Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Xuân Trên Đất Phật

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10853)
Xuân Trên Đất Phật


XUÂN TRÊN ĐẤT PHẬT
 Minh Mẫn


Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn từ các chùa quanh khu vực Tháp. Cứ cách nhau vài răm mét có một ngôi chùa, càng gần Đạo tràng, chùa càng nhiều, có chỗ chùa sát vách nhau. Ngoài chùa Tây Tạng còn có nhiều chùa Miến Điện. 

Chánh điện tuy bị bao phủ bởi khí lạnh và màn đêm, nhưng ánh sáng từ nội điện cùng với hàng loạt ngọn đèn cầy thắp quanh chùa, chạy dọc hai bên lan can dẫn xuống sân, làm cho không khí về đêm tăng phần huyền nhiệm. Giờ nầy tại Việt Nam đúng Giao Thừa. gần 20 người vân tập về chánh điện, các nghệ nhân người Huế cũng trịnh trọng trong chiếc áo tràng lam. Thầy Kiến Huệ chủ lễ, cô Khema Duy Na, Nick Kharma thủ trống. Đèn thắp sáng khắp nơi, không gian im ắng làm cho mọi người lẻ loi giữa sự giao hoà trong giờ phút nhiệm mầu của đất trời. Hình như mỗi người đều hướng về đất tổ, những kẻ tha phương mưu sinh đang chờ đợi cuộc gọi chúc Xuân của người thân từ hướng Đông. Nơi đây không có nhạc Xuân rộn rã trên TV, không có rộn rịp của giòng người đi lễ chùa đầu năm. Đối diện chùa độ 50m, những công nhân người Ấn trực đêm trong building bốn tầng, đứng từ cửa sổ nhìn qua chùa Việt Nam, nghe chuông trống đón giao thừa, nhìn nhóm người tay cầm nhang, tay đốt đèn hướng về quê mẹ cầu nguyện những điều tốt đẹp cho dân tộc, cho đất nước. Susanto châm ngòi pháo, tiếng nổ như xé bầu không gian u tịch, một luồng sáng bay lên không trung, tiếp là tiếng nổ lớn làm tung toé các chòm sao pháo bông phủ một góc trời. Xa xa, thỉnh thoảng có vài tiếng nổ của pháo mừng ngày độc lập Ấn độ. Mồng một tết năm nay trùng ngày quốc khánh của India, một xứ sở từng bị Anh đô hộ, hàng triệu người bỏ mạng vì đấu tranh giành độc lập theo lời kêu gọi bất bạo động của Thánh Gandhi.

Trước một ngày, các tụ điểm đông dân cư, địa phương đều tổ chức meeting, ngày 26 tháng giêng 2009, các trường học kéo học sinh về Bodhgaya Temple, kèn trống inh ỏi, cùng với lời mời của Management Committee, các tu sĩ, thân hào nhân sĩ, các tôn giáo đảng phái đến tham dự. Khu vực Đạo tràng lại bùng dậy làn sóng người trẩy hội!

Sau một đêm thức đón giao thừa, đốt lửa sinh hoạt mừng năm mới, dưới tán tre già, mọi người ngồi vây quanh, kẻ hát người kể chuyện; Các nghệ nhân xứ Huế với giọng thâm trầm của sông Hương núi Ngự, nhạc Huế lẫn nhạc Nam được lần lượt trình bày. Mở đầu chương trình văn nghệ, nhạc bản Xuân Nầy Con Không Về nghe thật não nuột, đó là tâm sự của kẻ xa nhà khi Xuân đến. Năm xưa, 1978, lần đầu tiên đi tù, nằm trong xà lim nơi đèo heo hút gió miền Trung, vọng đâu đây tiếng pháo xa xa, báo hiệu tết đến, cũng bản Xuân Nầy Con Không Về của các bạn tù trong các sam tập thể giữa đêm trường nơi rừng sâu, tưởng chừng ruột gan đứt đoạn. Người cô độc còn như thế thì những kẻ có gia đình, có con cái, họ thấm thía Ái Biệt Ly khổ như thế nào. Những người tù “mồ côi” nhìn anh em có thân nhân thăm nuôi, quây quần bên thức ăn đón Xuân, buồn đã đành, những người được bên ngoài thương tưởng gửi quà, họ nhìn đồ ăn mà nhớ đến tình cảm và hình ảnh thân thương của gia đình, họ cũng chẳng vui gì hơn, vì những món họ đang có là phần nhịn của vợ con khi cuộc sống lúc ấy chỉ có bo bo bột mì làm bữa ăn chính. Hôm nay, tuy xa nhà, không gian có khác hơn, nhưng sống giữa xã hội bất đồng ngôn ngữ, không cùng tập quán, kẻ tha hương cũng thấy trống vắng lạc lõng mênh mông. Tiếp theo, đặc biệt cô Nick Kharma đọc một đoạn kinh META SUTA (TÂM TỪ) làm cho không khi lắng đọng, hình như chư Thiên chung quanh cũng chắp tay lắng nghe, ngọn lửa nhảy múa vui mừng, sáng ra, các chú nghệ nhân thòng phong pháo hồng nhạt từ hoa văn cổng Tam quan để đón chào mồng một. Dưới các nhánh tre, những phong bì đỏ mang giòng chũ: With Heartiest Wishes, toòn teng trước gió, để mọi người hái lộc đầu Xuân, nội dung bên trong là những câu kinh Pháp Cú do cô Kharma thực hiện. Tuy pháo nổ dòn, nhưng một số viên lẻ vẫn rơi tung toé. Khema và Kharma ra Tháp thật sớm, lễ Phật toạ thiền, mang về một số bánh bao của Tây Tạng và bánh chiên của Ấn cho nội chúng dùng điểm tâm. 9 giờ kéo nhau ra lễ và nhiễu Tháp. Khách thập phương cũng tấp nập đến lễ các chùa qunh tháp. Tuy đa phần người Ấn theo Hindu và Hồi, nhưng họ vẫn đến chùa. Ngoài Đạo tràng và các tự viện Phật giáo quốc tế, họ không có nơi nào để giải trí vui chơi. Đàn ông Ấn chạy xe phân khối lớn, môtô từ 125 trở lên, ra đường ăn mặc lịch sự, nhưng nhà ở thì u ám tăm tối. Trong nhà hay ngoài đường luôn nồng nặc mùi xú uế phế thải. Đặc biệt người Ấn rất đoàn kết; không bao giờ có kẻ say xỉn ngoài đường, chẳng có cảnh đấu đá đánh nhau. Giao thông không hề có công an; xảy ra tai nạn hai bên tự động giải quyết êm đẹp. Ngoại trừ có chết người thì cảnh sát mới đến làm việc. Buôn bán họ có thể nói thách, nhưng không biết lợi dụng đông người trong mùa hành hươngđồng loạt nâng giá. Giới trung lưu gia đình rất nề nếp tôn ti. Bán buôn họ không biết đon đả mời khách.

Tuy là xứ sở tôn giáo thần linh, vẫn xẩy ra tệ nạn giết người cướp của. Du khách Việt, Úc từng là nạn nhân, nhất là người Nhật bị mất tích nhiều. Du khách ít ai dám đi một mình, vào các quán ăn, giải khát thỉnh thoảng cũng bị thuốc mê, may lắm thì bị lột sạch tiền bạc, nếu không thì cũng bị mất mạng. Ở Ấn đất rộng mênh mông,việc thiêu người chết quá bình thường và dễ dàng, vì thế khó ai phát hiện những vụ thủ tiêu nạn nhân. Tuy nhiên, trộm cắp vặt không thấy xảy ra. Chiếc xe môtô để ngoài đường nhiều ngày vẫn còn. Vào Đạo Tràng bỏ xe ở ngoài cũng không mất. Bên Ấn không có điểm giữ xe. Rất nhiều cái tương phản trong xã hội Ấn mà ít có quốc gia nào có. Những người Việt ở Ấn lâu năm, họ than phiền là rất mệt mỏi khi làm ăn hoặc giao dịch với người bản địa, họ rất trung thực với đồng hương, nhưng với người nước ngoài, họ lại rất điêu ngoa. Muốn mua đất tại Ấn, phải có tên người Ấn đứng chủ, vì thế mà một số sư nước ngoài bị mất trắng. Mua gạch xây chùa đến tận lò chọn loại một, khi chở đến, họ pha trộn loại hai hoặc không đủ số lượng. Các trường học tại Gaya, kể cả đại học, đóng tiền có tên mà ít khi thấy học sinh hoặc thầy giáo có mặt, mùa thi đóng tiền, họ cho bài về nhà làm, ai có tiền nộp thì được đậu. Sư cô Từ Tâm, người Việt quốc tịch Mỹ, mở lớp học từ thiện mướn cô giáo bản xứ tốt nghiệp trung học cấp ba đến dạy, chính cô giáo cũng không biết làm toán nhân. Phần lớn trẻ con các vùng xa thất học vì quá nghèo và không có trường công lập; có trường mở ra chỉ để nhận sự giúp đỡ từ người ngoại quốc, mạnh thường quân ra về là trường tự động giải tán. Các tu sĩ Việt Nam mở nhiều trường, phải mướn thầy giáo của họ dạy cho con em họ, thế mà họ vẫn gây khó khăn cho các sư mỗi khi chưa có tiền trả lương. Sư Giác Viên lập Tịnh Xá Kỳ Hoàn cách Khổ Hạnh Lâm gần 10km, đem tiền của từ Việt Nam qua để giúp đồng bào trong làng, khuyến hoá con em đến chùa và độ cho trên mười em xuất gia, bố mẹ muốn gửi con vào chùa để có cái ăn cái mặc, thỉnh thoảng chúng về nhà cả tháng khi có lễ của Hindu, lúc có lỗi bị phạt quỳ nhang, cha mẹ chúng biểu tình phản đối. Xét thấy chúng khó cảm hoá, trả lại nhà, gia đình cũng làm đơn thưa buộc chùa phải nhận lại. Sư Minh Thủy nói có sống gần họ mới biết tại sao họ nghèo khổ, họ không biết đạo đức nhân quả, họ sống theo ngoại đạo mê muội, không biết phải quấy. Họ cúng đất xây Tịnh xá, khi xây xong, họ làm đơn kiện buộc phải bồi thuờng…

Công nhân lãnh lương xong là nghỉ, ăn hết tiền mới trở lại làm việc; họ làm tà tà cho hết giờ chứ không cần xong việc. góp ý chỉnh sửa, họ đều OK, nhưng đâu lại vào đấy. Vì thế chẳng lạ khi thấy các chùa của nhiều quốc gia có mặt mà không chùa nào độ được người bản xứ đi tu. Myanmar, Srilanka, Thái , Việt, Bangladesh, China, Taiwan, Korea…cũng chỉ dành cho những người của Myanmar. Srilanka, Thái, Việt, Bangladesh, China, Taiwan, Korea và một số người Âu châu tu mà thôi. Người bản xứ chỉ đến làm thuê công nhật. Lương lao động rất rẻ, cao nhất là 80 rubi một ngày, tương đương 28 ngàn đồng VN.

Cái chết đối với họ là chuyện quá bình thường, vì thế người chết không cần thân nhân đưa tiển, chỉ vài người khiêng xác trên tấm ván ra đồng đốt, nếu ở xa sông Hằng. Không kèn trống ầm ỷ như VN, không có cảnh thương vay khóc mướn, tẻ nhạt đến độ tàn nhẫn; ngược lại, đám cưới rất rộn rã, nhạc mở suốt ngày, nhà giàu tổ chức phô trương qua các bang lân cận; Nhưng không có cảnh ăn nhậu bia bọt. Họ nằm bừa bãi trên đất hay bất cứ nơi đâu có thể, vì họ quan niệm thân xác nầy cũng là của đất, sẽ trở về với đất.

Họ rất sùng kính tín ngưỡng. Những khu vực xa đền thờ, mỗi chiều, quần chúng tụ tập bên hông nhà, đặt ảnh nữ Thần dưới đất, năm bảy người xúm nhau đọc kinh cầu nguyện. Một tháng không biết bao nhiêu cuộc lễ của tôn giáo. Gần chùa Việt Nam có ao đất sét, nước tù đọng, đục ngầu, hằng ngày người dân địa phương đem áo quần ra đó giặt, trẻ con đến đó phóng uế, trâu bò dê ngựa đến uống, cứ dăm hôm lại có đám rước, chiếc xe đạp đặt tượng nữ thần Mặt Trời làm bằng rơm bọc đất sét, sơn phết rất đẹp và sinh động, máy và loa cũng trên chiếc xe đó, trẻ con và học sinh hơn chục người vây quanh đọc kinh, thoa bột màu trên mặt, hát hò nhảy múa rồi bê tượng nữ Thần xuống ao trấn nước, để nữ Thần ở lại với Hà bá, mọi người lại hân hoan nhảy múa và ra về, Có ngày gần mười đám diễn ra trên ao ước như thế. Họ có gần 10 ngàn vị Thần chính thứcvô số vị Thần bán chính thức tùy theo tập tục của mỗi địa phương, mỗi sắc tộc, Đức Phật Thích Ca là một trong số Thần mà người Hindu tôn thờ. Tuy họ có nhiều chủng tộc, nhưng tiếng Hindi được chọn làm ngôn ngữ phổ thông ngoài tiếng mẹ đẻ, tiếng Anh đứng hàng thứ ba.

Riêng tại khu vực Bồ Đề Đạo tràng, Phật giáo cũng thường tổ chức lễ lộc trong mùa hành hương . Đầu tháng giêng 2009 các sư Tây Tạng luân phiên tổ chức cầu nguyện Hoà bình hơn 10 ngày; cúng dường trai tăng hàng ngàn vị. Bố thí đại trà; Hôm qua đây, cũng tại chùa Tây Tạng cách Bồ Đề Đạo Tràng 50m, một người Việt tổ chức trưng bày ngọc Xá Lợi Phật và nhị vị đại đệ tử Phật cho quần chúng chiêm bái suốt ba ngày, cũng cúng trai Tăng cho tất cả tu sĩ các quốc gia có mặt, đặc biệt chùa Tây Tạng nơi đây hoàn toàn dùng chay. Chính quyền địa phương hổ trợ nhiệt tình cho mọi lễ lộc của Phật giáo. Có những đoàn Việt Nam đến thăm, họ ngạc nhiên số người vãng lai tại Bồ Đề hàng ngày đều tấp nập như lễ hội, nổi cộm vẫn là bóng dáng các tu sĩ Tây Tạng, quần chúng Tây Tạng và người Âu châu tu theo Tây Tạng.

Người Việt đón Tết, ra lẽ Phật tại gốc Bồ Đề trong không gian thanh tịnh, khí lạnh phủ vây; mọi người nhộn nhịp tưởng chừng họ cùng đón Xuân, vì thế kẻ tha hương cũng bớt cảm thấy lẻ loi cô quạnh. Trong chùa, hương vị tết Việt cổ truyền vẫn còn đậm nét trên bánh mứt. Mặt tiền chánh điện ngôi chùa Việt Nam vẫn hướng về đất tổ quê cha, vẫn khóm tre có chim ca hát suốt ngày, xác pháo còn nằm bề bộn một góc trên đất Phật như mọi cái bề bộn của người dân Ấn tồn tại hàng ngàn năm qua. Vẫn thời tiết khắc nghiệt, vẫn những tương phản khó định nghĩa về một đất nước đậm nét Thần linh. Riêng Phật giáo nơi đây, chỉ tồn tại qua những Thánh tích và hình bóng tu sĩ nước ngoài, quần chúng Phật tử so với dân Ấn nó chỉ bằng số không; đạo Phật vẫn tồn tại như sự tồn tại của cổ thụ Bồ Đề trải qua nhiều thăng trầm hủy diệt; cũng thế, cái Tết Việt Nam vẫn tồn tại trong góc thẩm sâu của tâm hồn người Việt xa quê. Những cộng đồng người Việt ở các quốc gia phương Tây dẫu sao còn ấm áp khi Xuân về, nhưng Ấn Độ, hương vị Tết Việt Nam mênh mông bàn bạc như cánh chim lạc bầy giữa khí lạnh mùa Đông. Rất may, nơi đây là Thánh địaĐức Thế tôn đã đắc đạo. Xin cúng dường năng lượng nầy, từ trường nầy về cho những người con viễn xứ Xuân lai.

MINH MẪN
30/01/09

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31298)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10449)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11137)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12620)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10730)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16466)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10735)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22764)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11903)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11407)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10583)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12251)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11094)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9934)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10234)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11792)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10607)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12254)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9701)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11177)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13748)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9504)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12517)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9602)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10331)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10433)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10207)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9796)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10977)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11932)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10074)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10694)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9460)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9815)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8693)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9417)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14434)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8703)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12445)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10328)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8974)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10472)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9234)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8703)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10416)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9066)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8286)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11920)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9627)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10144)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10164)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18967)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9332)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8910)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9490)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8929)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14654)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10016)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8268)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8817)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8881)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8659)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9252)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14449)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8955)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8661)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8963)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10433)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8543)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9909)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24140)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10077)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10946)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8904)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9379)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7938)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9175)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15232)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10244)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9475)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17276)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21201)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12064)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10152)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19085)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25828)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7897)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14658)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10552)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11258)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9425)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18479)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12257)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11791)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10607)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13243)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9896)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9191)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9295)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15717)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant