thiền sư thỏng tay vào chợ, sống an nhiên giữa trần thế. Có gì diệu kỳ hơn nữa, chẳng khác gì hình ảnh “Thạch ngưu - nhập Hải đông” mà Tuệ Trung hát ca trong Trừu trần ngâm: “Tâm vương vô tướng diệc vô hình, Nhãn tự ly châu dã bất minh. Dục thức giá ban chân diện mục, Ha ha nhật ngọ dã tam canh” (Đến khi nào thì “lý” và “sự” mới hoàn toàn rõ rệt, Sao còn đắn đo gì nắm cầm và buông bỏ. Trâu đá nửa đêm chạy xuống Hải đông, Xông vào giữa đám san hô ánh trăng như nước)(12). 

Tóm lại, từ hình ảnh con trâu hiện hữu gắn liền với cuộc sống người nông dân hiền hòa trên đồng ruộng, khi đi vào thế giới thi ca thì không chỉ có giá trị biểu trưng cho hình ảnh sự thực tâm linh, tu hành chứng ngộ, trở về bản tính chân như giác ngộ, giải thoát mà còn mang cả tính nghệ thuật cao. Trên hết là sự hấp dẫn của thi ca qua những cảm hứng từ sự trực cảm tâm linh của các thiền sư chứng đạo, những hình ảnh con trâu đời thường trở thành phương tiện diễn đạt các giáo nghĩa uyên áo để đánh thức tâm trí con người bước vào cửa đạo khi Xuân về Tết đến. 

(1) Xem Diệu pháp Liên Hoa kinh, Thích Trí Tịnh dịch, Nxb TP. HCM 
(2) Tứ thập nhị chương HT Thích Trí Quang dịch, Nxb TP. HCM, 1994, tr. 57. 
(3) Xem Di giáo kinh, Thích Hoàn Quan dịch, THPGTP. HCM, 1992 
(4) Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 2, Nxb KHXH, 1989, tr. 122. 
(5) Viện Văn học, Sđd, tr. 464. 
(6) Viện Văn học, Sđd, tr. 509. 
(7) Viện Văn học, Sđd, tr. 530. 
(8) Viện Văn học, Sđd, tr. 238. 
(9) Viện Văn học, Sđd, tr. 247. 
(10) Viện Văn học, Sđd, tr. 227 
(11) Viện Văn học, Sđd, tr. 230 - 231. 
(12) Viện Văn học, Sđd, tr. 294.
 
Thích Phước Đạt
Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11441)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10528)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10807)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9874)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9550)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12904)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13315)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13460)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19844)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12542)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13264)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13554)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 13025)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12380)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18582)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10694)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12409)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 11000)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11204)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14705)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22605)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11592)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10177)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34551)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17738)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32709)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22118)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11221)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17591)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17162)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10702)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10862)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9596)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10604)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10607)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10559)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12482)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12417)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 9985)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13222)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9724)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9124)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11825)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13485)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 12072)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11297)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11612)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10336)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10259)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10910)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28226)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10809)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7413)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9334)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11771)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11671)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 11108)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10318)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10269)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13809)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14966)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10502)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11904)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10890)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10531)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10657)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9910)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10672)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9297)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 10008)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10192)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10520)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10613)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10536)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10114)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9833)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13548)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16324)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13480)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11563)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11127)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11094)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12191)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15353)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10617)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11702)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10617)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 11082)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 10026)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10403)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11414)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 11014)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12933)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24385)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12615)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10300)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28674)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19351)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10943)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23350)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant