Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thử Bàn Ngày Xuân Đốt Vàng Mã Sớ Sao, Nên Hay Không?

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11476)
Thử Bàn Ngày Xuân Đốt Vàng Mã Sớ Sao, Nên Hay Không?

THỬ BÀN NGÀY XUÂN

ĐỐT VÀNG MÃ SỚ SAO, NÊN HAY KHÔNG?
Lê Văn Cơ

Hàng năm bà con nhân dânPhật tử chúng ta thường hay có tục lệ đốt vàng mã, sớ sao vào các dịp cúng giỗ tiên tổ hoặc đi lễ bái ở đình, đền, chùa, miếu, nhất là vào những ngày lễ lớn như Rằm tháng Giêng, thanh minh, vào hè, ra hạ, Rằm tháng Bảy và Tết Nguyên đán...

Xung quanh việc này có biết bao lý do và mỗi người giải thích một lẽ khác nhau: Có người nói rằng vì trần sao âm vậy, nên chúng tôi đốt để gửi cho người âm phủ được dùng, có người nói rằng những người đi trước đều làm như vậy, nên chúng tôi cũng làm theo để cho yên tâm. Hoặc có người vì thấy bà con hàng xóm mua sớ đốt thì mình cũng phải đốt kẻo bị họ chê trách là mình không thương các cụ. Lại còn có người bảo rằng tại vì con vụng khấn vái nên phải nhờ tờ vàng cánh sớ tâu giùm lên Phật Thánh các Ngài mới chứng cho...

Vậy thì lẽ thực hư của vấn đề này ra sao? Quan điểm của nhà Phật về vấn đề này như thế nào? Là người ngoại đạo, chúng tôi xin được trao đổi đôi điều cùng quý bà conPhật tử gần xa như sau:

Thứ nhất là việc đốt mã: Việc này xuất phát từ Trung Quốc, các vua chúa phong kiến thời xưa, khi chết họ cho chôn theo mình vàng bạc của cải, kẻ hầu người hạ thậm chí cả vợ con nữa để mong được tiếp tục cuộc sống vương giả ở thế giới bên kia. Việc làm này của tầng lớp vua chúa, dần dần lan truyền rộng đến dân chúng và trở thành một tập tục. Song đa số dân chúng đền nghèo khó, lấy đâu ra vàng bạc của cải, kẻ hầu người hạ để chôn theo. Từ đó mới nảy sinh ra việc làm hình nhân giấy thế mạng, làm vàng mã thay cho của cải thật. Rồi từ việc phải chôn các thứ đồ theo cùng có nhiều phiền phức, lại hao tốn đất đai canh tác, mới dần dần chuyển sang hình thức đốt hoá cho người đã mất, với niềm tin rằng họ sẽ hưởng dụng được những thứ đó. Song thật sự họ có dùng được hay không? Như chúng ta đã biết, dù chôn theo vàng bạc của cải thật thì khi khai mộ cải táng, thấy rõ các đồ vật này đâu vẫn hoàn đấy có chăng thì chúng bị hư mòn bởi thời gian mà thôi, chứ đâu phải do người chết lấy tiêu dùng. Của cải thật mà còn như vậy, huống chi là đồ mã, lại còn đem đốt hoá thành tro tàn mây khói.

Một sự thật rất vô lý hiện nay là chúng ta đem đốt ôtô, xe máy, đốt ti vi, tủ lạnh để cho người đã mất dùng, song họ sẽ dùng thế nào đây? Chúng ta đốt ô tô, xe máy mà chẳng đốt xăng dầu, đốt ti vi, tủ lạnh mà chẳng đốt điện xuống thì thử hỏi làm sao mà họ có thể dùng được? nếu bảo trần sao âm vậy thì chúng ta phải làm cho đầy đủ các thứ đó mới được. Lại còn một thực tế nữa là ông bà tổ tiên chúng ta xưa kia đi chân đất, guốc mộc, ngồi xe ngựa, xe trâu, xe đạp có khi còn chưa biết đi huống chi là ôtô, xe máy Do đó nếu muốn thì chúng ta phải đốt thêm sách hướng dẫn sử dụng, bộ luật giao thông và cả bằng lái xe nữa chứ? Chúng tôi nói vậy, nếu mấy nhà làm hàng mã mà nghe được thì họ sẽ phất to! Có thể họ sẽ tiếp tục làm thêm ra đủ các thứ lệ bộ nói trên và yêu cầu bà con phải mua cho đủ mới được. Như vậy thì chúng ta bị mắc lừa bởi cái hư tưởng trần sao âm vậy đó.

Thứ hai là việc đốt tiền âm phủ, nó còn phi lý hơn cả việc đốt mã nói trên nữa. Sự thực trên thế gian chúng ta, tiền nước nào thì phải do chính phủ nước đó in ấn phát hành mới được coi là hợp pháp. Vậy thì việc trần gian chúng ta in tiền vàng mã, rồi phát hành xuống âm phủhợp pháp hay bất hợp pháp đây? Lỡ tiền chúng ta in ra chẳng đúng với tiền âm phủ (giả dụ là ở âm phủ có tiêu tiền) thì ông bà chúng ta sẽ bị vi phạm luật pháp âm phủ vì tội tiêu tiền giả phải không? Còn nếu như quả thật hàng năm, vua Diêm Vương có lên trần gian vào từng nhà chủ làm vàng mã đặt in tiền cho âm phủ thì chúng ta cũng khả dĩ tin được việc này. Song chúng tôi tin chắc, chẳng có ông chủ hàng mã nào được Diêm Vương đến nhà mình đặt in tiền cả. Trên thực tế các nhà sản xuất hàng mã đều tuỳ theo thị trường mà họ in ấn.

Những năm về trước, đồng tiền âm phủ có in hình vua Diêm Vương (mặc dù họ chẳng biết mặt vua Diêm Vương ra làm sao), gần đây, khi kinh tế mở cửa, thấy đồng đô la có giá trị thị họ lại đổ xô vào in tiền đô la âm phủ, và tức cười nhất là đồng tiền không in hình vua Diêm Vương mà lại là hình ông Tổng thống Mỹ. Chưa biết chừng sắp tới họ còn in tiền Bảng Anh, tiền EURO để bán cho bà con nữa đấy. Trong khi đó ở ngay các nước Châu âu, Châu Mỹ và nhiều nước khác nhân dân không có tục đốt vàng mã thì không biết thân nhân của họ tiêu bằng tiền gì hay họ phải chịu mình trần nhịn đói hoặc sang nước ta để làm thuê cho ông bà, ông vải chúng ta sao? Điều này chúng ta thấy có phi lý hay không? Dưới đây chúng tôi xin lược dẫn trong sử sách nói về việc này như sau:

Sách Pháp Uyển Châu Lâm có ghi: “Từ trước đời Hậu Hán, trong việc tang ma vẫn dùng tiền bạc thật để chôn theo người chết. Đến đời Đường, ông Vương Dư đã nghĩ ra cách dùng tiền bạc bằng giấy để thay thế cho...” Nghề làm vàng mã đã một thời phát triển rất mạnh, song không bao lâu, người Trung Hoa lại có ý chán bỏ vì chẳng thấy hiệu nghiệm gì cả. Vì vậy nghề nghiệp gia truyền của họ Vương Dư dần phải bị mai một. Bởi thế nên con cháu của Vương cố hết sức tìm mưu kế để chấn hưng lại nghề hàng mã của mình. Sách Trực Ngôn Cảnh Giác chép: “ông Vương Luân là con cháu của Vương Dư thời vua ấn Đế nhà Hán... đã lập mưu bằng cách bảo người bạn thân giả bệnh gần chết rồi cho ai nấy đều biết. Chừng bốn năm bữa, ông loan tin người bạn đó đau bệnh đã chết. Sau đó khâm niệm, bỏ vào quan tài (quan tài có lỗ trống để người bạn vẫn thở được). Đến ngày làm lễ di quan đi chôn, ông Vương Luân tổ chức lễ nhạc linh đình, phúng điếu rộn rịp, lại làm một hình nhân thế mạng cùng những đồ mã như tiền vàng, nhà cửa, áo quần... ông Vương Luân tự làm lễ để cầu cho người bạn thân đó được may ra sống lại. Cúng tế xong ông đốt hết vàng mã, giấy tiền hình nhân thế mạng. Khi đốt xong thì linh nghiệm thay! Quan tài tự nhiên rung động, ai nấy mục kích rõ ràng, vội cùng nhau mở nắp quan tài ra, người bạn thân của Vương Luân quả thật đã sống lại được. Anh ta liền đến trước mặt Vương Luân phủ phục xuống đất và thuật lại chuyện cho công chúng nghe rằng: “Chư Vị âm Thần đã nhận được vàng mã và hình nhân thế mạng liền thả hồn về dương thế, nên nay tôi được sống lại, cũng nhờ ông Vương Luân đốt vàng mã và hình nhân thế mạng. Mọi người ai cũng tin răm rắpsự thật, nên đốt mã của Vương Luân từ đó được hưng thịnh trở lại. Sau này do sự tranh giành quyền lợi, nên chính người bạn thân của Vương Luân đã tiết lộ âm mưu xảo trá đó của Vương Luân. Nước Việt Nam chúng ta, dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc cả ngàn năm, nên những hủ tục này cũng dần dần tiêm nhiễm và ăn sâu trong quần chúng nhân dân. Tệ hơn nữa, một số người hành nghề mê tín dị đoan (ông đồng, bà cốt) đã kết hợp với những người cung cấp vàng mã, lợi dùng lòng tin của mọi người giả nói lời của thần thánh, vong linh, đòi phải đốt vàng mã, càng khiến cho bà con chúng ta chìm sâu vào lệ tục này.
Qua những điều chúng tôi trình bày trên đây thì bà con đã thấy rõ nguồn gốc của việc đốt vàng mã và những điều dối trá, phi lý như vậy, liệu chúng ta có còn tin được nữa hay không? Thế còn theo quan điểm của đạo Phật thì sao?

Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi, trong khoảng 49 ngày, thần thức phải đi tái sinh vào một trong sáu cõi. Ba cõi trên là cõi Trời, Người, thần Atula còn ba cõi dưới là Địa Ngục, Ngã QuỷSúc Sinh. Hai cõi Trời và thần Atula thì không dùng đến tiền bạc, vì do phúc báo nhiều nên họ nghĩ đến thứ gì liền có thứ ấy hiện ra. Hai cõi Ngã QuỷĐịa Ngục thì luôn bị hành hạ khổ sở chẳng thể ngơi để mà có thể lái xe ô tô ra ngân hàng lĩnh tiền dương gian gửi xuống được. Nếu như phải tái sinh vào loài Súc Sinh (làm con lợn chẳng hạn) thì chúng ta đốt quần áo, xe cộ, chúng ta có thấy chú lợn nào mặc áo mới cưỡi xe máy đi chơi được không? Còn nếu tái sinh làm Người thì chúng ta rõ biết chưa từng có ai nhận được thứ hàng mã mà người ta đốt cúng cho mình cả. Sự thật thì cảnh giới của mỗi loài một khác, tuỳ theo nghiệp thức biến hiện (chẳng hạn loài người thở bằng không khí, loài cá thở bằng nước, các vị trời thấy nước là Ngọc lưu ly, loài ngã quỷ thấy nước là than hồng)... Do đó chúng ta không thể lấy cảnh giới loài người mà áp đặt cho các cảnh giới khác cũng phải như vậy. Cho nên câu nói trần sao âm vậy chẳng thể đúng với lời Phật dậy. Theo trong các kinh Địa Tạng, Vu Lan, Đại Phương Tiện Phật Báo ân và kinh Bồ Tát Giới thì muốn giúp cho người đã mất được lợi ích. Những người còn sống nên làm những việc lợi ích như thiết trai cúng đường cho Tăng, cúng đường Tam Bảo, ấn tống kinh điển, bố thí cho kẻ nghèo khổ, không sát sinh mà nên mua vật về phóng sinh, tụng kinh niệm Phật, thỉnh chư Tăng thuyết Pháp Đại Thừa và các việc công đức rồi đem hồi hướng những công đức đó cho người đã mất thì chắc chắn họ sẽ được hưởng, được tiêu trừ tội chướng, được tái sinh vào cõi lành, hoặc có thể siêu sinh Tịnh độ. Còn việc đốt giấy tiền vàng mã thì không thể giúp ích gì cho thân nhân của chúng ta được. 

Bây giờ đến việc viết sớ. Việc làm này xuất phát từ việc trước kia dân chúng thưa trình lên quan hoặc đế tấu với vua thường dùng sớ dùng biểu. Rồi từ đó, chúng ta liền đem cách thức này vào trong việc tế lễ cầu cúng với Phật Thánh và cho rằng như thế mới thực là trịnh trọng kính cẩn và Phật Thánh mới chứng cho. Song sự thật có phải vậy không?

Xét kỹ ra, khi chúng ta làm việc này, thì vô tình chúng ta lại xem thường Phật Thánh rồi. Vì sao vậy? Bởi vì đã gọi là Phật, là Thánh thì các Ngài đều có sáu phép thần thông, trong đó có phép tha tâm thông (ai suy nghĩ mong cầu gì, các Ngài đều biết rõ hết) và thiên nhãn thông (thấy suốt không chướng ngại). Vậy đâu có phải đợi chúng ta viết ra lá sớ, các Ngài mới biết chúng ta kêu cầu gì. Hoặc phải khấn cho hay, cho giỏi các Ngài mới cảm thông. Thế mà chúng ta lại đua nhau đi thuê người khấn, thuê viết sớ, có khi còn bị mấy bác viết sớ Nho ép giá cao hơn sớ Quốc Ngữ nữa chứ. Đã vậy, nhỡ mà mấy bác sớ Nho chưa rành mặt chữ, lại viết chữ Tác thành chữ Tộ thì thật là oan uổng cho chúng ta làm sao? Đức Phật dạy về nhân duyên nghiệp quả, gieo thiện nhân thì được thiện quả, tạo ác nghiệp thì phải thọ ác báo. Bởi vậy nên, khi chúng ta khởi thiện tâm đi lễ Phật, là chúng ta đã được Phật chứng tâm và có phúc rồi, đâu phải cần đến tờ vàng cánh sớ.

Theo con số ước tính, những năm gần đây mỗi năm chúng ta đã đốt đi một lượng vàng mã, sớ sao trị giá hàng chục tỷ đồng. Thật đáng buồn là trong khi chúng ta mất tiền mua giấy đốt đi, thì con em chúng ta đang thiếu sách vở học hành, không những thế, việc đốt vàng mã còn gây ô nhiễm môi trường, làm xấu đi cảnh quan chốn thờ tự tôn nghiêm và có một số nơi đã gây ra hoả hoạn làm cháy cả chợ, cháy cả đền chùa.

Qua những điều trình bày trên đây, chúng ta đã thấy rõ lẽ thực hư và sự lợi hại của việc đốt vàng mã sớ sao rồi. Vậy nên chúng tôi khuyên bà con nhân dânPhật tử khi đi lễ bái đền chùa hoặc cúng giỗ tổ tiên thì cốt nhất là ở tâm thành kính và lòng tri ơn, chẳng nên hao tiền tốn của mua vàng mã sớ sao đốt đi một cách vô ích nữa. Thay vào đó, chúng ta làm những việc công ích hoặc từ thiện xã hội thì thật là phúc đức biết bao. Xin cầu chúc cho quý vị một năm mới gặp nhiều may mắn, an vui và hạnh phúc.

Lê Văn Cơ
Tạp Chí VHTT&DL Vĩnh Phúc
Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13362)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
(Xem: 11652)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11160)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11887)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10218)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29193)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11899)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11903)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10903)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19586)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7294)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11332)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35232)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12811)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12164)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17302)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11436)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22054)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11791)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15867)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12091)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14072)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12570)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13192)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13614)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19948)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14373)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13491)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12312)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11869)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34674)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13372)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13663)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31899)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13170)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13044)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13387)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13273)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18010)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14870)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15684)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14816)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15804)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20721)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21257)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35058)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27413)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43854)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37829)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15112)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15019)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12943)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12602)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15573)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27661)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14925)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11379)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53113)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16488)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13122)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20659)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12585)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15563)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15462)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14738)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15588)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13009)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11728)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12262)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12540)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13441)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12417)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24920)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11933)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12709)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11581)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13703)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14040)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12872)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12708)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 12969)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13878)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12957)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13580)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12414)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14400)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13269)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13729)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14586)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11822)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12685)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28211)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11749)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12619)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15008)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 11948)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11735)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12811)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11939)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11493)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant