Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hình Ảnh Con Trâu Trong Nhà Thiền Trúc Lâm

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 12997)
Hình Ảnh Con Trâu Trong Nhà Thiền Trúc Lâm


Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam

Nhưng điều đáng nói là từ hình ảnh chú tiểu (mục đồng) chăn trâu, thổi sáo vi vu trên đồng xanh ruộng lúa, để rồi nó trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật (thí dụ, ẩn dụ, điển cố) trong văn học Phật giáo nói chung, văn học thiền tông nói riêng.

Nhớ lại thuở còn thơ, ta thường nghe lời ru của mẹ “Trâu ơi ta bảo trâu này, trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta”, rồi lớn lên, hình ảnh con trâu theo cuộc sống mà hiền hòa thể nhập vào lòng mọi người theo thời gian năm tháng. 

Thế rồi, hình tượng con trâu nghiễm nhiên trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo trong văn chương qua ca dao, thi ca nghệ thuật. Người đọc bắt gặp ở đó những triết lý, thông điệp sống hướng thiện được ẩn tàng qua lớp ngôn từ nghệ thuật.

Khi đạo Phật vào Việt Nam, hình ảnh con trâu lại được minh họa cho những triết lý uyên áo thâm nghĩa của kinh điển Đại thừa. Những bản kinh như Pháp Hoa, Duy Ma, Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, Tứ thập nhị chương, Di Giáo…, có rất nhiều phẩm, chương, đoạn được Đức Phật dùng hình ảnh con trâu như là thủ pháp nghệ thuật để diễn đạt các giá trị nội dung thông điệp văn bản và giá trị thông điệp giải thoát tâm linh đối với người học đạo

Ai từng đọc kinh Pháp Hoa, một bộ kinh ẩn tàng nhiều triết lý uyên áo của giáo nghĩa kinh văn Đại thừa, tức sẽ thấy kinh này có đến 9 dụ: dụ Nhà lửa (phẩm Thí dụ 3), dụ chàng Cùng tử (phẩm Tín giải thứ 4), dụ Cỏ thuốc (phẩm Dược thảo thứ 5), dụ Hóa thành (phẩm Hóa thành dụ thứ 7), dụ Cột châu chéo áo (phẩm Ngũ Bá đệ tử thọ ký thứ 8), dụ Cao Nguyên đào giếng (phẩm Pháp sư thứ 10), dụ Viên Minh Châu trong búi tóc (phẩm An lạc hạnh thứ 14), dụ Cha trẻ con gìa (phẩm Tùng Địa Dũng xuất thứ 15), dụ Vị lương y (phẩm Như Lai thọ lượng thứ 16)(1). 

Trong đó, phẩm Thí dụ chứa nội dung tiêu biểu, có giá trị về thủ pháp nghệ thuật thí dụ. Phẩm kể về một trưởng giả giàu có, sở hữu một tòa nhà lớn nhưng chỉ có một lối ra. Con cái ông đang vui chơi trong đó, nhưng phút chốc ngôi nhà bốc cháy. Các con ông mãi vui chơi, không hề hay biết. Ông phải dùng các xe dê, xe hươu, xe trâu để dụ các con ông ra khỏi. Ngôi nhà lửa ở đây là ngôi nhà tâm thức chúng sinh trú ngụ, nó đang thiêu đốt bởi các ham muốn, nhu cầu của vọng tâm điên đảo. Các người con đang vui chơi nơi nhà lửa mà không hay biết nhà đang bốc cháy, dụ cho chúng sinh đang bị sinh, già, bệnh, chết đốt cháy. 

Trưởng giả dùng ba xe để dụ cho chúng sinh ra khỏi nhà lửa là Phật dùng ba thừa Thanh văn, Duyên giác, Phật thừa để dẫn dắt chúng sinh ra khỏi luân hồi. Điểm đặc trưng của thủ pháp thí dụ mà Phật diễn giải trong kinh điển mà ta khảo sát trên được Phật kết cấu theo mối quan hệ nhân quả khách quan trong triết lý nhân sinh cũng như trong đời sống thực. Việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật thí dụ để diễn đạt chân lý thì chân lý càng hiển lộcon người có thể thấu đạt. 

Bản kinh Tứ thập nhị chương, bài 41, Phật đã minh họa hình ảnh con trâu đi trong đám bùn sâu để chỉ cho hàng xuất gia cần phải nỗ lực tu hành mới ra khỏi cảnh luân hồi sinh tử, thoát khỏi hệ lụy phiền não: “Sa môn hành đạo như con trâu mang nặng đi trong bùn sâu, mệt nhọc đến mấy cũng không dám ngoái đầu nhìn hai bên, mà phải đi cho mau, rời khỏi bùn sâu mới được nghỉ ngơi. Sa môn coi ái dục còn hơn bùn sâu, nên thẳng tắp một mạchhành đạo, mới thoát khỏi sự khổ lụy”(2). 

Ngay những ngày Đức Phật sắp nhập Niết bàn, Đức Phật cũng giáo huấn hàng đệ tử của mình bằng hình ảnh chăn trâu để khuyến giáo họ về việc chánh niệm tỉnh giác, giữ gìn bản tâm thanh tịnh. Phật nói “Y như chăn trâu, cầm gậy canh chừng, không để nó buông lung phạm vào lúa mạ của người”(3). 

Rõ ràng, hình ảnh con trâu rất quen thuộc và gần gũi với chúng sinh, bản tính của trâu không hung hăng, thuần hậu, siêng năng, nhẫn nại, dễ điều phục, nhưng thỉnh thoảng vẫn làm bậy, ngu si. Kinh điển lấy hình ảnh trâu để nhấn mạnh đến sự vô trí có trong con người. Danh hiệu của Đức Phật là “Điều ngự sư” nên cũng có thể hiểu là Ngài là một người chăn, một người đánh xe kéo, đưa chúng sinh ra khỏi bể khổ, giải thoát an lạc.

Như vậy, hình ảnh con trâu đã được văn học Phật giáo diễn đạt rất bài bản, ẩn chứa những nội dung triết lý uyên áo, huyền diệu từ lâu, nhưng khi vào thế giới thi ca văn chương Thiền tông nói chung, văn chương Thiền phái Trúc Lâm đời Trần nói riêng, thì nó trở nên sinh độnghấp dẫn đến người học đạo trong tiến trình tu tập và thăng chứng của mỗi người. 

Không chỉ trong văn thơ, trong công án mà cả trong hội họa với bộ “Thập mục ngưu đồ" (Mười bức tranh chăn trâu). Tranh vẽ này thường được diễn đạt theo hai khuynh hướng: khuynh hướng Đại thừa vẽ lại quá trình tu chứng, từ việc tự thắng bản năng mình, đến tự tri và cuối cùngđạt đến tự tại; còn khuynh hướng Thiền tông thì khắc họa tiến trình thực nghiệm tâm linh với ba giai đoạn: sai tâm bắt tâm, tâm vô tâmtâm bình thường. Trong các công án của các thiền sư, được ghi trong các ngữ lục, hình ảnh con trâu hiện lên khá sinh động

Chẳng hạn, Thạch Củng một hôm đang làm việc trong nhà trù (nhà ăn), Mã Tổ hỏi: “Làm việc gì?. Sư thưa: “Chăn trâu”. - “Làm sao chăn thế?” - “ Một khi trâu vào cỏ bèn nắm mũi kéo lại”. - “Con thật là biết chăn trâu”. Hay trong một công án khác, ngài Phước Châu - Đại An hỏi ngài Bách Trượng: “Tôi khao khát muốn hiểu Phật pháp, việc đó như thế nào?”. Bách Trượng đáp: “Hệt như cưỡi trâu.” Hỏi: “Hiểu rồi như thế nào?” Đáp: “Như người cỡi trâu về nhà”. Hỏi: “Rồi làm sao giữ cho trước sau khế hợp?” Đáp: “Như người chăn trâu cầm roi giữ mình, đừng cho phạm vào lúa mạ của người”. 

Trong Vô môn quan, có ghi lại một công án rất hiểm hóc. Ngũ Tổ nói: “Ví như con trâu đi qua khung cửa, đầu sừng, bốn chân đã lọt, sao đuôi không lọt được”… Xem ra, từ hình ảnh con trâu trong kinh điển Đại thừa, rồi đến hình ảnh con trâu trong Thiền tông Trung Hoa, đều là biểu tượng của quá trình “hàng phục tâm”. 

Tuy nhiên, tùy theo đối tượng, tùy theo môi trường tu tập khác nhau mà về mặt hình thức, hình ảnh con trâu được xem là biểu tượng được thể hiện thành những cách biểu đạt khác nhau, với những tính chất độc đáo của nó. 

Trong thơ văn thiền phái Trúc Lâm đời Trần, biểu tượng con trâu được ngụ dưới hình thức là những con trâu bùn, trâu đất, hay trâu đá mang những phong thái đồng quê Việt Nam, con người Việt Nam. Đó là hình ảnh “Nhập hải nê ngưu thất cước trung” (Trâu bùn xuống biển mất hết tung tích”(4) trong thơ Trần Thái Tông, khi trả lời cho một hành giả học hỏi thế nào là vô vị chân nhân?. Trần Thái Tông trả lời: “Vô vị chân nhân càn thỉ quyết, Tòng giao Thích tử táng gia phong. Khan khan hướng hạ hoàn tri phủ, Nhập hải nê ngưu thất cước trung”(Người giác ngộ như cục phân khô, Người theo Phật thì mất hết gia phong. Không tin hãy nhìn xem rồi sẽ biết, Trâu bùn xuống biển mất hết tung tích). 

Trần Thái Tông phát biểu như thế, là tác giả ví người giác ngộ là người bước ra thế giới hữu ngã hư vọng muôn màu và huyễn ảo, bước vào thế giới vô phân biệt ngã và ngã sở, cũng như trâu bùn xuống bể chẳng thấy tung tích nào. 

Đúng như hình ảnh “trâu bùn” của thiền sư Long Sơn dùng để trả lời cho câu hỏi của Động Sơn trong Truyền Đăng ngữ lục: - “Thiền sư thấy đạo lý gì mà trụ trì núi này?” - Thiền sư Long Sơn đáp: - “Ta chỉ thấy hai con trâu bùn đánh nhau rồi chạy xuống bể. Từ bấy đến nay vẫn không tin tức gì”. 

Hay hình ảnh “Mục đồng địch lý quy ngưu tận” (Trong tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết”)(5) trong bài thơ “Thiên trường vãn vọng” chữ Hán của Trần Nhân Tông rất thân thuộc với con người qua cảnh chân quê dân dã, mộc mạc nhưng rất trữ tình. Có gì đẹp hơn chú mục đồng, cưỡi trâu, thổi sáo vi vu, tâm trong sáng, không vướng bận điều gì. Còn trong “Cư trần lạc đạo phú” được viết bằng chữ Nôm, ở hội thứ 9, Sơ Tổ Trúc Lâm đã viết: “Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu, răn đàn việt, lượm xá nghênh ngang”(6).

Thơ văn Lý - Trần giải thích: “Trâu thầy Hựu” tức là thiền sư Linh Hựu, hiệu Quy Sơn, chăn một con trâu ba mươi năm, hễ lạc đường vào cỏ rậm thì nắm mũi dắt về, hễ ăn lúa má của người thì đánh roi; thuần hóa lâu ngày, biến thành một con trâu trắng, ở bên mình suốt ngày. Lại một hôm, sư lên tòa nói: “Lão tăng một trăm năm sau sẽ biến thành một con trâu ở dưới núi”(7). 

Rất sống động và rất hồn nhiên, tự tại, nhưng có dấu ấn hơn hết vẫn là hình ảnh con trâu trong thơ của Tuệ Trung. Tác giả đã thi hóa quá trình điều phục trâu bùn như là quá trình điều phục tâm của mỗi người, trong bài Phóng ngưu, ông viết: “Ngẫu hứng Quy Sơn đắc đệ lân, Hoang vu cam tác mục ngưu nhân. Quốc vương đức trạch khoan như hải, Tuy phận ta ta thủy thảo xuân” (Quy Sơn xóm nọ bỗng quay sang, Cam nhận chăn trâu chốn nội hoang. Ơn đức quốc vương như biển cả, Riêng vui cỏ suối với hoa ngàn”(8). 

Hơn ai hết, Tuệ Trung trong cuộc hành trình tìm về miền đất an lạc, từ việc tự nhận làm kẻ chăn trâu cho chính mình và cũng tự mình chuyển hóa hình tượng con trâu ban đầu thành hình tượng con trâu đất Việt Nam quen thuộc ngày nào. Nhưng việc chăn trâu đâu có dễ dàng gì, nó đòi hỏi công phu, kiên nhẫn để điều phục, thuần tịnh “Kim tiên đả sấn nê ngưu tẩu, Thiết sách khiên trừu thạch hổ ngồi” (Trâu bùn chạy tuốt, roi vàng đuổi, Cọp đá lôi về, gậy sắt giong)(Nhập Trần)(9). 

Chưa dừng tại đó, việc giữ trâu cần được thuần hóa bằng cách tiến thêm một bước nữa. Quá trình xỏ mũi trâu được người chăn trâu khéo léo điều ngự để “xỏ mũi dắt trâu về”. Ai từng chăn trâu trên đồng xanh cỏ nội, ắt hẳn sẽ hiểu quá trình này như thế nào. Nó thật tế nhị và thiện xảo biết chừng nào “Nhất thân độc thủ nhất nê ngưu, Đằng tỵ khiên lai vị khẳng hưu. Tương đáo Tào Khê đô phóng hạ, Mang mang thủy cấp đả viên cầu” (Một mình riêng giữ con trâu đất, Xỏ mũi dắt về chưa từng chịu nghỉ. Đem đến Tào Khê thì thả ra, Mênh mông nước chảy cuốn quả cầu tròn) (Thủ Nê ngưu)(10). 

Cuối cùng là hình con trâu đã hoàn toàn được thuần phục dưới sự điều phục của người chăn trâu cần mẫn sau một thời gian tương thân, tương thích. Cả người chăn trâu và trâu không còn phân biệt người chăn và được chăn, ở đây có hòa điệu, trong cái thế ung dung tự tại: “Nhất khúc vô sinh xướng liễu thì, Đảm hoành tất lật cố hương quy. Thượng đầu đả quá hồ hà hữu, Nhất cá nê ngưu nhậm đảo ky” (Khi hát xong khúc hát vô sinh, Thì cầm ngang ống sáo trở về làng cũ. Bỏ qua cái trước đây không gì cả, Mặc sức cưỡi ngược con trâu đất) (Điệu tiên sư)(11). 

Và như thế, quá trình hàng phục trâu là quá trình hàng phục tìm lại chân tâm thường tịnh trong mỗi con người thường xuyên giáp mặt những ham muốn của cuộc sống quá nhiều bụi trần đeo bám. Hình tượng con trâu được Tuệ Trung cho người đọc thấy được tiến trình chuyển hóa tâm linh của ông rất thực và rất sống động mà bất cứ ai cũng cảm nhận được. Từ khi phát hiện, gặp gỡ trâu cho đến việc chăn dắt, rồi điều phục, thuần hóa, tương thích, tương thân giữa người chăn và trâu trong tinh thần vô phân biệt, an nhiên tự tại, thong dong… 

Cuối cùnghình ảnh của một thiền sư thỏng tay vào chợ, sống an nhiên giữa trần thế. Có gì diệu kỳ hơn nữa, chẳng khác gì hình ảnh “Thạch ngưu - nhập Hải đông” mà Tuệ Trung hát ca trong Trừu trần ngâm: “Tâm vương vô tướng diệc vô hình, Nhãn tự ly châu dã bất minh. Dục thức giá ban chân diện mục, Ha ha nhật ngọ dã tam canh” (Đến khi nào thì “lý” và “sự” mới hoàn toàn rõ rệt, Sao còn đắn đo gì nắm cầm và buông bỏ. Trâu đá nửa đêm chạy xuống Hải đông, Xông vào giữa đám san hô ánh trăng như nước)(12). 

Tóm lại, từ hình ảnh con trâu hiện hữu gắn liền với cuộc sống người nông dân hiền hòa trên đồng ruộng, khi đi vào thế giới thi ca thì không chỉ có giá trị biểu trưng cho hình ảnh sự thực tâm linh, tu hành chứng ngộ, trở về bản tính chân như giác ngộ, giải thoát mà còn mang cả tính nghệ thuật cao. Trên hết là sự hấp dẫn của thi ca qua những cảm hứng từ sự trực cảm tâm linh của các thiền sư chứng đạo, những hình ảnh con trâu đời thường trở thành phương tiện diễn đạt các giáo nghĩa uyên áo để đánh thức tâm trí con người bước vào cửa đạo khi Xuân về Tết đến. 

(1) Xem Diệu pháp Liên Hoa kinh, Thích Trí Tịnh dịch, Nxb TP. HCM 
(2) Tứ thập nhị chương HT Thích Trí Quang dịch, Nxb TP. HCM, 1994, tr. 57. 
(3) Xem Di giáo kinh, Thích Hoàn Quan dịch, THPGTP. HCM, 1992 
(4) Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 2, Nxb KHXH, 1989, tr. 122. 
(5) Viện Văn học, Sđd, tr. 464. 
(6) Viện Văn học, Sđd, tr. 509. 
(7) Viện Văn học, Sđd, tr. 530. 
(8) Viện Văn học, Sđd, tr. 238. 
(9) Viện Văn học, Sđd, tr. 247. 
(10) Viện Văn học, Sđd, tr. 227 
(11) Viện Văn học, Sđd, tr. 230 - 231. 
(12) Viện Văn học, Sđd, tr. 294.
 
Thích Phước Đạt
Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10045)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10444)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10060)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20247)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11543)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13701)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 18962)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46568)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12018)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11584)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 22938)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17744)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10056)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17592)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13823)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 13952)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15002)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20183)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18154)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17273)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18058)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12621)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12734)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13317)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 16911)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11402)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18203)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18514)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21252)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22016)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16773)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12494)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15255)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24404)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14160)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11551)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19537)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13307)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22703)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18903)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18368)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21517)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20463)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 19933)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 13969)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 14933)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13728)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15040)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17136)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15194)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12752)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15803)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12887)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13046)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 14951)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22522)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7079)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19257)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37443)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9079)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8564)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17778)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14814)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 26925)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19822)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15207)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15397)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26710)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14484)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19564)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14529)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18569)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15829)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16260)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19291)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19647)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19832)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18545)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29698)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14512)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17682)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32295)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15213)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17228)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29643)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31370)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64546)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32686)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20129)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18448)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30691)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19824)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45813)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32476)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39211)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40313)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 49976)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19035)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18471)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20600)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant